Do trên không đã bị trận pháp của Thục Sơn cản trở nên Hoa Lân chỉ còn cách đạp phi kiếm lộn ngược lại, hạ xuống dưới chân núi nơi quấn quanh bởi mây mù. Xuyên qua khói sương mù mịt, Thục Sơn tú lệ đã hiển hiện trước mắt. Sau khi tiếp đất, chỉ thấy những bậc đá ngoằn ngoèo kéo dài vô tận, phảng phất như một con đường thông lên trời xanh. Đứng trên bậc đá, cảnh trí xung quanh tựa như tiên cảnh, những dải sương phiêu dật xa xa khiến người ta không thể phân biệt rõ mình đang ở nơi nào. Đúng là “phiêu miễu tiên cảnh thải vân thê, khinh vụ liêu nhiễu bất tri xứ.” ()
Mỹ cảnh dường này thật hiếm có trên thế gian, Hoa Lân nắm tay Diệp Thanh thong thả tiến bước, nhưng sau khi đi được hai nghìn bậc, sắc mặt Hoa Lân bắt đầu chuyển sang trắng xanh, thương thế sau lưng khiến hắn hầu như không thể thẳng lưng lên được. Ngẩng đầu dõi nhìn đỉnh núi, thấy thang đá phía trước xa tít tắp không thấy điểm cuối, Hoa Lân bất giác cảm thán: “Lên Thục Sơn khó bằng lên trời!”
Diệp Thanh phát hiện thấy sắc mặt hắn không được tốt, tức giận nói: “Muội đã biết là thương thế của huynh còn chưa khỏi rồi mà, cứ cứng đầu đòi làm hảo hán gì đó cơ. Hừm!”…Giận thì giận nhưng Diệp Thanh vẫn dìu hắn ngồi xuống một tảng đá lớn bên đường rồi rút khăn tay dịu dàng lau mồ hôi cho hắn.
Hoa Lân thở hổn hển, nhìn xuống chân núi, bỗng thấy dưới đó có ba bóng người cũng đang thẳng tiến lên Thục Sơn, nhịp bước nhanh nhẹ, hơi thở không chút gấp gáp.
Diệp Thanh cũng ngồi xuống cạnh Hoa Lân, hiếu kỳ ngó ba người dưới kia rảo bước lên thang đá, lúc này mới nhận ra bọn họ cũng còn trẻ tuổi. Hai người trong số họ có khi còn nhỏ hơn nàng một, hai tuổi. Lại nhìn vào cách ăn vận của họ, hiển nhiên không phải là đệ tử Thục Sơn.
Thiếu niên bên trái lớn tuổi hơn chút ít, những mụn vá trên y phục còn nhiều hơn cả khất cái, xem ra gia cảnh thập phần bần hàn. Thiếu niên đi giữa ăn mặc tươm tất, nhưng giữa hai mi lộ ra một nét ngạo mạn, chắc hẳn là thiếu gia công tử của nhà nào đó. Thiếu niên thứ ba ăn vận bình thường, tướng mạo cũng có thể coi là anh tuấn, trên mặt đầy vẻ cố chấp, nhìn kỹ lại có cảm giác hơi ngây ngô.
Ba thiếu niên ngày càng đến gần, khi họ nhìn thấy Diệp Thanh đều khựng lại một lát.
Diệp Thanh từ lâu đã quen với ánh mắt kiểu này, nhu mì nói với Hoa Lân: “Công tử, muội thấy sắc trời hãy còn sớm sủa, chúng ta nghỉ ngơi thêm một lúc nữa rồi hãy lên Thục Sơn nhé?”
Hoa Lân uể oải gật gật đầu. Ba thiếu niên kia bước đi như bay, khi sắp lướt qua người Hoa Lân thì thiếu niên cao ngạo đi giữa ném về phía hắn một nụ cười khinh miệt rồi sải bước lên đỉnh núi. Hai thiếu niên còn lại đều gật đầu thiện ý với Hoa Lân, thấy họ sắp đi xa, Hoa Lân đột nhiên bật gọi: “Hồ Vũ Hằng…”
Ba người phía trước chợt dừng chân, tất cả đều quay lại nhìn Hoa Lân. Thiếu niên lớn tuổi ngạc nhiên hỏi: “Ý? Các người quen Hồ Vũ Hằng à?”
Hoa Lân hưng phấn đứng phắt dậy, nhưng vết thương đau nhức sau lưng khiến hắn bỗng dúi người về trước, Diệp Thanh xót xa kêu lên: “Công tử, huynh không sao chứ?”
Hoa Lân cố nhịn cơn đau, cao hứng hỏi ba thiếu niên trước mặt: “Đúng đúng đúng! Ta đến để tìm cậu ấy đây, xin hỏi ai là Hồ Vũ Hằng?”
Nào hay ba thiếu niên đều lắc đầu, chỉ tay lên đỉnh núi, nói: “Hắn ý à…Vẫn quỳ ở trên kia kìa! Ôi dà…”
Hoa Lân cảm thấy rất bất ngờ, ngượng ngập hỏi: “Xin lỗi, xin lỗi!...Các người cũng lên Thục Sơn bái sư à?”
Ba thiếu niên cùng gật đầu, người bên phải hồ hởi hỏi: “Ngươi cũng đi bái sư à?”
Hoa Lân lắc đầu, chỉ nói: “Phải rồi…Làm sao các người lại quen với Hồ Vũ Hằng?”
Thiếu niên lớn tuổi cười gượng gạo đáp: “Bọn ta quen nhau hai năm rồi. Quyết tâm bái sư của hắn còn mãnh liệt hơn chúng ta nhiều, đến giờ vẫn đang quỳ ở trên đó!”
Hoa Lân “ủa!” một tiếng, giờ mới để ý thấy ba thiếu niên này đều vác trên vai một bọc đồ, chắc là vừa xuống núi mua lương thực rồi quay lại. Hắn đang định hỏi xem Hồ Vũ Hằng gần đây thế nào thì thiếu niên lớn tuổi hơn đã hạ giọng thầm thì: “Kỳ thực chỉ cần ngươi có quyết tâm, một ngày nào đó Thục Sơn tất sẽ nhận ngươi nhập môn. Giống như ba bọn ta này, tuy chưa chính thức bái nhập Thục Sơn nhưng đã được cao nhân chỉ điểm cho một ít nội công tâm pháp rồi. Nếu không chúng ta sao có thể kiên trì đến tận bây giờ?...Vì vậy, đã lên được Thục Sơn thì nhất thiết không được nản lòng nhé!”
Diệp Thanh cười khúc khích, té ra ba thiếu niên này vẫn tưởng rằng Hoa Lân lên Thục Sơn để bái sư. Xem ra bọn họ cũng từng thấy rất nhiều đồng bạn nửa đường bỏ cuộc nên mới có nghĩa cử tiết lộ thiên cơ này.
Nụ cười của Diệp Thanh lập tức thu hút sự chú ý của ba thiếu niên, khiến họ si mê ngắm nhìn không chớp mắt.
Diệp Thanh nổi cáu: “Này!...Các người còn không lên núi đi à?”
Ba thiếu niên đó giờ mới hồi thần, mặt đều đỏ bừng. Vẫn là thiếu niên cao ngạo có phản ứng đầu tiên, vội vàng nói: “Thế này đi! Chúng tôi lên núi cùng hai người, như vậy cũng tiện chiếu cố cho nhau.”
Hoa Lân thầm nghĩ như thế cũng tốt nên liền đứng dậy, thấy nghỉ ngơi xong đã khá hơn nhiều, vội nói: “Tốt, cùng xuất phát thôi! Đến lúc đó xin các vị giúp tôi tìm Hồ Vũ Hằng, được không?”
Ba thiếu niên đồng thanh: “Không thành vấn đề!”
…
Trên đường đi, Hoa Lân qua cuộc trò chuyện đã biết được thiếu niên lớn tuổi tên gọi Tưởng Thuần Văn, từ nhỏ là một cô nhi, còn thiếu niên cao ngạo quả nhiên là một phú gia công tử, tên Đường Hoàn Binh. Thiếu niên cố chấp còn lại là người từ Mai Châu xa xôi ngàn dặm tới bái sư, tên là Khang Vĩnh.
Trong lúc nói cười, họ đã leo lên đỉnh núi được gần hai nghìn bậc nữa. Hoa Lân mồ hôi lạnh chảy ròng ròng, đến khi sắp không kiên trì nổi thì cuối cùng đã tới được đại môn của Thục Sơn.
Tưởng Thuần Văn khen ngợi Hoa Lân: “Người bình thường leo núi chỉ đi được sáu trăm bậc là đã muốn nghỉ rồi, vậy mà Lân thiếu có thể đi một hơi hai nghìn bậc, thật khiến người ta bội phục!”
Khang Vĩnh cũng gật đầu lia lịa nói: “Nhớ năm đó ngay cả ta cũng phải nghỉ bốn lần mới trèo lên đến đây, những người khác ít nhất cũng phải nghỉ tám lần mới lên được!”
Khỏi phải nói đến sự phiền muộn trong lòng Hoa Lân, xem ra bọn họ đều đối đãi với hắn như bậc “hậu sinh” rồi. Diệp Thanh cười khanh khách nói: “Công tử nhà ta đương nhiên phải lợi hại rồi!”
Đường Hoàn Binh vốn luôn khá lãnh ngạo đột nhiên mở miệng nói: “Ài!...So với Diệp cô nương thì chúng tôi thật đáng hổ thẹn!”
Tưởng Thuần Văn và Khang Vĩnh đều có cùng cảm giác, đồng thanh nói: “Diệp cô nương có phải đã học qua môn nội công gì…”
Diệp Thanh ngẩn người, không ngờ bọn họ lại hỏi câu này, hững hờ đáp: “Huyền Băng quyết!”
Đường Hoàn Binh, Tưởng Thuần Văn và Khang Vĩnh nào có biết Huyền Băng quyết là môn công phu gì, chỉ nhắm mắt nhắm mũi tâng bốc: “Lợi hại lợi hại…”
Hoa Lân cười thầm, thấy bộ dạng nịnh hót của họ là đủ biết họ từ trước đến nay chưa từng nghe nói về lai lịch của Thiên Sơn “Huyền Băng quyết”. Nếu không, bọn họ nhất định sẽ thất kinh mà nhảy dựng người!
Hoa Lân và Diệp Thanh đưa mắt nhìn nhau, nhất tề lắc đầu, lúc này mới ngẩng lên nhìn đại môn của Thục Sơn…
Chỉ thấy đại môn của Thục Sơn phái to lớn dị thường, cửa cao năm trượng trải ngang hai bên bậc thềm, rộng khoảng năm trượng có dư. Trên cạnh cửa có viết bốn chữ cuồng thảo “Thục Sơn Kiếm Tông”, tất cả đều được khảm ngọc trắng, dương quang chiếu rọi lên mặt chữ làm phát ra ánh sáng mờ mờ ảo ảo, khí thế phi phàm, đúng là sự kết hợp giữa trang trọng và siêu thoát.
Xa xa, Hoa Lân sớm đã nhìn thấy có bốn thiếu niên đang quỳ trên bậc thềm trước cửa, tư thế ưỡn thẳng rắn rỏi như bốn cây cột gỗ, thành kính quỳ tại đó không chút động đậy. Từ chân khí lưu chuyển trên thân họ có thể nhìn ra rằng nội công của họ đã có một cơ sở nhất định. Hoa Lân và Diệp Thanh đều kinh ngạc, lòng nghĩ Thục Sơn thu nhận đồ đệ cũng thật quá tà môn. Hoa Lân nhớ lại Lã Ấu Văn đã từng nói, các thiếu niên quỳ ngoài cổng bái sư đều là các đệ tử không hợp cách, nhưng tình cảnh này là sao đây?
Hoa Lân đang phỏng đoán nguyên nhân thì Đường Hoàn Binh ở bên đã kéo áo hắn, nói một câu khiến hắn phải choáng váng: “Đừng xấu hổ, cứ quỳ xuống xin bái sư cùng bọn ta đi…”
…
Chú thích: Tạm dịch: Tiên cảnh mờ ảo giẫm thang mây, sương nhẹ lượn lờ không rõ nơi nao  Trước Sau