“Tiểu Dạng Nhi tới Vương thôn rồi.” lão Miêu đứng trên cửa sổ lắc lắc cái đuôi, lười biếng nói: “Đi tối qua.”
“Vương thôn?” Đông Chí giật mình, không yên lòng khuấy khuấy hộp dầu thông trong tay, lại bóp thêm chút thuốc màu pha vào: “Chính là cái làng chài năm ngoái đã tới đấy sao?”
Tiểu Xám liếm liếm móng vuốt mình, không lên tiếng.
Thành phố Tân Hải nằm ven biển, các đô thị vùng duyên hải đều đã được khai phá cảnh biển làm điểm du lịch, cầu tàu có trải thềm đá, quang cảnh những thuyền đánh cá thuần phác trước kia đã sớm không còn thấy. Đông Chí biết phụ cận gần đó có một làng chài nổi danh, nhưng trước giờ vẫn chưa từng tới đó. Những hải đảo nằm xa hơn một chút, anh lại đã tới không chỉ một lần.
Tiểu Dạng Nhi từng theo anh tới một làng chài nhỏ gọi là Vương thôn nằm trên đảo, các thuyền đánh cá của bọn họ chạng vạng mỗi ngày mới trở về nhà, toàn bộ người trong thôn đều ra bến chờ thuyền về, người lớn, trẻ nhỏ náo nhiệt vô cùng, tựa như sắp đón năm mới. Chờ sau khi bọn họ tản đi hết thì trên bến tàu còn lưu lại rất nhiều tôm cá nhỏ ngư dân không cần, đều tươi mới cực kỳ. Đông Chí cũng từng tìm hiểu về làng chài nhỏ kia, từ nội thành xuất phát đi cũng mất hai giờ chạy xe. Anh không nghĩ ra Tiểu Dạng Nhi đã tới đó như thế nào, chạy bộ? hay là trốn ở góc khuất không ai biết đi nhờ xe người ta tới?
Động vật có những bí mật riêng không ai biết tới khiến Đông Chí vừa thấy kinh ngạc vừa thấy thần kỳ vô cùng.
“Chắc là chỗ đó không?”
“Còn có Bồi Tây nữa.” Tiểu Xám bất mãn giật giật lỗ tai: “Khi tôi tìm được hai đứa nó, chúng nó đang định lẻn vào cảnh cục để tìm cái khăn tay của anh. Nếu không phải do tôi ngăn lại, không biết còn gây chuyện ầm ĩ thế nào nữa?”
Đông Chí bị ngữ khí của nó chọc cười. Anh đương nhiên biết tuổi Tiểu Xám đã cao, nhưng bộ dạng nó xù lông như vậy, thấy thế nào cũng là một tiểu sủng vật đáng yêu, cho nên mỗi lần nghe nó lên mặt ông cụ non giáo huấn đám nhóc mèo con kia, Đông Chí đều khó hiểu cảm thấy buồn cười.
“Mày làm rất đúng.” Đông Chí mỉm cười khen nó: “Nếu thật sự để chúng nó đi tìm chiếc khăn tay, vậy càng khiến cảnh sát coi trọng manh mối này, đến lúc đó chỉ sợ càng thêm phiền toái.”
Trên mặt Tiểu Xám toát ra biểu tình vừa kiêu ngạo lại tự đắc.
Đông Chí rất muốn cười, tuy rằng Tiểu Xám dùng hành động của mình để chứng minh quy luật gừng càng già càng cay nhưng khi thấy cặp mắt màu lam ngập nước kia của nó, Đông Chí cảm thấy đáng yêu không chịu nổi. Nếu không phải băn khoăn lòng tự trọng của nó cao ngút trời thì anh đã muốn chạy tới xoa đầu nó một phen.
“Lần trước mày bảo sẽ đi cùng Tiểu Dạng Nhi mà.” Đông Chí hỏi nó: “Sao không đi theo?”
Tiểu Xám nhấc thân đứng lên, lười biếng nhắm mắt lại: “Lớn tuổi, chạy không nổi.” Nói xong còn khẽ thở dài.
Đông Chí nhịn không được, lại gần gãi gãi cổ nó. Anh không biết nên nói gì cho phải, bởi vì anh biết, Tiểu Xám đúng là đã già rồi.
“Đông Chí.” Tiểu Xám nhắm mắt lại lắc lắc cái đuôi cụt: “Tôi cảm thấy anh như vậy không ổn.”
“Không ổn chỗ nào?” Đông Chí từng cái từng cái vuốt lông Tiểu Xám. Khác với Tiểu Dạng Nhi và Bồi Tây lông tơ mềm mại, lông Tiểu Xám đã trở nên thô ráp cứng ngắc, đồng thời mất đi sức sống mạnh mẽ và màu lông sáng bóng như hồi trẻ, cảm xúc trong lòng bàn tay anh lúc này giống như nhuốm đầy hương vị tang thương.
Tiểu Xám lười biếng nói: “Anh cứ ở cùng chúng tôi như thế không ổn đâu. Anh đừng quên, những người đi hai chân ngoài kia mới là đồng loại của anh.”
Đông Chí tạm dừng một chút, sau đó lại tiếp tục vuốt lông nó, lại nhẹ nhàng gãi gãi cái đuôi nhỏ lắc qua lắc lại: “Tao biết.”
Nửa câu sau anh không nói. Nhưng anh cảm thấy Tiểu Xám nhất định hiểu được.
Đôi khi, anh thà rằng mình không phải đồng loại với bọn họ.
Tiểu Xám nói khiến anh nhớ tới lời chị dâu Hàn Mẫn.
Mấy năm trước khi chị Hàn Mẫn được anh hai dẫn về Lăng gia gặp gia trưởng, cũng đã nói với anh hai rằng chú út quả thực không chút thú vị. Đương nhiên nguyên văn câu nói của chị ấy vốn không phải như thế. Cho dù chị ấy có dùng mấy câu đại loại như “không vướng khói lửa nhân gian” gì đó nghe qua tương đối mỹ miều văn nghệ để tô điểm ý tứ của chị ấy, nhưng từ nhỏ tới lớn đã nghe rất nhiều nghị luận kiểu như thế nên anh hai Lăng Lập Đông lập tức liền hiểu ý chị ấy muốn biểu đạt, sau đó anh ấy lại dùng một câu thực không đầu không đuôi để diễn tả cái nhìn của mình: “Em cũng phát hiện sao? Kỳ thật anh vẫn luôn hoài nghi chú ấy là yêu tinh.”
Sau đó, Lăng Bảo Bảo được sinh ra, Đông Chí ngại ồn cứ tránh xa, Hàn Mẫn liền nói để anh dính chút nhân khí nên cứ ném thằng bé cho anh. Lăng Bảo Bảo còn đặc biệt vui lòng quấn lấy anh mà chơi đùa, cho nên có đôi khi Hàn Mẫn còn oán giận với ông bà nội là anh cứ trốn tránh Lăng Bảo Bảo.
Đông Chí trong lòng rõ ràng, chị dâu không phải đang muốn đùa giỡn anh, anh có thể nhìn ra trong mắt chị ấy có sự nghi ngờ được cho là đã che dấu thực hoàn hảo. Không phải thật sự hoài nghi mình không phải nhân loại mà Đông Chí cảm thấy chị dâu đang nghi ngờ anh rốt cuộc có phải mắc chứng tự bế hoặc là có vấn đề về tinh thần nào đó không.
Đông Chí cảm thấy mình tất yếu vẫn nên tự kiểm điểm lại bản thân, từ nhỏ tới lớn anh quả thật không có bạn bè đặc biệt thân thiết nào đó. Khi còn bé, anh đặc biệt hướng nội, sau đó lớn lên phần lớn thời gian anh đều đặt trong chuyện vẽ tranh, cơ hồ chưa từng cùng lũ nhỏ hàng xóm chạy nhảy nghịch phá cái gì. Khi lên đại học ngược lại cũng khá thân cận với học trưởng…
Đông Chí lắc đầu, tận lực bỏ qua đoạn hồi ức này.
Sau khi đi làm, nhà trường yêu cầu bọn họ sáng tạo tác phẩm, đề cao sự nổi tiếng của bản thân. Cho nên trừ bỏ thời gian lên lớp, toàn bộ thời gian còn lại đều đặt hết trong phòng vẽ tranh, trừ bỏ thầy Lục giáo viên Mỹ thuật tạo hình và Tiểu Chúc ở lầu trên kí túc xá, còn lại anh đều duy trì khoảng cách không xa không gần với những đồng nghiệp khác trong trường. Tựa hồ không có một ai có thể giống như tụi Tiểu Xám, vẫn luôn thản nhiên bước vào trong cuộc sống sinh hoạt của anh.
Tiểu Xám được anh vuốt ve càng duỗi người làm biếng: “Đông Chí, anh quá cảnh giác. Tôi không hiểu anh đang đề phòng cái gì?”
“Thói quen thôi, có đề phòng gì đâu.” Đông Chí cười lắc đầu: “Còn nữa, giao tiếp với người khác là một chuyện rất phiền phức.”
“Tôi nói chính là ý này.” Tiểu Xám liếm liếm đầu ngón tay anh: “Phiền toái chính là một phần của cuộc sống nhân loại. giống như trời sinh mèo phải bắt chuột, con người trời sinh chính là sống cùng một chỗ với đồng loại. Anh lại không hợp đàn.”
“Tao không cảm thấy mình không hợp đàn.” Đông Chí muốn biện giải cho mình: “Mày xem, phần lớn thời gian của tao đều đặt trong việc hoàn thành tác phẩm — đây vốn là chuyện một mình mình phải hoàn thành, cũng không phải diễn kịch, cần gì phải hợp tác với ai?”
Tiểu Xám nằm trên cửa sổ phơi nắng nửa ngày, ánh mắt đã díp cả lại, nghe anh nói vậy, mắt không thèm mở mà lầu bầu một câu: “Tôi cảm thấy anh so với tôi càng giống mèo hơn. Có lẽ, anh kỳ thật là một con mèo, chỉ là trưởng thành sai hình dạng.”
Đông Chí ngẩng đầu, nhìn về phía Tiểu Bát Tiểu Cửu vừa đậu xuống một cành cây ở cách đó không xa, ra hiệu chớ có lên tiếng. Anh biết Tiểu Xám hẳn là rất mệt, nếu không phải vội vàng chạy về nói cho anh biết tình hình của Tiểu Dạng Nhi và Bồi Tây thì nó sẽ không lao lực mà chạy một mạch khu vực trường học. Hình như loài mèo cũng có phân chia địa bàn riêng, tựa như khu vực trường học này hẳn là thuộc về đám ly miêu ở sau núi kia.
Còn quyền sở hữu quanh khu vực phòng vẽ tranh đã sớm bị Tiểu Bát Tiểu Cửu đánh dẫu lãnh thổ của mình. Bình thường, lúc này, Tiểu Bát Tiểu Cửu cũng sẽ tới cửa sổ phòng tranh của anh phơi nắng, hoặc ăn chút vụn bánh mì anh cho. Chỉ là địa bàn hàng ngày của chúng nó hôm nay đã bị một lão miêu chiếm cứ, điểm này khiến cho con bồ câu rất bất an. Thẳng tới khi đại gia hỏa này đi ngủ, hai chúng nó vẫn còn chút kinh hồn bất định. Hơn nữa, chúng cũng nhìn ra lão miêu này là người quen của Đông Chí, hai con bồ câu càng lo lắng liệu sau này nó có thường xuyên xuất hiện hay không? Nếu thường xuyên tới đây vậy ở trên địa bàn của mình lúc nào cũng thấy một lão miêu hung tợn dữ dằn, cuộc sống của hai chúng nó còn có gì tốt đẹp để nói đây?
Tiểu Bát thực cẩn thận nhảy tới đầu ngọn cây tương đối gần cửa sổ, vừa nơm nớp lo sợ nhìn lão miêu đang ngủ, vừa thấp giọng hỏi Đông Chí nhằm chứng thực nghi vấn trong lòng chúng lúc này: “Ngày mai nó lại đến sao?”
Đông Chí cười lắc đầu: “Hôm nay là có chuyện. xin lỗi, dọa tụi mày sợ sao?”
Tiểu Bát thấy anh lắc đầu, nhất thời thở phào một hơi: “Tiểu Thập Tam nhà tôi chính là bị mèo bắt đi… mẹ nó, dọa chết người.”
Đông Chí cũng thấp giọng lặng lẽ an ủi chúng nó: “Đừng sợ, tao sẽ nhắc nhở nó.”
Tiểu Bát khó tin liếc Tiểu Xám thêm một cái: “Nó sẽ nghe lời anh sao?”
Đông Chí gật đầu.
Tiểu Xám đột nhiên quẫy đuôi một cái, Tiểu Bát sợ tới mức bay vọt lên. Tiểu Cửu đậu trên cành cây xa xa cũng bất an mà vỗ cánh mấy cái.
“Đừng sợ.” thấy bộ dạng thất kinh của hai tiểu tử kia, Đông Chí có chút áy náy: “Mai tao mang hạt ngô cho tụi bay nhé.”
Tiểu Bát run rẩy đậu xuống bên cạnh Tiểu Cửu, còn không quên cò kè mặc cả với anh: “Phải là loại ngô ngọt của nhà bà Cố trong chợ.”
Tiểu Cửu cọ cọ bả vai nó mấy cái, sẵng giọng: “Tiểu Bát!”
Tiểu Bát chịu kinh hách, thái độ rất kiên trì: “Muốn ngô ngọt nhà bà ấy — Đông Chí, anh trước kia từng nói, mỗi khi chịu kinh hách phải ăn đồ ngọt mới trấn tĩnh được, nếu không sẽ lưu lại bóng ma tâm lý.”
“Tao có nói vậy sao?” Đông Chí đực mặt.
Tiểu Bát lao thẳng xuống chỗ Đông Chí gào to: “Không được quỵt nợ! Không được giả bộ quên!”
Tiểu Xám nằm trên cửa sổ bị quấy nhiễu, thập phần không kiên nhãn mà xoay người một cái, cái đuôi như muốn uy hiếp mà đập đập xuống nền hai cái. Tiểu Bát hoảng sợ, ở giữa không trung vèo một cái lượn cong chuyển hướng, lủi thủi đậu trở về bên cạnh Tiểu Cửu.
Đông Chí che miệng mỉm cười.