Chu Long xuất thân là một đại tôn sư võ học. Y đứng đầu Liêu-đông tứ ma. Trước đây hơn hai mươi năm, người em út của y, Vương Hùàng đã đấu với đệ nhất cao thủ triều Hán là Sầm Bành ngang tay. Vì vậy, người ta biết bọn Liêu-đông tứ ma, võ công cao hơn Phùng Dị, Sầm Bành nhiều. Từ khi Mã thái hậu viết thư mời bốn người ra làm quan, mở đầu giữ chức hiệu úy trong cung cấm. Bây giờ, anh em y được gửi giúp Mã Viện đánh chiếm Trường-sa. Mã thái hậu muốn Viện chiếm Kinh-châu, hầu thế lực họ Mã mạnh, để Quang-Vũ phải nể. Trong triều bà khống chế quần thần dễ dàng. Chu được Mã Viện trao cho năm vạn kị binh, bốn vạn bộ binh, đi bọc phía tây hồ, cùng hội quân với Mã ở Trường-sa.
Sau khi xuất quân hai ngày, thám mã báo cho biết quân Lĩnh-Nam đánh tập hậu, chiếm Tam-sơn, Yên-lăng, lương thảo bị đốt sạch. Chu Long kinh hồn. Giữa lúc đó, có tin Mã Viện trúng kế Phật-Nguyệt, sáu vạn thủy quân tan rã. Lĩnh-nam vương Nghiêm Sơn, Bắc-bình vương Đào Kỳ dồn trú năm mươi vạn quân cùng với Phương-Dung, Trưng Nhị, Phùng Vĩnh-Hoa đã có mặt ở Trường-sa. Tuy Chu Long chưa biết lợi hại của năm người, song y đã nghe tướng Hán mỗi khi nói đến năm người, đều kinh tâm động phách.
Y ban lệnh rút quân về bờ sông Trường-giang. Vừa đến đây, thấy khói bốc lên nghi ngút trong rừng, y gửi tế tác dò thám, song cho toán nào đi, mất toán ấy. Y chưa kinh nghiệm cầm quân, vội xua binh đánh mở đường rút lui. Kị binh vừa lên, gặp một đoàn Thần-hổ, Thần-hầu xông ra chặn đường. Ngựa thấy cọp, bỏ chạy tán loạn. Y cho bộ binh tiến lên, dùng cung tên bắn, đoàn Thần-hổ, Thần-hầu, phải rút chạy.
Chu không đuổi theo, truyền rút quân, thì Thần-hổ, Thần-hầu lại đổ ra đánh. Y nổi giận cho quân bao vây đoàn Thần-hổ, Thần-hầu trên cái đồi, thì vừa lúc đó, một đoàn chiến thuyền kéo đến, định đổ bộ, đánh vào sau lưng. Y kinh hoảng, chia quân đánh với đám thủy quân Lĩnh-Nam. Y định cướp chiến thuyền trốn về bắc, không cần cứu Tam-sơn. Không ngờ trên chiến thuyền, Nỏ-thần bắn như mưa. Y hao trên một vạn quân, mà không chiếm được chiếc nào. Bây giờ lại gặp đạo quân Phật-Nguyệt xuất hiện.
Chu Long quan sát mặt trận. Y yên tâm phần nào, vì bên Lĩnh-Nam chỉ có hai vạn quân. Trong khi y có năm vạn kị binh, bốn vạn bộ binh. Tuy trong trận giao tranh vừa qua. Y bị thiệt hại trên hai vạn vừa kị binh, bộ binh.
Y gò cương trước trận hỏi:
– Ta, Chu Long, muốn được đối thoại với chúa tướng Lĩnh-Nam.
Phật-Nguyệt, thủng thỉnh thúc ngựa ra trước trận. Hai tay nàng chắp lại hành lễ:
– Công chúa Phật-Nguyệt, lĩnh ấn Trấn-bắc đại tướng quân, kính cẩn ra mắt Chu tướng quân. Tôi nghe Chu tướng quân võ công kinh thế hãi tục, đứng đầu Liêu-đông tứ vương. Hôm nay hân hạnh được diện kiến.
Chu Long từng nghe danh Phật-Nguyệt. Y cười:
– Ta tưởng Phật-Nguyệt ba đầu, sáu tay thế nào. Hóa ra cũng tầm thường thôi. Thì ra nghe không bằng thấy. Người chỉ có hai vạn quân, liệu mà tránh đường sang một bên, cho ta đi. Bằng không, năm vạn kị binh, bốn vạn bộ binh của ta cùng tiến lên, thì bọn ngươi tan xương nát thịt.
Quách A chỉ sang trận Hán cười:
– Chu tướng quân đã lớn tuổi, mà sao không tự biết mình? Mã Viện hung hăng, sáu vạn thủy, bảy vạn bộ, năm vạn kị vào Tam-sơn, chỉ một trận nhỏ, trên mặt hồ, sáu vạn thủy binh tan. Trại Tam-sơn, ba vạn bộ binh bị diệt hết. Còn Chu tướng quân, xuất chinh năm vạn kị, bốn vạn bộ, chỉ với đoạn Thần-hổ, Thần-hầu, và hơn vạn thủy binh của sư tỷ Đinh Bạch-Nương, tướng quân đã hao tới hơn hai vạn. Phía trước, đường rút không còn. Phía phải, là mặt hồ, Thủy quân Lĩnh-Nam hùng mạnh, thêm mấy dàn Nỏ-thần, đội Thần-ưng. Phía trái, đại quân của Lĩnh-Nam trấn đóng. Phía sau, Bắc-bình vương Đào Kỳ đang từ Trường-sa tới với hai mươi vạn binh. Tôi nghĩ, tướng quân nên hàng đi là phải.
Các tướng Hán nghe Quách A nói, mặt nhìn mặt, ngơ ngác. Chu Long cười:
– Ta nghe nói, xưa kia Vạn-tín hầu Lý Thân, chế ra Lĩnh-Nam kiếm pháp, vô địch thiên hạ. Công chúa Phật-Nguyệt đã học được kiếm pháp đó. Ta muốn lĩnh giáo mấy chiêu.
Phật-Nguyệt dặn nhỏ Quách A, Sún Hô mấy câu, rồi bà quay lại nói với Chu Long:
– Tiểu nữ xin tuân lệnh Liêu-đông đệ nhất vương. Nào mời.
Miệng nói, bà vọt người lên cao. Chân đá gió một cái. Người tà tà đáp xuống trước mặt Chu. Phật-Nguyệt mặc quần áo trắng, dây lưng hồng, từ trên cao đáp xuống, trông như một tiên nữ giáng phàm.
Chu Long rút kiếm nhắm ngực bà đâm. Kiếm lực rít lên vo vo. Phật-Nguyệt không đỡ. Bà đưa kiếm vào cổ đối phương. Chu Long hoảng kinh, lộn người đi hai vòng tránh. Song Phật-Nguyệt cũng lộn theo. Chu vọt người lên cao, thoát khỏi kiếm chiêu của bà, bà cũng vọt người đuổi theo. Ở trên không hai người đấu với nhau hơn mười chiêu, mới rơi xuống đất.
Người ngoài chỉ rhấy hai vòng kiếm bạc bao phủ lấy hai người. Phật-Nguyệt vừa đánh, vừa nghiên cứu kiếm thuật đối phương: Kiếm thuật Chu Long cao hơn Hoài-nam vương, Vũ Chu nhiều. Y lại kinh nghiệm chiến đấu, kiếm pháp của y tinh diệu, không một chút sơ hở. Bà đã dùng hết tuyệt chiêu, y vẫn chống đỡ được.
Đấu với nhau hơn hai trăm hiệp. Phật-Nguyệt đã tìm ra được cách phá kiếm pháp của Chu Long. Song bà muốn kéo dài trận chiến, để Đào vương phi kịp chuyển quân đánh vào hông y.
Giữa lúc đó Quách A cầm tù và thổi lên ba hồi dài. Trâu Đen, Trâu Trắng, Trâu Xanh, Cu Bò cùng cầm cờ chỉ huy Thần-ưng đánh xuống trận Hán. Xích Hầu, Hắc Hổ, cho lệnh Thần-hổ xung vào yểm trợ.
Chu Long vội chém bậy một chiêu, nhảy lui lại dốc chiến.
Quân Hán bị dồn vào cùng đường. Họ quyết tử chiến. Trong khi quân Lĩnh-Nam can đảm, yêu nước, nhất định tiêu diệt giặc. Đoàn bộ binh tiến lên bị Thần-hổ xông vào, đánh lui lại. Trên trời Thần-ưng lao xuống. Có đến năm, sáu ngàn bộ binh Hán tử thương. Phía Thần-hổ, hơn ba mươi con bị chết. Hắc Hổ được lệnh đánh xả láng. Chàng thân cầm dùi thúc trống, nhất quyết không lui. Đoàn Thần-hổ càng bị đánh, càng hăng, xông vào.
Phía bờ hồ, kị binh xung vào trận Đinh Bạch-Nương, bị Thần-ưng đánh từ trên. Nỏ-thần bắn từng loạt. Xác người, xác ngựa chết chồng đống lên nhau. Chu Long đứng sau dốc chiến. Một lữ trưởng kị binh lui lại, lập tức y chém đầu. Kị binh liều chết xông lên.
Giữa lúc đó, quân reo, ngựa hí, đoàn Thần-tượng với đạo quân Đào vương phi đánh vào sườn trái quân Hán. Chu bảo phó tướng:
– Ngươi chỉ huy bộ binh cầm cự. Để ta đánh chiếm chiến thuyền của chúng, cướp lấy một thuyền mà chạy. Bằng không thì chết hết.
Một tay y cầm kiếm, một tay cầm mộc, nhấp nhô mấy cái y đã xung vào giữa trận Đinh Bạch-Nương. Cao Cảnh-Khê dương cung bắn một lúc tám mũi. Chu gạt được sáu. Hai mũi trúng ngựa y. Ngựa đau quá ngã xuống. Chu bỏ ngựa, tiếp tục xông vào trận. Cao Cảnh-Khê bắn liền năm loạt, cũng không cản được. Phút chốc Chu đã đến bờ hồ. Đinh Bạch-Nương nhảy đến, vung kiếm cản. Hai kiếm chạm nhau. Choang một tiếng, kiếm Đinh Bạch-Nương bay vọt lên trời.
Trong khi đó, kị binh xung phong theo sau y. Năm dàn Nỏ-thần bắn liên tiếp. Hết đợt này ngã, đợt khác tiến lên. Phút chốc xác ngựa, xác người chồng chất thành đống, quân tướng Hán kinh hoàng lui lại. Chu vung kiếm chém liền mười người. Chúng sợ hãi tiến lên.
Chu bỏ Đinh Bạch-Nương. Y nhảy lên chiến thuyền chở Nỏ-thần. Hơn mười đệ tử Hoa-lư trấn giữ Nỏ-thần, dùng vũ khí đánh y. Chỉ mấy hiệp, năm người đều bị giết. Phía sau y, một đoàn võ sĩ, đánh mở được một đường. Chúng cũng tràn xuống chiếm mất mười chiến thuyền. Trong đó có năm chiến thuyền chở Nỏ-thần.
Thấy Nỏ-thần bị chiếm, Trâu Đen kinh hãi nghĩ: Nếu bọn Hán chiếm được Nỏ-thần, ắt chúng theo đó chế ra, đánh lại Lĩnh-Nam thì nguy. Nó cầm tù và thổi, gọi Thần-ưng nhào xuống đánh xả láng. Thần-ưng không còn lao xuống đánh rồi vọt lên nữa, mà xung vào mổ mắt, cấu mặt đội võ sĩ Hán.
Chu-Long thấy, một thiếu niên đứng trên cột buồm chỉ huy Thần-ưng. Y nhấp nhô mấy cái, đã đến thuyền Trâu Đen. Kiếm lóe lên. Hơn chục Thủy-thủ rơi đầu. Y vung chưởng hướng cột buồm, Trâu Đen đang đứng trên đó chỉ huy. Binh một tiếng. Cột buồm gãy, từ từ đổ nghiêng xuống hồ.
Thần-ưng thấy chúa tướng lâm nguy, vội vã lao xuống tấn công Chu-Long. Chu-Long quả xứng với võ công đệ nhất Trung-nguyên, y múa tít đao đánh dạt Thần-ưng, rồi nhảy đến chụp Trâu Đen. Trâu Đen bỏ cột buồm, nhảy xuống hồ. Chu-Long nhặt một thanh đao trên sàn thuyền phóng theo. Người nó đứt làm hai đoạn. Đoàn Thần-ưng không người chỉ huy. Bay vọt lên cao.
Đám võ sĩ của Chu-Long đánh vỡ mặt trận phía bờ hồ của Đinh Bạch-Nương, làm tê liệt năm dàn Nỏ-thần, Chu đứng ở mũi thuyền, chỉ huy quân chống trả với đạo binh Đào vương phi.
Quách A đang đứng tổng chỉ huy phối hợp các đạo quân Tây-vu, nàng thấy đoàn Thần-ưng củaTrâu Đen bay lên cao. Chúng kêu lên những tiếng bi thương thảm não, thì nó lành ít dữ nhiều. Nàng vội cầm cờ phất gọi chúng lại, thay thế Trâu Đen chỉ huy đoàn Thần-ưng của nó.
Các chúa tướng Tây-vu thấy tình trạng đoàn Thần-ưng của Trâu Đen, họ biết nó đã tử trận. Tình đồng môn sống dậy. Họ cùng xua quân đánh xả láng. Đào vương phi đánh như vũ bão. Quân Hán kinh hoàng, bỏ trận tuyến, đánh thục mạng, mở đường máu ra phía bờ hồ.
Giữa lúc đó có tin Thần-ưng báo: Đạo quân Hán gồm ba vạn kị, sáu vạn bộ, đã đổ bộ vào Tam-sơn, đang đánh dọc bờ Đông hồ Động-đình tiến về Trường-sa, đạo này do Ngô Anh chỉ huy. Ngô Anh với Chu Tái-Kênh, Quách Lãng đang giao chiến bất phân thắng bại.
Còn ba vạn thủy quân của Lưu Long đã rời Tam-sơn tiến về nam, đang giao chiến ác liệt với Đinh Tĩnh-Nương.
Phật-Nguyệt đứng trên cao cầm cờ dốc chiến. Bà hô lớn:
– Các chiến sĩ anh hùng Lĩnh-Nam nghe đây. Chúng ta phải tiêu diệt đạo quân Chu Long. Không để một tên chạy thoát.
Bà phất cờ, cho Đinh Bạch-Nương lui lại, nhường bờ hồ, cho chiến thuyền Chu Long có đường tháo chạy. Thủy quân của Đinh Bạch-Nương chưa quá một vạn đã bị kị binh, bộ binh Hán đánh thục mạng, đành lui lại phía sau. Nhưng các dàn Nỏ-thần vẫn xạ kích binh Hán từng đợt từng đợt ngã xuống.
Chu Long thấy quân Lĩnh-Nam đánh dữ quá. Y ra lệnh cho một số tướng sĩ cùng rút xuống chiến thuyền chiếm được của Đinh Bạch-Nương, nhổ neo ra khơi. Có tất cả hai mươi chiến thuyền rút chạy, trên chở khoảng một vạn người.
Đám kị binh, bộ binh còn lại, thấy chúa tướng chạy, đồng bỏ vũ khí qui hàng. Phật-Nguyệt nhờ Đào vương phi ở lại tiếp nhận tù binh. Bà cùng Đinh Bạch-Nương, Tiên-yên nữ hiệp, dẫn Quách A, Sún Hô, Cu Bò, Trâu Trắng, Trâu Xanh xuống chiến thuyền đuổi theo.
Phật-Nguyệt bảo Cu-Bò:
– Em gọi một Thần-ưng đưa thư cho chị.
Thần-ưng đưa thư tới.
Bà viết mấy chữ, truyền lệnh cho Trần Quốc-Dũng đem thủy quân chặn đầu, đánh không cho Chu Long rút ra Trường-giang.
Bà truyền chiến thuyền đuổi theo thực gấp. Trên các cột chiến thuyền, Quách A, Sún Hô, Cu Bò, Trâu Trắng, Trâu Xanh cầm tù và, cờ chỉ huy Thần-ưng tiếp tục đánh trên đầu chiến thuyền rút chạy của Chu Long. Bọn Chu Long chia người làm hai. Một nửa chèo thuyền. Một nửa chống với Thần-ưng.
Hai bên, một đuổi bắt giặc trả thù. Một bên chạy lấy sống. Đến giữa hồ, thì phía trước một đoàn chiến thuyền Lĩnh-Nam dàn hàng ngang chặn mất đường.
Chu Long nói với tướng sĩ:
– Phía trước có quân chặn. Phía sau có quân đuổi. Phải tử chiến mới hy vọng sống.
Đoàn chiến thuyền Chu Long xung về trước. Các tướng Hán cũng liều chết tử chiến. Đoàn thuyền Lĩnh-Nam của Trần Quốc-Dũng bao vây hai mươi chiến thuyền Chu Long. Y dùng kiếm, đánh dạt thủy thủ Lĩnh-Nam tìm đường chạy. Song chỉ một mình chiến thuyền y thoát vòng vây, chạy về phía núi Quân-sơn. Quân sĩ trên các chiến thuyền còn lại đầu hàng.
Phật-Nguyệt truyền lệnh thu quân. Không đuổi theo. Cao Cảnh-Khê than:
– Nguy quá. Trên chiến thuyền của Chu Long chở một dàn Nỏ-thần. Chúng ta để y chạy thoát. Trở về, Hán sẽ chế Nỏ-thần đánh chúng ta, thì nguy tai.
Đinh Bạch-Nương cầm kiếm chỉ về trước nói:
– Tôi là Đô-đốc, để giặc cướp chiến thuyền, làm lộ cơ mật Nỏ-thần, tôi mang tội nặng với Lĩnh-Nam. Tôi xin đuổi theo.
Bà truyền năm chiến thuyền đuổi theo. Cu Bò nhảy sang chiến thuyền của bà. Nó cầm tù và gọi Thần-ưng trực thuộc theo yểm trợ. Chỉ một lát Đinh Bạch-Nương đuổi kịp chiến thuyền Chu Long. Cả năm chiến thuyền cùng bao vây chiến thuyền của y.
Chu Long đứng trên mũi thuyền tả xung hữu đột. Song chỉ một lát, trên thuyền y, bao nhiêu tướng sĩ đều chết hết. Y hoảng kinh, vọt người lên cao, nhắm đầu Đinh Bạch-Nương phóng một chưởng. Đinh Bạch-Nương vung chưởng đỡ. Bình một tiếng. Người bà bật tung lại sau. Cu Bò thấy vậy, thúc Thần-ưng xúm vào tấn công Chu Long. Chu Long tuy gặp đường cùng, song y vẫn múa tít kiếm bảo vệ thân mình. Quách A đã tới kịp. Nàng mở cái túi trên lưng, thả trăn xuống sàn thuyền, huýt sáo ra lệnh. Cu Bò biết ý Quách A. Nó thúc Thần-ưng đánh Chu Long thực rát. Chu Long đang mải đánh với thần ưng, y cảm thấy như chân bị dây trói, kinh hoàng y nhảy lên ca. Y nhìn chân : Có hai, rồi ba, rồi bốn sợi dây quấn chặt lấy y. Bất giác y toát mồ hôi lạnh, vi không phải dây mà là trăn. Y nghiến răng vận công giật mạnh. Ghê cho kình lực của y. Bốn con trăn bị đứt đôi. Chu Long thoát khỏi.
Quách A chợt nhớ đến một việc. Nàng cầm ống tre bên mình, mở ra, miệng huýt sáo. Hơn trăm con ong bầu bay ra. Chúng xúm lại bu trên người Chu Long. Chu Long biết Quách A thả ong đốt y. Y vọt người tới, đánh một chưởng trên người nàng. Biết chưởng đó trúng Quách A, ắt nàng tan xương nát thịt, Đinh Bạch-Nương vội nhào theo, một tay ôm Quách A,một tay nhả chưởng vứu nàng. Bình một tiếng. Cả Quách A, lẫn Đinh Bạch-Nương bay vọt về sau đến hai trựơng, rơi trên sàn thuyền.
Chu Long không tha, y phóng theo một chưởng.
Giữa lúc đó, một quân nhân Hán, từ trong chiến thuyền vọt người lên tấn công Chu Long. Chưởng của y hùng mạnh vô cùng. Chu Long kinh hoàng, vung chưởng đỡ. Binh một tiếng. Cả hai cùng bật lùi lại.
Không những Chu Long, mà cả Đinh Bạch-Nương cũng kinh ngạc. Nào ai ngờ, trong hàng ngũ quân Hán còn có người võ công cao ngang với Chu.
Hai người thi diễn cuộc đấu trên chiến thuyền.
Phật-Nguyệt, Đào vương phi cũng đã tới. Bà truyền các chiến thuyền Lĩnh-Nam lùi lại, bao vây chiến thuyền Chu Long như thành đồng vách sắt. Đinh Bạch-Nương hỏi Đào vương phi:
– Thưa cô! Con tưởng trên đời này chỉ có anh Kỳ, hay Khất đại phu mới có chưởng lực đấu ngang tay với Chu Long. Không ngờ, trong hàng ngũ quân Hán, còn có người võ công cao đến thế kia. Người này dùng võ công Cửu-chân. Trong môn phái mình, sao lại còn một cao nhân như thế?
Đào vương phi nhận ra người đấu với Chu Long, chính là người từng nhập bản dinh Bát-Nàn công chúa Vũ Trinh-Thục báo cho nhiều tin tức. Cũng người này từng đánh bại Lê Đạo-Sinh ở cổng bắc thành Luy-lâu. Bà nghe Phật-Nguyệt nói, hôm hội quân ở Phiên-ngung, người này xuất hiện, cung cấp tin tức Hán cho Trưng đế, Đào Kỳ. Ông đấu với Đào Kỳ, hai bên ngang tay, Trưng đế hỏi tên ông. Ông tỏ ý buồn bã rằng mình là người vô dụng... Bà đã nghĩ nát óc, mà không tìm ra một chút ánh sáng về nguồn gốc cao nhân Cửu-chân này.
Bà nhìn trận đấu. Chưởng lực của cao nhân Cửu-chân với Chu Long ngang nhau. Bà nói với Đinh Bạch-Nương:
– Dù anh Kỳ có mặt ở đây, chưa chắc đã thắng được Chu Long. Vì cả hai bên cùng luyện tới mức tối cao của võ học. Chu Long công lực mạnh, lại kinh nghiệm chiến đấu. Cao nhân cũng kinh nghiệm. Ta e, trận đấu này sẽ kết thúc, khi một trong hai người sơ xảy. Nếu không, cả hai cùng kiệt lực.
Bỗng Chu Long nhảy lui lại hỏi:
– Ngươi là cao nhân Lĩnh-Nam, thân phận ngươi không tầm thường. Ta e lão già chưa chết Trần Đại-Sinh, với tên ôn con Đào Kỳ cũng không hơn ngươi. Tại sao ngươi phải che mặt? Tại sao ngươi phải giả làm quân Hán?
Người bịt mặt cười gằn:
– Ta bịt mặt, vì ta không muốn cho bậc con cháu Lĩnh-Nam thấy bản mặt vô dụng của ta. Ta... ta đã từng khởi binh đánh Hán, bị thất bại. Còn mặt mũi nào nhìn thấy con em Lĩnh-Nam nữa?
Miệng nói, hai người vẫn đấu với nhau bằng những chiêu sát thủ kinh khủng. Bỗng người bịt mặt quát lớn một tiếng. Ông phát ra một chiêu mạnh kinh người. Đào vương phi kêu lên:
– Hải triều lãng lãng.
Chu-Long vung chưởng đỡ. Bình một tiếng. Cả hai cùng lùi lại.
Đào vương phi nói:
– Chu Long chết đến nơi rồi.
Bà bảo Đinh Bạch-Nương:
– Con xem: Công lực hai người ngang nhau. Cao nhân nhà mình dùng võ công Cửu-chân, khắc chế với võ công Trung-nguyên, thì Chu phải thua..
Bên thuyền bên kia, cao nhân bịt mặt đã đánh lớp thứ ba. Chu Long bật lùi lại phía sau thuyền, thì lớp thứ tư đến. Binh một tiếng. Chiến thuyền bị vỡ làm đôi. Chu Long bay vọt ra xa, rơi xuống hồ. Người bịt mặt nhảy theo. Cả hai người bị chìm dưới đáy hồ. Không hiểu những gì xảy ra dưới nước. Sóng hồ nổi lên cuồn cuộn.
Lát sau, ầm một tiếng. Cao nhân túm tóc Chu Long vọt lên đầu chiến thuyền, liệng y xuống.
Quách A trói lại.
Đào phu nhân vẫy Đinh Bạch-Nương, Đào Quí-Minh, Sún Hô, Cu Bò cùng quì gối hành lễ:
– Bọn hậu bối phái Cửu-chân xin bái kiến cao nhân tiền bối.
Người bịt mặt thở dài:
– Các ngươi đứng dậy đi thôi. Các ngươi thành công, thành anh hùng. Ta, ta tuy lớn vai hơn các người, mà trở thành người vô dụng. Ta thực không xứng đáng.
Cu Bò tiến lên chắp tay nói:
– Tiền bối không chịu cho chúng cháu xem mặt, biết tên, chúng cháu không dám nói rằng tiền bối đúng hay sai. Có điều tiền bối vừa nói với Chu Long rằng tiền bối từng khởi binh chống Hán. Chắc tiền bối khởi binh bị thất bại. Tiền bối tự cho mình thành người vô dụng. Cháu không phục.
Người bịt mặt cười:
– Bé con. Cháu không phục ta ở điểm nào?
Cu Bò đáp:
– Cháu không phục tiền bối ở điểm tiền bối cho rằng mình thành người vô dụng. Tiền bối ơi! Phàm anh hùng, chỉ cần có chí lớn. Tiền bối khởi binh đánh Hán, từ đó đã thành anh hùng rồi. Anh hùng đâu cần phải thành công? Cháu nhớ dường như tục ngữ nói: Đừng đem thành bại luận anh hùng. Tiền bối ơi! Tiền bối có chí khởi binh đã thành anh hùng rồi. Tiền bối thực hiện cái chí, phất cờ khởi binh, trở thành đại anh hùng. Thế mà tiền bối không tự biết mình, cháu mới không phục.
Người bịt mặt bế bổng Cu Bò dậy, ông hôn lên trán nó:
– Cháu bé nói phải. Ta ngu quá.
Ông gọi Phật-Nguyệt:
– Cháu đoán được ta là ai chưa?
Phật-Nguyệt kính cẩn đáp:
– Cháu nghe tiếng tiền bối rất quen. Nhất là hai vai, với lưng.
Người đó vẫy Phật-Nguyệt lại gần:
– Cháu lại đây. Ta cho xem mặt.
Phật-Nguyệt lại bên cạnh. Người đó mở khăn ra. Phật-Nguyệt la lên một tiếng kinh ngạc:
– Úi cha! Không bao giờ cháu ngờ tới.
Người đó nói nhỏ vào tai Phật-Nguyệt mấy câu. Phật-Nguyệt gật đầu, kính cẩn nói:
– Cháu xin giữ kín.
Bà truyền Quách A chỉ huy một chiến thuyền, đưa cao nhân vào bờ.
Phật-Nguyệt truyền lệnh thu quân. Bà nói với Đào vương phi, Đinh Bạch-Nương:
– Sư bá với Bạch-Nương ở nhà giữ Tam-sơn. Cháu sợ quân Hán bên kia sông đổ sang đánh tập hậu. Cháu đi tiếp viện sư bá Chu Tái-Kênh.
Đào vương phi nói:
– Không nên! Cháu hiện cầm vận mệnh khu Trường-sa, Linh-lăng, hồ Động-đình. Cháu cần phải trấn giữ trên hồ. Để ta, Quí-Minh, Bạch-Nương đi được rồi.
Vừa lúc đó thám mã báo:
– Có một đạo quân, rất hùng tráng, khoảng năm vạn người, đang tiến từ Trường-sa đến hồ Động-đình. Song chưa rõ là đạo quân nào?
Đào Quí-Minh ngơ ngác hỏi Phật-Nguyệt:
– Sư tỷ, chúng ta dốc toàn bộ quân mã về đây. Vậy đạo này chỉ có thể là quân Hán, đã vượt sông, đánh bọc hậu bọn ta mà thôi.
Phật-Nguyệt muốn sai Thần-ưng thám sát, bà lên tiếng gọi Quách A, Sún Hô, thì hai người đang cùng Trần Quốc-Dũng, Cao Cảnh-Khê, thu nhặt tử thi chiến sĩ. Bà truyền gọi Cu Bò, Trâu Xanh, Trâu Trắng, thì chúng đang... ăn.
Một lát ba đứa vào. Miệng đang nhai nhồm nhoàm, tay mỗi đứa còn cầm một con gà quay, đã ăn một nửa. Phật-Nguyệt vốn nhu nhã, khoan hòa, đứng trước nguy cơ một mất một còn của đất nước. Bà vẫn bình tĩnh, bảo Cu Bò:
– Em cho Thần-ưng thám thính xem đạo quân từ Trường-sa đến đây là của Mã Viện hay của Đoàn Chí?
Trong khi các tướng soái, Phật-Nguyệt, Đào vương phi, Tiên-yên nữ hiệp lo sợ cuống cuồngï, thì Cu Bò vẫn ăn uống nhồm nhoàm ỉnh bơ.
Đào Quí-Minh quát:
– Quân lệnh, phải thi hành ngay. Sư đệ còn ngồi ăn được ư?
Cu Bò nhìn Trâu Trắng, Trâu Xanh. Ba đứa cùng cười. Nó táp hết miếng thịt gà rồi mới nói:
– Em nghe sư tỷ Đào Phương-Dung nói, trong các đệ tử Đào gia, sư huynh Đào Quí-Minh nhu nhã, ôn tồn, bình tĩnh nhất, tại sao hôm nay nóng tính, dữ dằn hơn sư tỷ Hồ Đề nữa. Bọn em đang ăn, phải cho nuốt đã chứ?
Thấy tình hình nguy hiểm đến trước mắt, mà bọn Cu Bò cứ dềnh dàng mãi. Đào vương phi bảo nó:
– Con thi hành lệnh ngay.
Cu Bò không dám đùa với sư bá. Nó méo mặt, lè lưỡi trêu Đào Quí-Minh, chỉ lên trời nói:
– Phàm làm tướng soái, phải biết hết khả năng, thói quen tật xấu của hạ cấp. Sư huynh làm tướng của em, mà không biết chúng em tý nào. Trước đây Trâu Đen làm sư trưởng Thần-ưng, nó có trách nhiệm canh phòng trên không phận. Nay Trâu Đen tử trận. Em đương nhiên thay thế nó. Em phải có trách nhiệm chứ? Lúc nào em cũng duy trì Thần-ưng trên khu vực Tam-sơn, bờ sông Trường-giang, trên mặt hồ Động-đình và thành Trường-sa. Đừng nói quân giặc, đến một con chồn, con cáo chạy trong khu vực bọn em cũng biết.
Mọi người nghe Cu Bò nói, cùng ngửa mặt nhìn lên. Quả nhiên các nơi đều có Thần-ưng bay lượn. Đào vương phi nhận Lục Sún làm đệ tử, bà hiểu đám tướng lĩnh Tây-vu nhiều hơn. Bà gật đầu nói với Quí-Minh:
– Con đừng lo. Các em tuy nó đùa nghịch suốt ngày, nhưng tự biết trách nhiệm như người lớn, không trễ nại việc tuần phòng.
Cu Bò nói:
– Sư bá nhìn về phía Trường-sa mà xem. Sư bá suy nghĩ kỹ, sẽ biết tại sao bọn con bình tĩnh ăn uống.
Đào vương phi nhìn về Trường-sa, thấy đội Thần-ưng bốn con bay lượn khoan thai, nhịp nhàng. Bà hiểu ra:
– Sư bá hiểu rồi. Thì ra đạo quân đó từ Linh-lăng tới. Thần-ưng tuần phòng nhận ra người nhà. Nó đang dẫn đường cho viện quân tới mặt trận.
Đào Quí-Minh như cất được gánh nặng. Ông bảo Cu Bò:
– Em nói đúng. Ta mới gặp em. Ta quên rằng đệ tử Tây-vu, là con cháu An-Dương vương, dù nhỏ, dù lớn, dù già cũng có đại tài. Ta không thẹn, mà thế phụ thân ta nhận em làm đệ tử.
Phật-Nguyệt đứng lên nói với Đào vương phi:
– Xin sư bá suất lĩnh Quí-Minh, Bạch-Nương, Cu Bò, Trâu Xanh, Trâu Trắng tiếp viện Đinh Tĩnh-Nương.
Đào vương phi đeo kiếm đứng dậy. Bọn Cu Bò vọt người leo lên đỉnh các cột buồm. Tay cầm cờ phất liên tiếp. Thần-ưng nượp nượp bay theo.
...
Vi Lan tuân lệnh Phật-Nguyệt, nàng dẫn trăm nữ đệ tử Tây-vu, dùng thuyền vượt hồ Động-đình, đến Quân-sơn. Vi Lan đang ở tuổi mười sáu, mười bảy, tuổi của con gái dậy thì về cơ thể, về tư tưởng. Nàng sống ở Tây-vu với Hồ Đề, Quách A từ nhỏ, nên cũng như các đệ tử khác, đùa nghịch hồn nhiên. Nàng mới mười sáu tuổi được làm sư trưởng Thần-long, thống lĩnh trăm thiếu nữ. Hàng ngày nàng được đặt dưới quyền Đào Ngũ-Gia, luyện tập, phối hợp giữa đám sư Tây-vu với nhau. Bây giờ, trong trận giặc lớn, Phật-Nguyệt giao cho nàng trọng trách quấy phá, đốt lương. Hơn nữa nàng còn được thống lĩnh cả sư Thần-ngao của Vi Đại-Nham.
Thuyền ghé Vân-khê, nằm giữa cửa hồ Động-đình thông với Trường-giang. Nàng truyền cho đoàn Ngao-thần đổ bộ. Còn Thần-long vẫn để dưới thuyền.
Nàng dặn mấy người phụ tá, trông coi cẩn thận. Nàng cùng Vi Đại-Nham đi quan sát trận địa. Sau khi nghiên cứu kỹ. Nàng bàn với Vi Đại-Nham:
– Lão bá thử nghĩ xem, cháu đoán có cúng không nghe. Nếu Lưu Long đem quân đến, tất y đổ bộ đại quân lên bờ phía đông hồ, tức vùng Đào-lâm. Còn lương thảo, chứa ở bắc hồ Động-đình. Vì vùng này hai mặt sông, một mặt hồ, một mặt rừng, khả dĩ bảo đảm an ninh kho lương thực.
Vi Đại-Nham gật đầu:
– Cháu bàn đúng. Đạo quân này có hai đại tướng Ngô Anh, Lưu Long. Ngô Anh đứng hàng thứ nhì trong Liêu-đông tứ ma, võ công kinh nhân. Chắc y đi đường bộ. Còn Lưu Long vốn thông thạo thủy chiến, y sẽ đi đường thủy.
Vi Lan tiếp:
– Bọn tướng Hán, đều do đại ca Trần Tự-Sơn đào tạo ra. Chúng làm việc có kế hoạch, phối hợp nhịp nhàng. Đạo thứ nhất Mã Viện đi đường thủy. Chu Long đánh vòng bờ tây của hồ. Chắc chắn chúng sẽ xuất phát cùng một lúc. Kế hoạch sư tỷ Phật-Nguyệt đưa ra: Chúng ta đợi thủy quân, bộ binh, kị binh xuất phát hết, lập tức đột nhập trại, đốt lương thảo. Lúc thủy quân Hán đang giao chiến, thấy lương bị đốt tất rối loạn. Lưu Long sẽ cho bộ binh, kị binh vội trở về cứu viện. Bấy giờ lão bá Chu Tái-Kênh, sư huynh Quách Lãng mới chặn đường về của chúng. Cái khó khăn của chúng ta, làm sao hoàn thành nhiệm vụ trong vòng nửa buổi. Cái khó khăn của lão bá Chu Tái-Kênh, là chỉ với ba vạn bộ, hai vạn kị, đánh tiêu diệt ba vạn kị, sáu vạn bộ của Hán.
Vi Đại-Nham đề nghị:
– Cháu chia Thần-long làm trăm toán. Do trăm người điều khiển, chúng ta tạm ẩn thân trên núi Quân-sơn. Đợi khi chúng đóng trại xong, sẽ chỉ định toán tấn công từng khu. Chỉ cần sao, trong đêm tối, mỗi Thần– long cắn ba tên quân, thì một giờ sau, vạn rưỡi quân Hán chết hết, ta sẽ xua đoàn Thần-ngao vào chiếm trại.
Hai người, một già, một trẻ. Một chân thật, một ngỗ nghịch, hợp tính nhau. Họ cho đổ bộ đoàn Thần-ngao, Thần-long lên núi Tam-sơn. Họ mang theo mười Thần-ưng, trinh sát.
Hai người thay phiên nhau, lên đỉnh núi cao sai Thần-ưng quan sát. Chiều hôm sau, Thần-ưng báo: Phía nam có quân bạn tới. Quả nhiên lát sau, một chiến thuyền từ từ tiến lại. Vi Lan ra lệnh cho Thần-ưng hướng dẫn thuyền vào bờ hồ, gần chỗ nàng đóng quân.
Nàng vội vàng xuống tiếp đón, thì ra Đinh Tĩnh-Nương phái Trần Quốc Dũng dẫn đội Giao-long Thiên-trường hơn trăm người tới, nhiệm vụ của ho là, phải phối hợp với Vi Lan, Vi Đại-Nham đợi khi thủy quân Lưu Long đến, thì đội Giao-long bí mật lặn xuống đáy hồ, đục chiến thuyền Hán.
Vi Đại-Nham lắc đầu:
– Không ổn rồi. Nếu các cháu đục thuyền, dĩ nhiên bao nhiêu chiến thuyền chìm hết. Hơn ba vạn thủy binh giặc biến thành bộ binh, ta làm sao địch lại chúng mà đốt lương thảo?
Trần Quốc-Dũng cười:
– Sư bá yên tâm. Chúng cháu không đục thủng thuyền đâu. Trước đây trong trận Độ-khẩu chúng cháu đã thành công rồi: Dùng dao, vận thủ kình đục đáy thuyền, chỉ đục nhớm, gần xuyên qua, thì ngưng lại. Chúng cháu đục thành lỗ lớn như cái mâm, giữa đóng một chốt thực lớn. Đầu chốt buộc một sợi dây. Đợi khi hai bên đang giao chiến, chúng cháu lặn xuống, giật mạnh sợi dây, lập tức đáy thuyền lủng lỗ lớn. Bao nhiêu thủy quân biến thành tôm cá hết.
Trần Quốc-Dũng cho chiến thuyền chuyên chở đội Giao-long binh về phía nam, để địch tới, không thấy vết tích gì.
Vi Lan hỏi Trần Quốc-Dũng:
– Anh Dũng à! Em hỏi anh câu này nghe: Làm cách nào các anh có thể lặn dưới nước lâu hàng giờ? Không lẽ có thứ nội công, khiến người ta lặn dưới nước như tôm cá hay sao?
Trần Quốc-Dũng thấy cô em xinh xinh, thông minh, chàng vui vẻ đáp:
– Làm gì có thứ võ công nào lặn lâu dưới được như vậy? Chúng tôi sống ở Thiên-trường, đồng ruộng nước ngập mênh mông, riết rồi chế ra thứ võ công bơi lội giỏi. Như em, lặn dưới nước, mở mắt ra, sẽ thấy cay mắt. Ngược lại, bọn tôi đi dưới nước, mở mắt ra nhìn rõ mọi vật như đi trên bờ. Mỗi đứa chúng tôi dắt trong mình hai hay ba ống sậy. Các ống sậy đã được đục thủng đầu mặt. Chúng tôi lặn dưới nước, khi ngộp hơi, trồi lên gần sát mặt nước, cho ống sậy vào miệng, ngậm lấy, chía lên mặt nước, mà thở. Sau khi thở đầy hơi ngực, lại nín hơi, lặn xuống đáy nước tiếp. Chúng tôi luyện tập riết rồi thành quen. Cũng như các em luyện Thần-long vậy.
Vi Lan phát cho tráng sĩ Giao-long mỗi người một cái túi nhỏ, trong đựng cỏ khô rất thơm. Nàng dặn:
– Các anh phải bỏ cái túi này vào người. Nếu không, rắn sẽ cắn chết.
Vi Lan thấy đội Giao-long chỉ mang gạo, mà không mang theo thức ăn. Nàng ngạc nhiên hỏi:
– Các anh biết tiết kiệm quá há! Chỉ ăn cơm không thôi sao?
Trần Quốc-Dũng phì cười:
– Chúng tôi cũng như đạo binh Tây-vu. Em dùng Thần-ưng, Thần-ngao săn thú hoang làm thức ăn. Còn chúng tôi, chúng tôi lặn xuống nước bắt tôm, cá, nấu nướng ăn.
Chiều hôm đó, Trần Quốc-Dũng mời đệ tử Tây-vu cùng ăn chung. Chàng cho đội Giao-long binh lặn xuống hồ bắt cá. Họ luyện tập dưới nước lâu ngày, đừng nói bắt tôm, bắt cá, dù bắt cả thủy quái, giao long họ cũng làm được. Họ lùa bắt những con cá chiều dài từ hai gang trở lên, tươi béo, đem nướng ăn. Trong khi đó, đệ tử Tây-vu đem thịt nai, thịt gà rừng ra nướng.
Vi Lan ngồi cạnh Trần Quốc-Dũng. Nàng cứ luôn miệng hỏi hết cái này, đến cái kia. Quốc-Dũng thấy trong cô bé Vi Lan, có cái thông minh, ngỗ nghịch, kèm theo cái hồn nhiên, chân thực của núi rừng. Chàng xuất thân là con trai đệ thất thái bảo phái Sài-sơn, bác học, hiệp nghĩa nức tiếng thiên hạ. Vi Lan ngược lại, không biết cha mẹ là ai. Hai tâm hồn cùng gặp nhau ở một điểm: Yêu nước, hy sinh vì nước.
Quốc-Dũng hỏi về cách điều khiển Thần-long. Vi Lan cho biết, nàng dùng một thứ ống tre thổi lên. Có tất cả ba mươi sáu điệu nhạc, ra lệnh cho Thần-long thi hành ba mươi sáu động tác khác nhau. Nàng cầm ống tre thổi biểu diễn. Đám đệ tử Thiên-trường, xuất thân phái Sài-sơn tinh thông âm nhạc. Chỉ cần Vi Lan thổi một lần thôi, là họ bắt chước thổi được liền. Vi Lan thích quá. Nàng nói:
– Như vậy, các anh có thể thay bọn em chỉ huy Thần-long được rồi.
– Như vậy, các anh có thể thay bọn em chỉ huy Thần-long được rồi.
Giữa đêm hôm đó, Thần-ưng báo, có chiến thuyền xuất hiện phía Nam sông Trường-giang. Vi Lan leo lên đỉnh ngọn cây cao chót vót quan sát. Nàng leo nhanh như vượn, làm Trần Quốc-Dũng kinh ngạc không ít. Nàng nói vọng từ trên xuống:
– Chiến thuyền nhiều quá. Chúng chia làm ba đoàn, mỗi đoàn trăm chiếc, toàn thứ lâu thuyền lớn, mỗi chiếc chở được đến hơn ba trăm quân.
Nàng đứng trên cây. Mỗi biến chuyển lại báo xuống dưới cho Trần Quốc-Dũng, Vi Đại-Nham biết. Sang canh hai, đoàn chiến thuyền đỗ vào cửa sông, thông với hồ Động-đình.
Đến sáng, quân Hán đã đổ bộ xong. Trần Quốc-Dũng khen Vi Lan:
– Em tôi giỏi quá! Đúng như em ước tính, bên kia Đào-lâm, bộ binh, kị binh đã đổ bộ xống. Còn bên này chúng đổ lương thảo. Còn thủy quân, đóng ở bắc hồ. Chúng ở dưới hồ, đâu ngờ, chúng ta đang ở trên núi Quân-sơn quan sát, sắp ăn thịt chúng.
Trần Quốc-Dũng viết thư báo cáo tình hình, gửi cho Quách Lãng. Đinh Tĩnh-Nương. Chàng nhờ Vi Lan sai Thần-ưng mang đi dùm.
Chàng họp đoàn tráng sĩ Giao-long tường trình về vị trí thủy trại của Lưu Long, ra lệnh:
– Tình thế này, có lẽ chúng nghỉ ngày mai., hay đêm mai chúng sẽ xuất phát. Đêm nay chúng mới đến, chúng ta phải đục thuyền cho kịp. Thế thường, quân mới di chuyển tới, mệt mỏi, chúng ngủ rất say. Ta hành động không bị lộ. Nếu để đêm mai, lỡ chúng khởi hành từ chập tối, thì hỏng hết kế hoạch. Từ đây xuống thủy trại, có bốn dốc núi. Chúng ta bám núi mà đi xuống. Thủy trại đóng làm bốn khu khác nhau. Chúng ta đục từng khu một. Chúng ta có một trăm người, trong khi Hán có ba trăm bốn mươi chiến thuyền. Mỗi người phải đục đến bốn chiến thuyền.
Trần Quốc-Dũng dẫn đoàn tráng sĩ Thiên-trường lên đường. Trong khi đó Vi Lan cùng Vi Đại-Nham truyền từ cành cây này sang cành cây khác quan sát chỗ chứa lương thảo của Hán. Nàng đứng trên chót một ngọn cây, gió hồ thổi ào ào. Dù có nói lớn, quân bên dưới cũng không nghe thấy.
Kho chứa lương thảo chia làm hai khu rõ rệt. Một khu nằm dựa dưới chân núi Quân-sơn, có hai mươi dãy. Một khu sát bờ hồ, gồm hai mươi dãy nữa. Xung quanh trại có mười trạm canh. Ở giữa có bốn dãy trại, dường như chỗ quân canh ở.
Vi Lan tìm ra được hơn mười đường đi từ đỉnh núi xuống tấn công kho lương. Đường đi của nàng không bằng lối đi thông thường, mà bằng lối truyền cành cây như vượn. Còn Thần-long, sẽ trườn dưới các bụi cây. Nàng cũng tìm ra hơn hai mươi đường đi cho đội Thần-ngao.
Trở về nàng chỉ cho các tướng toán Thần-long, Thần-ngao biết rõ vị trí đổ dốc của họ, nàng chia nhiệm vụ từng toán một.
Trời gần sáng, đoàn Giao-long Thiên-trường đã trở về. Người nào cũng mệt nhoài, vì trải qua một công tác căng thẳng, nguy hiểm, khó khăn. Họ đặt mình là ngủ liền.
Suốt ngày hôm sau, đoàn chiến thuyền Hán không ngớt chuyền trở lương đến, chất như núi dưới chân Quân-sơn. Trần Quốc-Dũng than:
– Lương thảo thế kia, mà đốt đi thực tiếc. Song không đốt không được. Có đốt lương, địch mới nản lòng. Vì quân ta ít. Quân giặc đông. Bằng không ta giữ lương thảo mà dùng. Ăn đến bao giờ mới hết.
Vi Lan chợt nghĩ ra được một kế. Nàng nói:
– Anh Dũng à! Em nghĩ được một đường lối hành động. Đêm nay, bộ binh, kị binh, thủy binh Hán xuất phát hết. Em bí mật nhập trại, cho Thần-long cắn đám quân giữ lương. Chỉ hơn giờ sau, chúng sẽ chết hết. Giữa lúc đó, còn tên nào sống sót, mình dùng Thần-ngao tấn công, thế là mình chiếm được trại, bao nhiêu lương thuộc mình hết.
Quốc-Dũng lắc đầu:
– Lực lượng Tây-vu bất quá hai trăm người. Thiên-trường hai trăm người nữa, cộng lại bốn trăm người. Khi quân Hán đánh quật trở lại, mình làm sao giữ nổi. Chi bằng đốt đi cho rồi.
Vi Đại-Nham góp ý:
– Vậy thế này. Chúng ta chất cỏ gần các các nhà chứa lương. Nếu quân Hán bị Chu Tái-Kênh đánh tan thì thôi. Nhược bằng chúng đánh quặt trở lại mạnh quá, tất Thần-ưng báo cho chúng ta biết trước. Chúng ta đốt lương thảo cũng vừa.
Trần Quốc-Dũng xuất thân phái Sài-sơn, tính tình cẩn thận đã quen. Ngược lại đệ tử Tây-vu chuyên hành sự táo bạo. Vì vậy họ đưa ra kế hoạch kinh khủng. Đứng trước một lão già chân thực, một cô bé ngỗ nghịch. Không lẽ chàng chịu thua họ về can đảm ?. Chàng đành chấp thuận kế hoạch đó.
Chiều hôm đó, theo kế hoạch đã định sẵn. Các đội Thần-ngao, Thần-xà tới vị trí xuất phát. Họ kiên nhẫn chờ đợi. Sang canh bốn, thì đoàn kị binh, bộ binh bắt đầu xuất phát. Thủy quân nhổ neo hướng về phía nam hồ. Đợi cho các đạo quân xuất phát đã xa. Vi Lan nói với Trần Quốc-Dũng:
– Anh ở không chẳng có việc gì làm, anh có buồn không ?
– Buồn thì cũng phải chịu.
– Vậy anh đi đánh nhau với bọn em cho vui.
Quốc-Dũng phì cười, vì đánh giặc là đem tính mạng ra đứng đầu mũi tên, hứng đao, hứng búa, mà Vi Lan bảo cho vui. Chàng gật đầu :
– Vậy thì anh xin được tuân lệnh em.
Vi Lan đánh gió Quốc-Dũng một cái. Tuy vậy nàng cũng hạ lệnh :
– Anh cùng với đoàn chiến sĩ Thiên-trường, dẫn theo đội Thần-ngao hai mươi con, phục trên đường từ Đào-lâm đến bờ hồ, đề phòng khi bọn em tấn công trại, chúng chạy đi báo tin cho Ngô Anh biết. Anh nhớ để người phục sẵn ở bờ hồ. Vì Lưu Long còn để lại tới bốn chiến thuyền. Nếu bốn chiến thuyền này nhổ neo chạy về phía nam cầu cứu. Anh cho người lặn xuống, giật dây, cho đáy thuyền lủng.
Trần Quốc-Dũng trố mắt nhìn cô bé mười sáu tuổi. Chàng nghĩ thầm:
– Cô bé này mà đọc sách nhiều, chắc sau không thua Trưng Nhị, Phương-Dung, Phùng Vĩnh-Hoa làm bao.
Trời sang canh tư, trại Hán lại im lìm nằm trong bóng đêm. Vi Lan cầm ống tre thổi lên vi vu. Mười toán, mỗi toán mười nữ đệ tử Tây-vu, cầm ống tre thổi theo. Đoàn Thần-long trườn mình bò xuống dưới chân núi. Tới trước các chòi canh, họ huýt sáo, lập tức mỗi chân chòi, mấy con trăn lớn, bò lên vọng lầu. Chúng quấn những tên quân canh. Chúng chỉ cần vặn lưng một cái. Những tên quân này bị gãy xương sống chết liền.
Các thiếu nữ Tây-vu tiếp tục lùa trăn vào trại Hán, không một tiếng động. Tới các dãy trại dành cho quân canh phòng. Họ thổi lên những tiếng sáo vi vu. Đoàn Thần-long chui vào trại. Lát sau trong trại bật lên những tiếng kêu lớn:
– Trời ơi rắn cắn tôi!
– Ôi! Rắn ở đâu nhiều quá!
Phút chốc các trại náo loạn cả lên. Có một vài trại đã đốt lửa lên. Quân sĩ thấy nào rắn, nào trăn bò lổm ngổm trong trại, trên đường, chúng leo lên cả nóc trại, lưỡi thè ra đe dọa. Đám quân Hán chỉ còn biết la oai oái. Chúng đứng quay lưng lại với nhau cầm vũ khí đề phòng.
Vi Lan cho tấn công hết các trại Hán. Nàng tiến ra bờ hồ. Thình lình trên đầu, một ánh đao chém xuống cổ nàng. Nàng kinh hoàng lăn đi một vòng tránh khỏi, thì ánh đao cũng chém theo. Nàng lại lăn đi hai vòng nữa. Đao chém hụt, chạm vào phiến đá đánh choang một tiếng, lửa bắn tung tóe. Nàng vọt người dậy, huýt sáo gọi trăn. Mấy con trăn vọt đến tấn công người kia. Người kia vung đao chém được hai con. Đến con thứ ba, y bị trăn táp vào cổ tay. Vi huýt sáo gọi nữa, hơn mười con trăn nghển cổ, lao tới tấn công. Người kia tỏ ra bình tĩnh, đao vung lên, mỗi lần một con trăn đứt làm hai. Người kia thấy Vi Lan còn nhiều rắn, y vội bỏ chạy.
Giữa lúc đó, đàn Thần-ngao trên đỉnh núi ào ào đổ dốc. Chúng tru lên xung vào trại Hán. Đám quân Hán bị rắn cắn, nằm nghiêng ngả. Chỉ còn hơn trăm tên không bị cắn. Cố gắng cầm vũ khí chiến đấu chống Thần-ngao. Hai bên hỗn chiến đến trời sáng, Vi Đại-Nham, Vi Lan chiếm được toàn vẹn doanh trại. Thần-long chết khá nhiều. Thần-ngao chết hơn năm mươi con. Trong khi đó tổng cộng hai ngàn quân giữ trại, bị Thần-long cắn chết. Số hơn trăm còn lại bị Thần-ngao, và đoàn chiến sĩ Tây-vu giết sạch.
Vi Lan ra lệnh đem tất cả các xác chết quân Hán liệng xuống sông Trường-giang, vì sợ Thần-ưng ăn thịt xác chết đó, sẽ bị trúng độc.
Trần Quốc-Dũng đã trở về. Chàng dẫn theo hơn mười tên quân Hán bị bắt. Tay chàng bị thương nhẹ. Vi Lan ngạc nhiên hỏi:
– Tại sao anh bị thương vậy? Bản lĩnh của anh dễ gì để ai đả thương được?
Trần Quốc-Dũng dẫn ra một tên tù binh, người y khá mập. Chàng chỉ vào y giới thiệu:
– Sư muội không biết y, cũng không lạ. Y chính là Tô Định, thái thú Giao-chỉ trước đấy. Sau trận Luy-lâu y bị bắt, bị đem xử trảm. Lê Đạo-Sinh định cứu y. Y vừa chạy thì bị sư tỷ Trần Năng bắt lại. Y bị giam trong ngục cùng với Đức-Hiệp, Phong-châu song quái. Lê Đạo-Sinh vào ngục cứu y ra.
Vi Lan nói:
– Hèn chi võ công y cao cường. Suýt nữa em chết vì đao của y.
Trần Quốc-Dũng nói:
– Y mang mười kị mã định chạy đi báo tin cho Ngô Anh. Ta chăng dây, ngựa y vấp ngã, tất cả kị mã bị bắt. Chúng ta bắt y, mà còn bị y đánh trọng thương. Võ công y rất cao cường. Trước đại hội hồ Tây, chỉ có Lê Đạo-Sinh, Khất đại phu, Đào Kỳ thắng được y mà thôi.
Trần Quốc-Dũng nhắc Vi Lan:
– Sư muội cho Thần-ưng canh phòng mặt sông, mặt hồ, mặt đường bộ, đề phòng quân Hán. Ta chỉ huy tráng sĩ, chất cỏ xung quanh kho lương. Trường hợp giặc kéo tới. Ta đốt liền. Chúng ta chỉ cần cầm cự, vì trưa nay đạo quân của sư bá Chu Tái-Kênh với sư huynh Quách Lãng tới đây thì không còn sợ gì nữa.
Trong khi Trần Quốc-Dũng chỉ huy chất cỏ vào các kho lương, thì Vi Lan dẫn các nữ đệ tử Tây-vu đi lục lọi. Dù sao tính trẻ con vẫn còn. Nàng lục suốt từ trại này sang đến trại khác. Song lục chỉ để mà lục, chứ không lấy một món gì.
Trời về trưa, Thần-ưng báo cho biết, có địch ở mặt sông. Vi Lan vội lên ngọn cây quan sát: Từ bờ bắc, ba chiến thuyền dương buồm đang chạy sang bờ nam. Nàng nói vọng xuống:
– Anh Dũng ơi! Ba chiến thuyền, ít ra có hàng ngàn tên Hán. Chúng ta chỉ có mấy trăm Thần-ngao, với ba trăm người, phải làm gì đây?
Trần Quốc-Dũng lo nghĩ, gọi Vi Lan xuống:
– Có lẽ chúng ta đành đốt kho lương vậy.
Vi Lan chợt nói:
– À thế này. Anh cho mười sư huynh trong đội Giao-long ra bờ sông Trường-giang phục sẵn. Nếu chiến thuyền sang bên này, xuôi giòng đi về nam thì thôi. Còn ngược lại, chúng đi vào hồ, lập tức đục thuyền. Thuyền đắm. Chúng đang bơi vào bờ, chúng ta dùng Thần-ngao "đớp" chúng.
Trần Quốc-Dũng mừng lắm. Chàng cho mười chiến sĩ Giao-long ra bờ sông phục sẵn. Hễ thấy thuyền rẽ vào hồ thì ra tay. Trong khi đó đệ tử Tây-vu, Thiên-trường, cùng Thần-ngao phục trên bờ.
Chờ đợi không lâu, quả nhiên ba chiến thuyền đã sang tới bên này bờ. Thuyền rẽ vào hồ Động-đình. Trần Quốc-Dũng ngồi bên Vi Lan quan sát. Phút chốc thuyền từ từ tiến đến. Trên chiến thuyền không nhiều binh Hán cho lắm. Song dường như có nhân vật quan trọng.
Thình lình các chiến thuyền quay ngang. Thủy thủ la hoảng, vì nước tràn vào thuyền như thác. Thủy thủ cùng nhảy xuống sông bơi vào bờ. Ba chiếc mủng thả xuống. Trên thuyền có tất cả chín người, vọt mình vào mủng.
Họ vừa vào đến bờ. Quốc-Dũng hú lên một tiếng. Đoàn Thần-ngao xông ra tấn công. Đám thủy thủ vừa bơi vào bờ, mệt nhoài thì bị đàn chó sói, cùng các chiến sĩ Tây-vu, Thiên-trường tấn công. Chúng không còn biết đâu mà chống đỡ nữa.
Đoàn chín người trên ba chiếc mủng, vừa vào đến bờ, đã rút binh khí tấn công đội Thần-ngao. Họ tiến tới đâu, Thần-ngao lui tới đó.
Vi Lan hoảng kinh. Nàng gọi Thần-long tới. Hơn trăm Thần-long bao vây chín người vào giữa. Đội Thần-ngao bao vây vòng ngoài.
Người cầm đầu lên tiếng hỏi Trần Quốc-Dũng:
– Các ngươi có đánh lầm không? Rõ ràng đây là trại Hán. Tại sao các ngươi chưa hỏi han, đã ra tay đánh chúng ta ? Các ngươi có biết ta là ai không?
Trần Quốc-Dũng làm bộ sợ hãi nói:
– Tiểu tướng được lệnh trấn thủ hậu cứ, giữ lương thảo. Các vị từ đâu đến, không báo trước cho tiểu tướng. Vì vậy tiểu tướng mới đánh đắm thuyền của các vị, và xảy ra cuộc đụng độ.
Người cầm đầu móc túi ra cái thẻ bài, y tung cho Trần Quốc-Dũng:
– Ngươi coi kỹ thì biết.
Trần Quốc-Dũng cầm lấy coi. Trên thẻ bài có khắc con phụng. Dưới ghi rõ: Vũ vệ hiệu úy, Phan Anh, Trần Nghi-Gia. Trong đầu chàng nhớ lại Sún Rỗ kể cho nghe về Phan Anh là con Xích-Mi Phan Sùng. Trần Nghi-Gia là vợ Phan Anh, mụ xuất thân từ phái Khúc-giang. Chúng phải khuất phục Mã thái hậu, vì mụ có thuốc giải Huyền-âm độc chưởng.
Chàng chưa kịp lên tiếng, Trần Nghi-Gia đã vọt người lên tấn công chàng. Chưởng lực của thị mạnh kinh người. Chàng vội lùi lại vận khí đỡ. Binh một tiếng. Người chàng bật lui ba bước. Chàng cảm thấy tức ngực. Oẹ một tiếng, chàng phun ra một búng máu tươi. Trong khi đó Phan Anh cùng đám bảy người còn lại, cùng xông vào quyết chiến với đám Thần-ngao. Vi Lan, Vi Đại-Nham, Trần Quốc-Dũng bị đẩy lùi ra bờ sông.
Nếu một mình Trần Quốc-Dũng, chàng đã nhảy xuống sông bơi mất. Trên đời không có người thứ nhì sau Trần Quốc, bắt được chàng. Nhưng còn Vi Lan, Vi Đại-Nham, chàng không thể bỏ họ được..
Trần Nghi-Gia đánh một chưởng, ba con trăn lớn bay tung đi. Y thị đưa tay túm đầu Vi Lan, thì một ánh kiếm xỉa ngay cổ y thị. Y thị kinh hoàng nhảy lui lại ba bước, ánh kiếm theo sát cổ không rời. Hoảng kinh y thị lộn đi ba vòng. Vừa đứng dậy ánh kiếm lại chỉa vào ngực. Y thị lùi đến sát gốc cây ánh kiếm vẫn theo sát. Thủy chung y thị vẫn không nhìn rõ mặt đối thủ là ai. Y thị liệu chừng đối phương võ công cao không biết đâu mà lường. Nếu đối phương định giết chết, thì y thị đã chết ngay từ chiêu đầu. Y thị không lùi nữa nói:
– Ngươi giết ta đi. Ta hận vì học nghề không tinh mới bị thua ngươi.
Có tiếng cười the thé:
– Giỏi! Ngươi can đảm. Ta không giết ngươi. Ta chỉ bắt ngươi thôi.
Bây giờ Nghi-Gia mới nhìn rõ người tấn công y thị. Đó là một lão bà tuổi khoảng sáu mươi, da mặt tươi hồng. Bà túm Nghi-Gia liệng xuống đất. Vi Lan tung trăn quấn lấy y thị. Nàng kêu lên:
– Chu lão bá.
Người cứu Vi Lan chính là Chu Tái-Kênh. Vi Lan quay lại nhìn Hắc Báo đang chỉ huy mười Thần-báo, với đàn Ngao-thần bao vây Phan Anh. Chu Tái-Kênh hỏi Phan Anh:
– Ngươi có chịu trói hay để bà nội ra tay?
Mặt Phan Anh tái mét. Y nói:
– Ta thấy kiếm pháp của ngươi giống kiếm pháp của Phương-Dung, Phật-Nguyệt. Vậy ngươi với hai người đó là thế nào?
Chu Tái-Kênh cười:
– Chúng là bậc cháu chắt của ta.
Phan Anh cười nhạt:
– Về kiếm thuật ta thua ngươi. Song về chưởng, chưa chắc ngươi hơn ta. Nếu ngươi dùng chưởng thắng được Huyền-âm thần chưởng của ta. Ta mới phục.
Chu Tái-Kênh cười nhạt:
– Nội công âm nhu của phái Trường-bạch nhà mi, với nội công âm nhu của ta cùng một gốc. Sau các ngươi dùng nội công luyện Huyền-âm độc chưởng. Ngươi chắc đã biết: Phàm dùng độc chưởng đánh người. Nếu công lực ngươi mạnh hơn, ta bị trúng độc mà chết. Nhược bằng công lực ta mạnh hơn, chất độc trở lại, nhập vào tạng phủ ngươi mà chết. Nào mời.
Bà phát chiêu Thanh ngưu ư hà trong Phục-ngưu thần chưởng tấn công. Bà vận âm kình. Phan Anh vận khí, phát chưởng đỡ. Trong chưởng có mùi hôi tanh khủng khiếp. Bộp một tiếng, người y lảo đảo lui lại. Y hít một hơi, phát chiêu thứ nhì. Chu Tái-Kênh vận khí phát chiêu Ngưu tẩu như phi. Bộp một tiếng nữa, y bật lui lại hai bước. Y mượn đà nhảy lui lại bốn, năm bước, cười đắc chí.
– Con mụ kia. Mi trúng Huyền âm độc chưởng của ta rồi. Mau quì xuống lạy, ta sẽ tha cho.
Chu Tái-Kênh cười nhạt, xoè tay cho Phan Anh coi:
– Đâu có dễ thế được. Ngươi ngu lắm. Công lực của ngươi với ta cách xa nhau quá nhiều. Ta đã dùng thần công đẩy chất độc trở về cơ thể ngươi rồi. Ngươi thử xoè bàn tay ra mà coi.
Phan Anh xoè tay ra: Bàn tay y có màu tím xanh. Y kinh hoàng, lui lại run run, lấm lét nhìn Chu Tái-Kênh. Bà cười gằn:
– Ác giả, ác báo.
Vi Lan tung trăn quấn lấy Phan Anh, trói y lại.
Quách Lãng đã tới. Trần Quốc-Dũng nói:
– Nếu không có lão bá đến, bọn cháu ắt bỏ mạng ở bờ sông này rồi.
Chàng trình bày chi tiết cuộc chiếm kho lương Tam-sơn cho bà. Bà khen:
– Vi Lan, Quốc-Dũng, thêm lão bá Vi Đại-Nham đã thành công lớn. Kho lương này, dùng cho mười vạn quân, ăn trong ba năm là ít. Tốt lắm.
Quách Lãng truyền lệnh:
Ngô Anh đang trên đường tới phía nam hồ. Giờ này y được tin trại Tam-sơn bị đánh, chắc đang dẫn quân trở về. Còn thủy quân Lưu Long đang đánh nhau với Đinh Tĩnh-Nương. Chúng ta mau bố phòng, đối phó với bộ binh, kị binh. Còn thủy quân không sợ. Vì các chiến thuyền sẽ bị đục. Vậy bố phòng như thế này:
– Sư đệ Quốc-Dũng, Vi Lan, sư bá Vi Đại-Nham, thống lĩnh một đạo quân bảo vệ phía bờ sông. Đề phòng quân bên kia đổ qua. Còn sư bá Chu Tái-Kênh, Tây-vu tiên tử với ta, đắp đồn, đề phòng quân Ngô Anh trở về.
Ông cho đắp ụ, dàn trận sẵn. Đội Thần-báo, phục rải rác ở trong rừng chờ đợi. Ông dặn Tây-vu tiên tử:
– Lão bá nhớ theo dõi cả ba mặt. Mặt sau, sợ quân Hán đổ bộ qua sông. Mặt trước, trông chừng thủy quân, kị binh, bộ binh địch.
Ông ra lệnh cho Vi Lan chất cỏ thành đống trong trại Tam-sơn đốt lên. Khói bốc cao, tỏa ra khắp một bầu trời. Phút chốc, đứng xa nhìn, như cả trại đang bị cháy vậy.
Tây-vu tiên tử leo lên ngọn cây quan sát. Trong ánh sương mù của hồ Động-đình. Bà nhìn rất rõ đoàn chiến thuyền Lưu Long với đoàn chiến thuyền Đinh Tĩnh-Nương đang giao chiến. Bà nói vọng xuống dưới cho Chu Tái-Kênh, Quách Lãng nghe diễn tiến từng ly từng tý một:
– Thần nỏ từ thuyền Lĩnh-Nam bắn đợt thứ nhất. Thủy thủ Hán trên năm chiến thuyền bị giết sạch. Thuyền quay ngang.
– Thần nỏ bắn đợt thứ nhì. Năm chiến thuyền Hán quay ngang.
– Đoàn Giao-long binh Lĩnh-Nam đang tụt xuống nước.
– Thần nỏ bắn đợt thứ ba. Năm chiến thuyền Hán quay ngang.
– Chiến thuyền Hán bị giật dây, đáy thuyền lủng. Hơn ba mươi chiến thuyền đang chìm. Thủy thủ nhảy xuống nước, bơi lại các chiến thuyền khác.
– Trời ơi, hầu như các chiến thuyền Hán đều bị giật dây. Đáy thủng. Binh lính bơi đầy mặt hồ.
– Lưu Long cho soái thuyền bỏ chạy. Y đang tiến vào phía bờ hồ.
– Thủy quân Hán, đầu hàng. Chúng được vớt lên thuyền Lĩnh-Nam.
– Cẩn thận. Kị binh, bộ binh Hán đang trở về.
Quách Lãng vội viết thư, truyền Thần-ưng mang ra cho Đinh Tĩnh-Nương. Ông yêu cầu sư muội, sai một số chiến thuyền chở tù binh về hậu cứ. Số chiến thuyền còn lại, đến đậu ngay bờ hồ, lập với trận của ông thành hình thước thợ. Chờ quân Ngô Anh.
Kị binh Ngô Anh rầm rập đi trước, còn cách chỗ phục binh của Quách Lãng hơn dặm, chúng dừng lại quan sát. Trước mặt chúng, một người bằng hình nộm, mặc quần áo đại quân Hán trong tư thế qùi gối. Viên tướng đi đầu, lui lại báo tin với Ngô Anh:
– Thưa tướng quân, dường như trại Tam-sơn bị chiếm. Tô thái thú bị hại. Chúng lấy quần áo của người, đem mặc vào hình nộm để giữa đường.
Ngô Anh suy nghĩ một chút, rồi nói:
– Có lẽ là nghi binh. Chúng ta cứ tiến lên.
Kị binh tiến được một dặm nữa. Thình lình trong rừng vọt ra hơn mười con chó sói, chúng tru lên. Nhảy vào cắn ngựa. Đoàn ngựa nhảy dựng. Hơn mười con bị thương, ngã lăn ra. Đám kị binh vừa định ra tay. Đàn chó sói đã biến vào rừng.
Ngô Anh ra lệnh:
– Phải cẩn thận. Tiến từ từ.
Kị binh lại lên đường. Thình lình có tiếng gầm gừ. Hơn mười con beo gấm từ trên cây nhảy xuống cắn cổ chết trên hai chục kị binh, rồi lại nhảy lên cây biến mất.
Quân Hán ngơ ngẩn, sợ hãi. Chúng tiến được một lát, thì trước mặt chúng, một đoàn kị mã Hán đang phi ngmược chiều như bay. Ngô Anh gò ngựa đứng nhìn. Đám kị binh như không thấy đoàn người ngựa của Ngô, chúng cứ cứ phi tới. Ngô phất tay cản lại. Đám kị binh đó ngã lăn xuống đất. Thì ra chúng chỉ là những xác chết.
Ngô Anh nói:
– Thế này thì trại Tam-sơn bị chiếm rồi. Đám hơn trăm kị binh này là quân giữ trại, đã bi giết. Chúng đem xác cột lên ngựa, cho chạy ngược chiều để dọa bọn ta đấy.
Y còn đang ngơ ngẩn, có tin thủy quân Lưu Long bị tan.
Lưu Long đã lên bờ, đến hội với y, mặt Lưu tái nhợt. Lưu nói với Ngô Anh:
– Ta sơ ý bị trúng kế Phật-Nguyệt, thị cho đội Giao-long binh đục thuyền của ta. Ta không bắn được mũi tên, mà toàn bộ ba vạn thủy quân bị chìm dưới đáy hồ.
Giữa lúc y chưa biết tiến hay lùi, thì đoàn beo gấm từ trong rừng nhảy xổ ra tấn công kị binh. Kị binh kinh hoàng chạy lui trở lại. Lưu Long vì không đề phòng, mà bị trúng kế Phật-Nguyệt, chứ thực sự y là một tướng đại tài. Y cho bộ binh tiến lên, phía trước mặt y, quân Lĩnh-Nam đã đóng thành một lũy dài. Lưu cho dàn trận đánh thẳng về phía trước. Bây giờ y mới thấy quân Lĩnh-Nam xuất hiện. Một bên đánh thục mạng, kiếm đường sống. Một bên quyết đánh tan địch.
Đánh một lúc. Y giết được hơn chục beo gấm, với chó sói. Y nói với Ngô-Anh:
– Dù chúng ta có diệt được đám quân này, cũng không còn đường rút lui. Bây giờ tướng quân dùng bộ binh cầm cự với Quách Lãng. Tôi dùng kị binh chiếm thuyền của Đinh Tĩnh-Nương. Mình dùng thuyền rút lui.
Y dùng kị binh xung vào đội hình thủy quân. Thủy quân rút lui dàn ra bờ hồ, rồi lên chiến thuyền. Kị binh vừa đến gần bờ hồ, thì Nỏ-thần bắn ra. Đợt đầu mấy trăm kị binh ngã xuống. Lưu Long dốc đợt nhì, đợt ba xông lên. Từ đợt nọ đến đợt kia, Nỏ-thần nạp rất lâu, lợi dụng khe hở đó. Lưu dốc kị binh đến sát bờ hồ. Chúng reo hò leo lên chiến thuyền.
Đinh Tĩnh-Nương cho chiến thuyền rút ra khỏi bờ. Nhưng chúng đã chiếm được trên ba mươi chiếc. Tĩnh-Nương chờ cho chúng chèo thuyền ra khơi, cho thủy quân vây đánh.
Giữa lùc hai bên đang dằng co, bất phân thắng bại, thì Thần-ưng báo cho biết phía sông Trường-giang, quân Hán đang đổ bộ từ bên kia sang. Hơn trăm chiến thuyền dàn hàng, căng buồm tiến tới.
Quách Lãng nói với Chu Tái-Kênh:
– Sư bá đem một vạn chiến sĩ, cùng đội Ngao-thần, đệ tử Tây-vu, Giao-long ra đóng bờ sông, đánh cản không cho chúng đổ bộ. Trong khi tôi đánh với bọn Ngô Anh, Lưu Long. Quân của Hán đã lẫn vào quân Lĩnh-Nam. Ngô Anh đứng trên ngựa dốc chiến, quyết tiêu diệt đám quân Quách Lãng. Hai bên đánh nhau hơn giờ, vẫn chưa phân thắng bại. Bên Lĩnh-Nam quân số chỉ bằng một phần ba, nhưng nhờ có đội Thần-báo, vẫn giữ được phòng tuyến.
Thình lình Quách Lãng bị một mũi tên trúng giữa bụng. Ông vội vàng vung kiếm chặt đứt phần ở phía ngoài người, rồi dùng dây lưng băng lại. Ông làm thực nhanh. Vì để chậm, binh tướng thấy được, mặt trận vỡ ngay.
Ông nghiến răng chịu đau, cầm gươm dốc chiến. Tây-vu tiên tử, Hắc Báo xua Thần-báo xông trận. Mỗi đợt xung vào, hơn năm trăm quân Hán bị chết, bị thương. Quân Hán bật lui lại, không dám xông vào nữa.
Trong khi đó Đinh Tĩnh-Nương đã đánh chiếm lại được ba mươi chiến thuyền. Bà cho thủy quân dàn sát bờ hồ, yểm trợ sư huynh.
Quách Lãng quan sát phía bờ sông. Thuyền Hán đang đổ bộ, chúng giao chiến ác liệt với đội Thần-ngao, và đội quân Chu Tái-Kênh.
Ngô Anh thấy có quân tiếp viện. Chúng hô lớn lên, xua quân lăn vào tấn công. Quách Lãng lại bị một mũi tên vào bụng. Ông nghiến răng nhổ tên. Ruột ông cũng theo lòi ra ngoài. Ông cắt mũi tên. Dùng vải băng lấy bụng. Cầm kiếm đứng dốc quân.
Đinh Tĩnh-Nương đứng trên thuyền dốc chiến. Lưu Long nhìn thấy bà. Khí uất lên cổ, y nghiến răng vọt người lên chiến thuyền. Chỉ nhảy nhót mấy cái. Y đã tới trước bà. Y vung kiếm chém liền. Đinh Tĩnh-Nương cùng các tướng Lĩnh-Nam vây lấy y.
Giữa lúc đó, trên trời, một đoàn Thần-ưng từ xa bay lại. Chúng ré lên, nhào xuống đội hinh quân Hán tấn công. Xa xa, một đội thủy quân đang tiến tới. Thần-ưng bay rợp trời. Lưu Long kinh hoàng, hướng Đinh Tĩnh-Nương phóng một chiêu kiếm như vũ bão. Bà nhảy lên không tránh. Y vọt người theo, đưa một nhát, trúng bụng bà, rồi y nhảy xuống hồ, lặn mất.
Đinh Tĩnh-Nương bị trúng kiếm, ruột lòi ra. Bà nghiến răng, lấy dây lưng buộc lại. Bà cầm gươm hô lớn:
– Tiến lên. Chúng ta có viện binh rồi.
Giữa lúc đó đoàn thuyền Đinh Bạch-Nương tới. Đào phu nhân nhảy sang đỡ lấy Đinh Tĩnh-Nương. Tĩnh-Nương lắc đầu:
– Cô cứ mặc cháu. Cháu còn đủ sức chiến đấu. Cô tiến lên diệt giặc đi.
Đào vương phi, Đinh Bạch-Nương, Đinh Tĩnh-Nương kéo thủy quân ra sông Trường-giang, đánh tiếp viện cho Chu Tái-Kênh với Vi Lan, Trần Quốc-Dũng.
Trận chiến lại diễn ra ác liệt. Đào Quí-Minh đứng trên cột buồm. Ông quan sát trận chiến, tùy nghi ra lệnh cho Trâu Xanh, Trâu Trắng, Cu Bò, dùng Thần-ưng yểm trợ.
Ông ra lệnh:
– Cu Bò yểm trợ sư huynh Quách Lãng. Trâu Xanh, Trâu Trắng yểm trợ sư bá Chu Tái-Kênh.
Tổng số Thần-ưng của Cu Bò có sáu trăm mười hai con. Vì Trâu Đen tử trận, nó chỉ huy cả sư Trâu Đen, thành ra lên tới một ngàn hai trăm con. Thần-ưng, phối hợp nhịp nhàng với Ngao-thần, Thần-báo, Thần-long, thành ra quân Lĩnh-Nam tuy ít mà vẫn không yếu thế.
Giữa lúc đó, một đạo kị-binh đi trước, phía sau đạo bộ-binh hùng mạnh không thể tưởng được, từ phía nam hồ tiến tới. Quách Lãng kinh hãi hỏi Tây-vu tiên tử:
– Sư bá thử lên cao xem, đạo quân nào. Nếu là quân Hán, e chúng ta không còn một người sống sót.
Tây-vu tiên tử lên cao nhìn một lúc. Bà nói vọng xuống:
– Đạo binh đang tiến tới là đạo Giao-chỉ của Đào Phương-Dung với Lê Ngọc-Trinh.
Quân Lĩnh-Nam reo hò. Chốc lát đạo quân Đào Phương-Dung tới: Đoàn Thần-hổ, báo, tượng, ngao đi đầu. Đào Phương-Dung đi bên phải, Lê Ngọc-Trinh đi bên trái. Đạo quân Giao-chỉ dàn ra rất mau, bao vây kín quân Hán vào giữa. Đào Phương-Dung đứng trên mình voi. Tay bà cầm kiếm hô lớn:
– Đừng để một tên giặc thoát vòng vây !
Quân tướng reo hò lẫn với tiếng gầm của các đạo quân Tây-vu. Người, thú xông vào trận. Chỉ chốc lát, tiêu diệt đội quân Hán không còn một người.
Đào Phương-Dung thấy người Quách Lãng đầy máu, mà ông vẫn đứng cầm gươm dốc chiến. Bà hỏi:
– Sư đệ có sao không?
Quách Lãng đau muốn đổ mồ hôi, máu ra ướt hết hai chiếc khăn cột bụng. Ông vẫn nhịn đau, nghiến răng nói:
– Sư tỷ mau tiến lên.
Đạo binh Đào Phương-Dung gồm toàn chiến sĩ Giao-chỉ, nghỉ ngơi lâu ngày. Vừa nhập trận đã đánh tan quân Ngô Anh, rồi tiến ra bờ sông Trường-giang. Chỉ chớp mắt đánh đoàn quân đổ bộ, rơi xuống sông hết. Đám chiến thuyền Hán vội bơi ra khơi. Đinh Bạch-Nương đã dàn chiến thuyền phía sau bao vây.
Vi Lan nói với Trần Quốc-Dũng:
– Anh mau cho chiến sĩ đục thuyền địch ngay lập tức.
Quốc-Dũng ra lệnh cho đoàn Giao-long binh nhảy xuống nước.
Trong khi đó trên trăm chiến thuyền Hán mới tới tiếp viện đang dàn ra giao chiến với thủy quân Đinh Bạch-Nương, Đinh Tĩnh-Nương. Đào phu nhân đứng trên mũi thuyền dốc chiến. Cu Bò, Trâu Trắng, Trâu Xanh chỉ huy Thần-ưng yểm trợ. Trận chiến ác liệt, thình lình, trên ba mươi chiến thuyền Hán bị lủng đáy. Nước tràn vào ào ào. Phút chốc trên ba mươi chiếc nữa lại bị lủng đáy.Các chiến thuyền từ từ chìm. Quân Hán bơi đầy mặt sông. Đoàn chiến thuyền Lĩnh-Nam cho vớt thủy thủ Hán bị chìm thuyền, lên trói lại. Còn lại ba mươi chiến thuyền, chúng buông vũ khí đầu hàng.
Đinh Bạch-Nương nhảy sang chiến thuyền Hán chỉ huy cuộc tiếp thu, dồn tù binh lại một góc. Nàng để ý đến một quân nhân ngồi ủ rũ dưới sàn thuyền, trông lưng rất quen, mà nàng nhận không ra.
Nàng kéo tóc y dậy nhìn cho rõ. Thình lình y vung tay một cái, con dao trong tay y đã đâm suốt qua ngực nàng. Lê Ngọc-Trinh đứng gần, vội vung chưởng tấn công tên binh này. Bình một tiếng. Người y bật lên không. Bà đánh tiếp chưởng nữa, y kêu thét lên một tiếng lớn:
– Xin sư tỷ dung tình.
Lê Ngọc-Trinh nhận ra Vũ Hỷ. Bà vội thu chưởng về. Vũ Hỷ quì gối:
– Sư tỷ! Xin sư tỷ nghĩ tình đồng môn, tha cho tiểu đệ một lần.
Khi thu Lê Ngọc-Trinh làm đệ tử. Khất đại phu nhiều lần dặn nàng: Võ đạo phái Tản-viên cấm giết người đồng môn, không được để người ngoài giết đồng môn trước mặt mình. Bây giờ bà có tha cho Vũ Hỷ, thì Đinh Xuân-Hoa, với đám đệ tử Đào gia cũng không tha cho y. Bà vung chưởng đẩy vào lưng y:
– Mi cút đi cho khuất mắt.
Vũ Hỷ bay bổng lên cao, rơi tỏm xuống sông, y lặn đi mất tích.
Đào Quí-Minh đã băng bó cho Đinh Bạch-Nương.
Đào Phương-Dung, Chu Tái-Kênh truyền lệnh thu binh, kiểm điểm lại nhân mã, rút về phía nam bờ hồ Động-đình.
Tổng kết trên bốn mặt trận, bên Lĩnh-Nam chết mấy trăm Thần-ngao, trên trăm Thần-báo. Bộ binh, thủy binh, kị binh mặt trận phía tây hồ mất trên hai vạn. Phía đông hồ mất trên hai vạn nữa. Tổng cộng năm vạn. Phía Hán, đạo của Mã Viện, Chu Long, Lưu Long, cả thủy, bộ, kị mất ba mươi vạn. Về các tướng. Bên Hán, Chu Long, Tô Định, Mã Anh, Phan Anh, Nghi Gia, và hơn ba ngàn viên tướng lớn nhỏ bị bắt, bị giết. Bên Lĩnh-Nam gần ngàn tướng lớn nhỏ bị chết. Có ba chúa tướng bị thương nặng là Đinh Bạch-Nương, Đinh Tĩnh-Nương, Quách Lãng. Trâu Đen bị tử thương.
Thuyền về bến nam hồ Động-đình. Phật-Nguyệt ra đón ở bờ hồ. Quân sĩ khiêng Quách Lãng, Đinh Tĩnh-Nương, Đinh Bạch-Nương lên bờ. Máu ra nhiều quá. Các tướng xúm lại hỏi thăm bệnh thế.
Quách Lãng nói với Đào vương phi:
– Sư bá! Sư phụ cháu thường dạy: Con người ta ai cũng phải chết. Kẻ nào may mắn được mới đươc chết cho đất nước. Như vậy cháu đã may mắn lắm rồi. Phái Cửu-chân nhà ta được lập ra chỉ vì Lĩnh-Nam. Nay cháu chết cho Lĩnh-Nam là đúng sở nguyện.
Ông nhìn Đinh Bạch-Nương, Đinh Tĩnh-Nương:
– Các sư muội! Các em. Chúng ta vừa là anh em con cô con cậu, vừa là sư huynh sư muội. Hồi nhỏ chúng ta tập võ với nhau. Các em chẳng từng nói: Nếu sau này chúng ta chết vì nước, sẽ được chết cùng trận đó sao?
Đinh Bạch-Nương nói với Đào vương phi:
– Cô ơi! Cô về nói với bố cháu, mẹ cháu rằng: Cháu đã làm trọn vẹn những gì bố cháu dạy cháu từ bé đến giờ. Tập võ để đánh giặc. Đọc sách để bày binh giết giặc. Nếu phải chết, thì chết cho xứng đáng.
Đinh Tĩnh-Nương nói đứt đoạn:
– Cô ơi! Chúng cháu sắp chết rồi đây. Bố mẹ cháu chỉ có một Quách sư huynh với hai con gái. Bây giờ chúng cháu cùng tuẫn quốc. Không biết rồi đây, bố mẹ cháu già rồi ai sẽ phụng dưỡng người?
Đinh Bạch-Nương giật mạnh người một cái. Bà từ từ nhắm mắt lại.
Quách Lãng gọi lớn:
– Sư muội! Sư muội! Các em đi mau vậy? Đợi anh với!
Ông mửa ra một búng máu, rồi nghẻo đầu sang một bên mà chết.
Trần Quốc-Dũng cầm ống tiêu để lên miệng. Chàng truyền nội lực vào, tiếng tiêu bi ai thảm não, thê lương dài miên miên bất tuyệt.
Thủy quân đã vớt được xác Trâu Đen, đem về tắm rửa sạch sẽ. Trâu Đen tuy còn nhỏ tuổi, nhưng cấp bậc chỉ thua có Quách Lãng, Đinh Bạch-Nương, Đinh Tĩnh-Nương mà thôi. Vì nó giữ chức sư trưởng Thần-ưng.
Luật lệ Tây-vu định rằng, chiến sĩ Tây-vu coi bốn bể là nhà. Chết đâu, chôn đó, thi hài Trâu Đen sẽ được an táng bên bờ hồ cùng với gần năm vạn chiến sĩ khác.
Các chúa tướng Tây-vu hàng ngày hay trêu chọc, đùa cợt với nhau. Nhưng họ rất thương yêu nhau. Đứng trước việc Trâu Đen tuẫn quốc. Không ai ngăn được nước mắt.
Quách A là vợ Đào Ngũ-Gia tức Sún Hô. Song nàng làm phó thống lĩnh đạo Tây-vu. Quyền lực chỉ dưới có Hồ Đề. Nàng đứng ra tổ chức lễ an táng tử sĩ Tây-vu. Thi hài các tử sĩ đựớc tắm rửa sạch sẽ, mặc quần áo, đặt nằm trên một đài gỗ. Bọn Trâu Xanh, Trâu Trắng cùng cầm tù và rúc lên một hồi. Tiếng tù và nức nở, như con mất cha, như vợ mất chồng, liên miên bất tuyệt.
Trên trời đoàn Thần-ưng cùng ré lên những tiếng thảm não. Chúng bay lượn xung quanh xác các chúa tướng để tiễn đưa.
Bỗng Sún Hô cầm cờ phất một cái. Chúng bay tán loạn đi khắp nơi.
Đoàn Thần-hổ, Thần-tượng, Thần-hầu, duyệt qua trước xác tử sĩ. Cho hay thú vật cũng có linh tính, tình cảm. Bọn Thần-tượng, thứ tự qua trước xác Trâu Đen, mỗi con đều quì gối xuống, rống lên một tiếng thảm thiết, nước mắt tuôn rơi, rồi mới đi.
Phút chốc, Thần-ưng đã trở về. Mỗi con đều ngậm một bông hoa. Chúng lượn ba vòng, rồi từng tốt trăm con tách khỏi hàng, thả hoa xuống xác Trâu Đen. Chúng đậu trên các cành cây gần đó, cúi đầu ủ rũ, cất tiếng kêu bi ai.
Quách A điều khiển các chúa tướng Tây-vu đến làm lễ trước tử thi Trâu Đen, rồi nàng truyền khâm liệm lại. Đem chôn bên bờ hồ cùng với các tử sĩ khác.
Tử thi Quách Lãng, Đinh Bạch-Nương, Đinh Tĩnh-Nương được tắm rửa sạch sẽ, ướp hoa khô, cho vào quan tài gỗ trầm, đưa về an táng tại ấp phong của ba vị ở Thượng-cát. Trưng hoàng đế đem quần thần tới biên giới Giao-chỉ đón linh cữu ba vị anh hùng tuẫn quốc. Ngài truyền lập dàn tế, xây đền thờ. Sắc phong Quách-Lãng:
Uy quán sơn hà, chí dũng Đại Vương.
Sắc phong Đinh Bạch-Nương, ĐinhTĩnh-Nương:
Nhất khí tinh trung, Uyển-Mị công chúa.
Ghi chú của tác giả :
Trận đánh hồ Động-đình xảy ra từ ngày đến tháng năm sau Tây-lịch, tức năm Canh-tý, nhằm niên hiệu Trưng đế nguyên niên. Bên Trung-nguyên là niên hiệu Kiến-Vũ thứ mười lăm đời vua Quang-Vũ nhà Hán.
Từ hồi ấy đến giờ, dân chúng vẫn thờ kính Quách Lãng, Đinh Bạch-Nương, Đinh Tĩnh-Nương. Ngày nay, đền thờ ba ngài vẫn còn tại ba làng Kẻ: Kẻ Thượng-cát, Kẻ Đông-ba và Kẻ Hạ-cát, huyện Từ-liêm, tỉnh Hà-Nội.
Trước đền thờ, có đôi câu đối, mà chúng tôi đã trích dẫn làm đầu đề cho hồi này:
Tinh trung nhất khí quán sơn hà, thử dân, thử thổ.
Huynh muội tam nhân tòng đại nghĩa, vi tướng, vi thần.
Dịch nghĩa: Khí ngôi sao mạnh khắp non sông, này dân, này đất. Anh em ba người, theo nghĩa lớn, làm tướng, làm thần.
Theo sử đời Hán, trận đánh hồ Động-đình được kể là trận đánh lớn thứ ba đời Đông-Hán. Trận đánh lớn nhất là trận Nam-hải do công chúa Thánh-Thiên, Trần Quốc chỉ huy. Mặt trận kéo dài trên tuyến dài hơn ngh'in dặm, sĩ tốt hai bên chết tới năm mươi vạn.
Trận đánh lớn hứ nhì là trận Trường-an giữa liên quân Việt-Thục với Hán. Trận này do Hoàng Thiều-Hoa làm chúa tướng. Nguyễn Phương-Dung thiết kế.
Trận lớn thứ ba là trận hồ Động-đình do Phật-Nguyệt chỉ huy. Thiết kế do toàn thể các tướng với Phật-Nguyệt. Hơn ba mươi vạn quân Hán, năm vạn quân Việt bị chết trong hơn mười lăm ngày.
Sở dĩ trận đánh kinh khủng, vì vua Trưng chỉ dụ: Đây là trận đầu tiên đánh giữa Hán và Việt trên đất Lĩnh-Nam. Bằng mọi giá, Việt phải thắng Hán. Vì vậy Quách Lãng bị bắn thủng bụng hai lần. Đinh Tĩnh-Nương bị chém lòi ruột, vẫn nghiến răng, băng bó, xung trận đến giọt máu cuối cùng. Khí phách các ngài dĩ nhiên không ai dám so sánh. Song chúng ta rút được một điều: Uy đức vua Trưng phải cao lắm, cho nên chỉ dụ của ngài, mới khiến các tướng lăn mình vào vui lòng chết cho đại nghĩa.
Trận đánh kinh hồn, đến nỗi sau này, dân chúng trong vùng hồ Động-đình, còn nhắc đến. Họ đã huyền thoại hóa đi trong một vài câu truyện cổ tích. Tiến-sĩ Chu Minh-Văn khi soạn cuốn phổ tại chùa Kiến-quốc trên hồ Động-đình và đền thờ Đế-Minh tên núi Thiên-đài đã chép đại lược như sau:
" Ngày xưa Ngọc-Hoàng thượng đế, một hôm ngự tại điện Linh-tiêu. Có hai công chúa đứng hầu bên cạnh, lỡ tay đánh vỡ chung rượu bằng ngọc. Ngọc-Hoàng thượng đế nổi lôi đình, truyền đày hai công chúa xuống hạ giới. Hai công chúa tuân lệnh đi đầu thai. Công chúa đầu thai được một ngày, thì Nam Tào, Bắc Đẩu giữ sổ tiên lại vào tâu rằng: Công chúa xuống đầu thai, có tới một trăm sáu mươi hai vị tiên trung thành với công chúa, cùng đầu thai theo. Ngọc-Hoàng thượng đế sợ rằng công chúa làm loạn hạ giới. Ngài bèn sai Thanh-y đồng tử xuống thế, cùng với Nhị-thập bát tú. Thanh-y đồng tử đầu thai thành vua Quang-Vũ nhà Hán. Nhị-thập bát tú sau thành hai mươi tám vị tướng thời Đông-Hán. Hai công chúa đầu thai làm con gái Lạc-tướng họ Trưng. Công chúa mới sinh ra đã biết nói, có hương thơm đầy nhà. Lạc tướng đặt tên là chị là Trắc, em là Nhị. Trưng Trắc lớn lên có sức khỏe bạt sơn, cử đỉnh. Đến tuổi trưởng thành. Lạc tướng gả về cho họ Đặng, tên Thi-Sách.
Thi-Sách "mưu phản" bị thái thú Tô Định giết chết. Trưng Trắc nổi giận cùng em là Trưng Nhị, khởi binh "làm phản". Anh hùng các nơi gồm một trăm sáu mươi hai người nổi lên theo. Chỉ trong một tháng chiếm sáu mươi lăm thành trì. Các quận Nam-hải, Quế-lâm, Tượng-quận, Cửu-chân, Nhật-nam, Giao-chỉ đều bị chiếm.
Trưng Trắc tự xưng làm vua, chiếm lĩnh nửa thiên hạ.
Vua Quang-Vũ nhà Hán sai Phục-ba tướng quân Mã Viện, suất lĩnh binh nghiêng nước đánh vua Bà. Vua bà sai nữ vương Phật-Nguyệt dẫn quân từ Trường-sa đến hồ Động-đình đại chiến. Nữ vương Phật-Nguyệt phép tắc vô cùng, hóa ra ba đầu, sáu tay. Một tay nhổ núi Thái-sơn, một tay nhổ núi Nga-mi, đánh chết trên một trăm vạn quân Hán. Xác người lấp kín hồ Động-đình, sông Trường-giang bị nghẹt.
Oán khí bốc lên đến trời. Ngọc-Hoàng thượng đế vội truyền thiên binh, thiên tướng xuống giúp Mã Viện. Đánh nhau trong ba năm bất phân thắng bại. Các thiên binh, thiên tướng về Thiên-đình tâu lại. Ngọc-Hoàng thượng đế không biết làm sao, phải phái thần Du Liệt sang Tây-phương cực lạc cầu cứu đức Phật Như-Lai. Phật Như-Lai bèn sai mười tám vị La Hán, năm trăm vị Kim Cương đến trợ chiến, cũng bị thua. Sau ngài nhờ Nam-hải Quan-Thế-Âm đến hồ Động-đình thuyết pháp. Nữ vương Phật-Nguyệt giác ngộ, xin đi tu, thành Phật".
Câu truyện cổ tích hoang đường, song cũng bắt nguồn từ trận đánh hồ Động-đình. Từ đấy về sau, cha mẹ vùng Trường-giang, đêm đêm con nít khóc, không chịu ngủ, thường dọa rằng:
"Nín đi, nín đi!! Nữ vương Phật-Nguyệt đến đó".
Cho đến nay, câu dọa đó vẫn còn. Tại các đền thờ Phật-Nguyệt, có câu đối:
Tích trù Động-đình uy trấn Hán.
Danh lưu thiên cổ lực phù Trưng.
Nghĩa là: Sư tích hiển hách còn lưu ở hồ Động-đình. Danh của bà lưu lại muôn thủa, bởi lòng trung nghĩa phò vua Trưng.
Để có thể tường thuật trận đánh hồ Động-đình. Cuối năm thuật giả lấy phi cơ đi Bắc-kinh. Từ Bắc-kinh đổi phi cơ đi Trường-sa, rồi từ Trường-sa đến hồ Động-đình bằng xe. Thuật giả đã du ngoạn xung quanh hồ, lên tận đỉnh núi Tam-sơn, Quan-sơn, ghềnh Tương-giang quan sát địa thế, phong cảnh, hầu thuật cho đúng.
Trong thời gian làm việc cho Ủy-ban trao đổi y học Pháp-Hoa (CMFC=Commité Médical Franco-chinois), và Liên-hiệp các viện bào chế châu Âu (CEP=Coopérative Européenne Pharmaceutique) từ năm đến năm , tôi tới vùng đất linh của tộc Việt : Hồ Động-đình, Trường-sa, Tương-đài, Tương-âu, cánh đồng Tương và núi Thiên-đài cả thảy lần.