Trời đông giá rét tháng mười hai, bình minh đạp lên sương giá.
Sau ba tháng dài thảo luận, cuối cùng sách lược di cư mà Mặc Phi đề xuất và thuyết phụcđã giành được sự tán thành của phần lớn triều đình. Quá trình di cư được dự trù trong ba năm, đặt nền tảng cho sự phát triển phồn vinh của Chiếu Quốc.
Cùng lúc đó, nghiên cứu của Tư nông tự về những hạt giống Mặc Phi đưa về cũng đã có kết quả, trong đó khoai tây, quả Thủy Mộc Châu, v.v… đã được gieo trồng trên diện tích lớn, trong những năm khó khăn, mấy loại củ quả này trở thành một nguồn thương thực chính. Mặt khác,các sứ giả được phái đi Man vực đã trở lại và mang về nhiều tin tức đáng mừng, trong đó có bông là phát hiện quan trọng nhất, những mùa trước, Chiếu Quốc vẫn chỉ có chăn, nệm vải mà không sử dụng cây bông, kỹ thuật kéo sợi bông cũng được phổ biến cho nông phụ, từ nayvề sau, chất liệu y phục của thời đại này càng trở nên đa dạng và đẹp đẽ hơn.
Khi tuyết bắt đầu tan, Mặc Phi dự định di cư một nhóm lưu dân trước, địa điểm là vị trí bên ngoài núi Ngõa Đát sáu trăm dặm, mặc dù nơi đây là nơi hẻo lánh, nhưng khoảng cách đến Tiệm Hề lại không xa, ven đường cũng nhân tiện sửa chữa đường xá, định sơ ra có năm nghìn người cùng đi, cũng không bị lệ thuộc. Triều đình gánh toàn bộ chi phí di chuyển, sau khi tới nơi, phân phát hạt giống, nông cụ xong là coi như thuận lợi, thậm chí còn có thể kịp lúc bày bừa vụ xuân.
Đề nghị này nhanh chóng được xét duyệt, đó coi như một lần thực hành, trên đường có vấn đề gì là có thể được xử lý đúng lúc.
“Phù Đồ.” Cô Hạc tìm thấy Mặc Phi, nói, “Ta muốn đi theo lần di cư này.”
“Vì sao?” Mặc Phi nghi hoặc nói.
Cô Hạc cười cười: “Ta muốn trở lại Nhung Trăn, lúc trước đã đồng ý nhận Mặc Thương làm đồ đệ, lần này đúng lúc có thể thực hiện lời hứa.”
“Cô Hạc… ngươi phải rời khỏi phủ Mặc Quân sao?”
Cô Hạc yên lặng nhìn Mặc Phi một lúc lâu, sau đó thản nhiên nói: “Bên cạnh Phù Đồ còn có Chiếu Vương bảo vệ, ở Tiệm Hề an toàn không lo nghĩ gì,ta yên tâm rồi.”
Mặc Phi nắm chặt tay, muốn nói lại thôi.
“Ha ha.” Cô Hạc vươn vai cười nói, “Phù Đồ không muốn ta đi sao?”
Mặc Phi khẽ gật đầu. Nam tử trước mặt này chính là người nàng quen biết lâu nhất, mấy lần mất tích đều do hắn không quản ngại khó khăn kiếm tìm, yên lặng giúp sức, chưa bao giờ cầu mong báo đáp, nàng thực sự đã thiếu hắn nhiều lắm.
Cô Hạc nói: “Nhìn Phù Đồ từng bước trở thành lương sĩ của quốc gia, trong lòng ta rất vui, nhưng ta… không muốn ngưỡng vọng Phù Đồ.”
“Phù Đồ luôn coi Cô Hạc là huynh trưởng.” Mặc Phi nói, “Có Cô Hạc làm bạn, trong lòng ta rất an bình.”
“Đáng tiếc…” Cô Hạc có phần tiếc nuối nói, “Ta chỉ là một người thường, bằng không, cho dù có phải tranh đoạt với trời, ta cũng quyết không lùi bước.”
Mặc Phi trở nên yên lặng, trong lòng nàng hơi áy náy, thân là nữ tử, có tư cách gì mà nhận được sự chân thành này?
“Được rồi, đừng thế nữa, cũng chớ thương tâm, Phù Đồ vĩnh viễn ở trong lòng của Cô Hạc, bất kể có ở xa hay ở gần, nhất định Cô Hạc sẽ không quản ngàn dặm đi tới.”
Đừng nói như thế nữa, càng nói lại càng khiến nàng buồn lòng.
“Giờ phút tạm biệt đến rồi, có thể cho ta một cái ôm không.” Cô Hạc giơ hai tay ra với nàng.
Mặc Phi không do dự, ôm chặt hắn.
Cô Hạc nghiêng đầu, khẽ hôn lên mặt Mặc Phi, nhẹ giọng nói: “Phù Đồ nói, Vu Việt nhìn chúng ta thế này có nổi giận không?”
Vẻ mặt Mặc Phi không chút thay đổi đẩy hắn ra, nói: “Có giận cũng không bằng Cô Hạc được.”
“Ha ha.” Cô Hạc gãi gãi đầu, xoay người vẫy tay nói, “Thay ta gửi lời chào đến Dư Sơ, nàng là một nữ tử tốt.”
Mấy ngày sau, hơn năm nghìn lưu dân đã tập hợp đông đủ, trong đó đã loại từ mấy chục cô nhi ra, độ tuổi của những đứa trẻ đó chưa đủ tiêu chuẩn để được phân chia đất đai, cho dù có di cư cũng chỉ là thay đổi địa điểm xin ăn, không bằng ở lại Tiệm Hề.
Sau khi biết được điều này, Mặc Phi đã đưa ra một quyết định. Nàng sai người mua một toà nhà lớn ở bên cạnh điền sản của nàng, chuyên dùng để thu dưỡng cô nhi.
“Phù Đồ, Phù Đồ dễ mềm lòng quá, lấy lương bổng của Phù Đồ thì nuôi dưỡng được bao nhiêu cô nhi?” Vu Việt cực kì không đồng ý.
“Thần không định nuôi những đứa trẻ đó dựa vào lương bổng của mình.”
“Ồ? Nói xem?”
“Bệ hạ thưởng cho thần nhiều ruộng đất như vậy, thần chia một phần cho những cô nhi này tự trồng trọt, Thuế đất thần nộp, những thứ những đứa trẻ đó làm ra cũng có thể tự tích cóp được ít nhiều, đợi năng xuất thu hoạch tăng, có thể dùng lương thực đổi thành tiền để có cơ hội được đọc sách.”
Vu Việt nhíu mày: “Ruộng điền của Phù Đồ đều là loại tốt, giao cho những cô nhi này chẳng phải là lãng phí sao?”
“Chỉ là thua lỗ một, hai năm thôi, chỉ cần những đứa trẻ đó có thể chịu khổ nhọc, rồi một ngày sẽ nhận được hồi báo. Nếu như sau này vẫn còn cô nhi, thần đều sẽ nhận chúng trong phạm vi năng lực của mình. Trẻ nhỏ là tương lai của quốc gia, biết đâubên trong đó lại có lương tài phục vụ cho đất nước?”
Vu Việt trầm ngâm một lúc, nói: “Vậy thì, Cô miễn thuế đất cho Phù Đồ.”
Mặc Phi suy nghĩ, không ngờ lại không cự tuyệt. Nếu sau này có người chỉ trích Chiếu Vương hành sự theo tình riêng, như thế tất sẽ có người dùng “Làm việc thiện” để bắt bẻ lạl, như vậy có lẽ còn có thể khiến cho mọi người noi theo.
Ngàydi cư đó, Mặc Phi đích thân đến cổng thành giám sát, dưới sự hộ tống của thân binh, năm nghìn lưu dân mang theo gia quyến rời khỏi Tiệm Hề.
Cô Hạc cưỡi ngựa, khoát tay áo với Mặc Phi từ xa, sau đó chỉ để lại cho nàng một hình bóng cô độc.
Gió lạnh lất phất, Mặc Phi cảm thấy sầu não, nhưng lại càng thêm chờ mong với tương lai.
Lần di dân đầu tiên, đặt dấucho cuộc đại di dân ở Chiếu Quốc đã chính thức được mở màn.
Sau đó, cứ cách một thời gian, các nơi trên toàn quốc sẽ có một nhóm lưu dân được di chuyển. Mặc dù trong toàn bộ quá trình cũng gặp phải rất nhiều khó khăn, nhưng bởi vì trước đó đã chuẩn bị đầy đủ nên vẫn chưa xảy ra bạo động khiến cho quan viên lo lắng.
Càng làm người ta bất ngờ làkế hoạch di cư vốn được dự trù trong ba năm, vậy mà chỉ hai năm là đã có thể hoàn thành, nguyên nhân là do đông đảo hành giả giúp sức.
Một năm sau, Phù Đồ hành chí của Dư Sơ cũng đã thành sách, được truyền lưu trong đông đảo văn sĩ, chỉ trong mấy tháng đã lan tới khắp bắc nam, đồng thời ba mươi sáu hành giả Phật đồ Mặc Phi phái đi, vâng theo điều thiện, khổ hành thiên hạ, rất nhanh chóng đã được dân chúng kính yêu, bọn họ mang theo muôn loại kỹ thuật, phổ biến cây trồng, không sợ gian khổ, đi khắp núi cao trùng điệp, lấy việc giúp người làm niềm vui, phẩm hạnh này được thế nhân vô cùng tôn sùng, vì thế ngày càng xuất hiện nhiều hành giảvãng lai tới khắp nơi, ban ơn cho khắp mọi người.
Trong đó có mấy người là đệ tử thế gia, sau khi nhận được thông cáo thu nhận lưu dân đã chủ động huy động thế lực địa phương, kiểm kê nhân số, quyên góp tiền bạc trợ giúp việc di chuyển.
Những đệ tử thế gia này được dân chúng thừa nhận và triều đình ca ngợi, ảnh hưởng trực tiếp của điều này là ngày càng có nhiều quý tộc bắt đầu tự phát thi hành kế hoạch của triều đình. Hai năm sau, triều đình tiết kiệm được một phần ba dự toán. Mà những nhóm lưu dân trước đó cũng đã được an cư lạc nghiệp, sản lượng lương thực tăng cao, quốc khố thiếu hụt cũng đã bắt đầu dư thừa.
Sau mấy năm, Chiếu Quốc chính thức tiến vào thời kì phồn vinh, thương nghiệp phát triển nhanh chóng, hàng loạt cây trồng mới được phổ biến, sản lượng lương thực tăng cao, khắp nơi đều xây dựng kho lương, quốc khố dồi dào, dân cư tăng trưởng, binh hùng tướng mạnh, trường học san sát, phổ cập giấy, tuyển chọn nhân tài bắt đầu xuất hiện, kỹ thuật in ấn cũng bắt đầu thành hình…
Chiếu Quốc phát triển nhanh chóng, Khánh Quốc kết minh với Chiếu Quốc cũng bắt đầu tiến vào thời kì thịnh vượng.
Sau khi ký kết hiệp ước, Khánh Vương Phong Đìnhcùng thay đổi thói quen xa hoa, bắt đầu đề xướng theo phong tục sinh sống giản dị của các tăng sư, xây dựng miếu thờ cung phụng “Thần Thiên Quân” ở khắp nơi, đồng thời thống nhất trang phục, chữ viết, nhập cây trồng của Chiếu Quốc, phát triển nông nghiệp. Thương nghiệp vốn cũng đã rất phát đạt ở Khánh Quốc, sau một loạt các chế định thương pháp, lại càng thêm quy mô và thịnh vượng hơn.
Phù Đồ hành chí được truyền lưu khiến cho Khánh Quốc cũng xuất hiện rất nhiều hành giả, bọn họ đi tới những vùng đất xa xôi, cống hiến rất lớn cho Khánh Quốc.
Mà trong lúc này, Bảo Tôn và một hành giả cùng đồng hành đã phát hiện ra tác dụng của huyễn tảo ở Mị Hải nguyên Cảnh Quốc. trong vùng huyễn tảo sinh trưởng không hề xuất hiện cá tôm, nhưng ai mà ngờ nó lại là một vị thuốc tiên chữa trị thương tích, mang đi phơi nắng, mài thành bột, đắp vào vết thương có thể cầm máu ngay tức thì. Đối với nền y học còn lạc hậu ở nơi đây, đó chính là một phát hiện vĩ đại nhất.
Năm Nguyên Chẩn thứ ba, Khánh Quốc và Chiếu Quốc ký kết chính sách liên minh thương nghiệp, giấy, khoai tây, v.v… của Chiếu Quốc được nhập vào, mà huyễn tảo, nông cụ, khí giới, v.v…cũng được nhập, hai nước quan hệ hữu hảo, bắt đầu một thời kìhòa bình phồn vinh kéo dài đến tận hai trăm năm.
Năm Nguyên Chẩn thứ năm, Khánh Vương phái Tê Túc làm sứ giả, đưa ra đề xuất hôn ước giữa hai quốc gia. Chiếu Vương cùng thần tử thảo luận mấy ngày, chấp nhận đề xuất.
Năm Nguyên chẩn thứ sáu, con gái của Khánh Vương được chính thức gả cho con trai Chiếu Vương, kết mối quan hệ thông gia. Mà Tê Túc làm sứ giả, sau này cũng trường trú ở Tiệm Hề Chiếu Quốc, hắn cũng trở thành khách quen của phủ Mặc Quân, bị Vu Việt lên án vô số lần.
Trong lúc bận rộn, Mặc Phi thường xuyên nhớ tới Trạm Nghệ vẫn đang ngủ say, sau khi linh hồn Trạm Nghệ bị phân chia, Khánh Vương nhận được một nửa ký ức, từng bước trở thành người nối nghiệp của Tần tộc, mà một nửa lưu lại trong Ngọc Phù của Mặc Phi thì lại vẫn không có động tĩnh gì.
Cho đến khi miếu thờ “Thần Thiên Quân” của Khánh Quốc nghênh đón tín đồ thứ chín trăm chín mươi chín, cuối cùng Ngọc Phù đã xuất hiện biến đổi.
Trong một lần đấu võ vui với Lạc Thần, chẳng những Mặc Phi có thể né tránh linh hoạt mà còn có thể nhanh chóng phản kích, hạ gục Lạc Thần.
Lúc ấy Mặc Phi còn giật mình hơn cả Lạc Thần, nàng nhanh chóng nhận ra Trạm Nghệ đang sống lại, tuy rằng vẫn không có ý thức rõ ràng, nhưng hắn đã có thể phản kích lại dựa vào cảm giác nguy cơ của Mặc Phi.
Trong lòng Mặc Phi vui sướng không nói nên lời, nàng tin không bao lâu sau, chắc chắn Trạm Nghệ có thể thức tỉnh hoàn toàn.
Năm Nguyên Chẩn thứ bảy, Hiền sư Lư Khâu từ quan, Mặc Phi được mọi người tiến cử trở thành tể tướng của Chiếu Quốc, ngồi trên vị trí dưới một người trên vạn người.
Theo sự đề cao của thanh danh và địa vị của Mặc Phi, quan hệ của “Hắn” và Chiếu Vươngcũng trở thành một đề tài bàn tán hăng say của mọi người, lời đồn “Đoạn tay áo” cũng dần dần trở thành điển cố, được thế nhân tạo ra muôn loại phiên bản.
Chiếu Vương đã mấy lần bác bỏ tấu chương lập Hoàng hậu, sau khi quần thần khuyên nhủ không có kết quả, cuối cùng đã nhận ra quyết tâm của hắn. Mặc Phi chưa từng phát biểu bất kì ý kiến gì về việc này, các đại thần cũng không dám tỏ thái độ với “Hắn”, hai người này,một minh Quân, một danh thần, hỗ trợ lẫn nhau sáng lậpnên thịnh thế, công lao này cũng đủ đề bù đắp tất cả.
Mấy năm sau, bọn họ cũng không nói thêm nữa, xem như đã cam chịu kết quả như vậy.
Sau khi hai người qua đời, trong Chính sử có ghi rằng Mặc Phi là tể tướng của Chiếu Quốc, nhưng mà trong Dã sử, “Hắn” còn có một danh hiệu nữa, chính là – “Hoàng hậu không ngai”.