Ngày hôm sau, tôi vẫn còn hiện tượng lồng ngực bí bách, đau nhói, thân thể mỏi mệt, cố gắng lắm mới thức dậy được nhưng cũng lại nằm bệt trên chiếc giường trúc. Bảo Cửu Nhi mở cửa sổ ra, tôi ngắm bầu trời xanh thẳm bên ngoài, thi thoảng lại có một vài cánh nhạn bay qua.
Bản thân Đường Thiên Trọng cũng rất bất an, vào cung không bao lâu là quay về phủ, nhìn thấy cổ tay tôi vẫn sưng vù, lại không chịu bôi thuốc, liền quay sang trách mắng Vô Song: “Nếu ở đây không còn thuốc nữa thì kêu người đi lấy về cũng đâu có gì khó khăn?”
Vô Song uất ức, nhìn tôi rồi quay sang nói: “Nô tì đã sai người đi lấy thuốc khác về, có điều cô nương không muốn dùng.”
Cửu Nhi thì chu miệng lên nói: “Một khi cô nương tức giận, e là những bệnh trước đây sẽ tái phát, sáng nay cũng chỉ ăn có mấy miếng cháo rồi thôi.”
Đường Thiên Trọng không còn vẻ ôn hòa, thương xót, thậm chí còn quỵ lụy hối hận như khi hai chúng tôi đơn độc vào buổi đêm hôm qua nữa, ngài cầm chén trà đặt trên bàn uống một ngụm rồi nhíu chặt đôi mày, nhìn tôi nói: “Mau dùng thuốc, xong rồi lại đây ăn chút gì đi.”
Tôi nhanh chóng đáp lại: “Ta thấy không khỏe, mau gọi giúp ta một thái y đến đây xem bệnh.”
Vô Song quay sang nhìn Đường Thiên Trọng với ánh mắt ngần ngại.
Tay, chân tôi có vết tích rõ ràng bị người khác gây thương tổn, gọi thái y tới, tin đồn truyền ra ngoài, đương nhiên Khang hầu cũng chẳng còn thể diện gì nữa.
Đường Thiên Trọng nhìn vết thương trên tay tôi, rồi quay đầu sang nói: “Mau đi truyền thái y tới.”
Lúc Vô Song nhận lệnh đi mời thái y, Đường Thiên Trọng nháy mắt ra hiệu, cô bé nhanh chóng hiểu ra, lặng lẽ dắt bọn Cửu Nhi ra ngoài hết.
Đợi sau khi bọn người hầu ra hết, Đường Thiên Trọng bước tới chiếc giường trúc rồi ngồi xuống, trầm ngâm giây lát mới mỉm cười nói: “Ta là người xấu, vậy nên nàng nhất định phải để cho tất cả mọi người biết được ta là người xấu, đúng không hả?”
Tôi mỉm cười đáp: “Thiếp chưa bao giờ nói hầu gia là người xấu cả.”
Đường Thiên Trọng than ngắn thở dài: “Nàng không nói còn lợi hại hơn cả nói ra, không chịu dùng thuốc mà bắt phải gọi thái y tới, chính là muốn mượn miệng của bọn họ để truyền tin tức này đến chỗ phụ thân. Tốt nhất là phụ thân sẽ tức giận mà đánh cho ta một trận nên thân, thay nàng trút giận, đúng không?”
Miệng tôi khẽ nhếch lên để lộ nụ cười hứng thú, sau đó liền nói: “Hầu gia đã lo xa rồi. Vương gia dù thế nào đi nữa thì cũng không thể vì một người phụ nữ hèn kém như thiếp mà nỡ ra tay đánh người con ruột thịt đường đường là một hầu gia như ngài được. Nếu như hầu gia sợ thái y ăn nói tùy tiện ảnh hưởng tới danh tiếng của mình, thì có thể sai người dặn dò một tiếng, với oai danh của hầu gia, thách bọn họ cũng chẳng dám tiết lộ ra ngoài một chữ nào.”
Đường Thiên Trọng “hừm” một tiếng rồi cười nhạt nói: “Nàng cho rằng, ta thật sự sợ người ngoài bàn tán thị phi hay sao? Chỉ có điều ta thật sự không phục, tại sao trong lòng nàng, ta lại có thể xấu xa tới mức độ đó?”
Tôi đành phải đáp lại: “Thiếp chưa từng cảm thấy hầu gia xấu xa đến mức độ nào.”
Chỉ là ngài mắc phải căn bệnh dã tâm quá lớn của kẻ mạnh, xưa nay không thoát khỏi mà thôi.
Lòng dạ sâu xa, mưu mô xảo quyệt, tính toán từng bước, để đạt mục đích của mình thì không từ bất cứ thủ đoạn nào. Cho dù là liên quan đến tình yêu hay quyền thế.
Đôi mắt sâu thẳm, huyền bí của Đường Thiên Trọng nhìn chằm chằm vào tôi rồi nói: “Ta thừa nhận có nhiều lúc thủ đoạn của ta không được quang minh lỗi lạc cho mấy. Nhưng chí ít ta không làm những chuyện độc ác, ngớ ngẩn, hèn kém như hạ độc Đường Thiên Tiêu trong tẩm cung của nàng. Ta không ngu ngốc đến mức đẩy nàng vào khổ nạn chỉ vì sự đố kị và căm hận của bản thân.”
Tôi cảm thấy hơi bất ngờ.
Vô Song cũng từng giải thích chuyện này thay cho chủ nhân của mình, nhưng tôi chưa bao giờ tin vào điều đó. Nói cho cùng với tình hình hiện nay, ngoại trừ ngài ra, còn ai vừa có động cơ lại có cơ hội để hạ độc thủ với Đường Thiên Tiêu?
Đường Thiên Trọng thấy tôi trầm tư liền cười nhạt nói tiếp: “Thanh Vũ, nàng là người thông minh, lẽ nào chưa từng nghĩ tới việc chính người hầu thân cận bên cạnh mình cũng có khả năng ra tay hạ độc hay sao? Nếu như nàng thật sự không hề biết gì, tại sao khi đến phủ Nhiếp chính vương lại chỉ đích danh muốn Cửu Nhi tới đây hầu hạ? Nếu như không phải Cửu Nhi âm thầm thông báo, làm sao mà nàng biết được sự việc tối qua chính do ta sắp xếp?”
“Cửu Nhi?”
Lần này, tôi thật sự cảm thấy kinh ngạc.
Đường Thiên Trọng cau chặt đôi mày: “Nàng thật sự cho rằng bản hầu không biết chuyện gì hay sao? Ngay cả Đường Thiên Tiêu, có lẽ sau đó cũng biết rõ không phải ta hạ độc thủ. Lúc đó, tuy rằng chưa thể điều tra rõ ngọn ngành, nhưng sau đó, lúc Trang Bích Lam vào cung định cứu nàng ra khỏi cung không thành, Thiên Tiêu chắc hẳn cũng điều tra đến đám nội ứng của Trang Bích Lam, phân định rõ đây là nhóm người thân tín của Tín vương Nam Sở trước kia. Đường Thiên Tiêu từng có ý định điều tra đến ngọn nguồn sự việc, nhưng mấy người bị khui ra đều rất trung thành, thà chết không chịu khai ra đồng lõa. Người đưa đường dẫn lỗi cho nàng tới gặp Trang Bích Lam không phải là Cửu Nhi hay sao? Làm sao lại không liên quan đến những nội ứng kia? Bởi vì nàng nhất quyết bao bọc, bảo vệ, Đường Thiên Tiêu lại thương xót nàng, tìm ra được chân tướng, nhưng sau cùng cũng chẳng làm gì Cửu Nhi hết.”
Ngài nhìn tôi rồi lại nói thêm: “Ta thật sự chẳng nhớ được nhiều, có điều người hầu thân cận bên cạnh, chắc hẳn nàng cũng phải biết được ít nhiều chứ? Nàng chỉ cần nhớ lại xem, lúc ta với Đường Thiên Tiêu uống rượu, Cửu Nhi có rót rượu cho Đường Thiên Tiêu hay không là rõ ngay thôi.”
Tôi cảm thấy vô cùng ngạc nhiên.
Chọn Cửu Nhi làm cung nữ thân cận từ rất nhiều người là sau khi tôi thoát khỏi kiếp nạn rượu độc nọ. Hôm đó khi nhìn thấy tôi bình an quay về cung, cô bé còn suýt nữa vấp té, sau đó cố gắng làm mọi chuyện để gây sự chú ý của tôi. Sau đó lại biết được cô bé là cung nữ từ triều Nam Sở, hoạt bát, lanh lợi, dễ gần, thân thiết. Ngay cả khi đến phủ Nhiếp chính vương, muốn tìm một người hầu không có mưu mô gì nhất, người đầu tiên tôi nghĩ tới cũng là Cửu Nhi.
Vào hôm đó, trong số những cung nữ rót rượu cho Đường Thiên Tiêu và Đường Thiên Trọng chắc hẳn là có cả Cửu Nhi.
Tín vương mà Đường Thiên Trọng nhắc tới, chính là hoàng đệ của Lý Minh Xương, Hoàng đế sau cùng của Nam Sở, là bạn bè thâm giao với đại tướng quân Trang Dao và phụ thân của tôi là Ninh Bình Du, trong triều đình có uy danh rất lớn. Nghe nói khi nhà họ Trang xảy ra chuyện, ngài không giúp được gì, tức giận bỏ về vùng đất phong của riêng mình ở phía Đông Hải. Đến khi Nam Sở đầu hàng Đại Chu, ngài kéo theo gia quyến cùng hơn một vạn thuộc hạ đầu quân cho Bắc Hách. Vương thái hậu của Bắc Hách chính là chị ruột của ngài, cũng vô cùng căm tức trước sự diệt vong của Nam Sở, có ý định trợ giúp em trai để phục hưng nhà Nam Sở.
Lẽ nào Cửu Nhi chính là người của Tín vương? Tín vương có mối thâm giao cùng với nhà họ Trang, Cửu Nhi đầu độc Hoàng đế Đại Chu rồi giá họa cho người khác, sau đó lại ra tay giúp đỡ Trang Bích Lam cũng là chuyện hợp tình hợp lí.
Tuy rằng trong lòng cảm thấy hoài nghi, nhưng khi ngước mắt lên nhìn ánh mắt lấp lánh, toát ra khí thế ép người quá đáng của Đường Thiên Trọng, trong lòng tôi lại cảm thấy tức giận, liền đáp: “Thiếp chẳng hiểu mấy chuyện quốc gia đại sự này, cũng không biết Cửu Nhi có phải là người của Tín vương hay không? Thế nhưng hôm qua chỉ nhìn qua mảnh giấy đó, thiếp đã biết luôn có người âm thầm gài bẫy. Bích Lam và thiếp đã kết giao mười mấy năm trời, huynh ấy chưa bao giờ coi thiếp như một quân cờ để lợi dụng. Nếu như đã có thân tín tiềm phục trong phủ Nhiếp chính vương thì huynh ấy đã đưa thiếp ra khỏi nơi này từ lâu rồi, chứ tuyệt đối không bao giờ sai khiến thiếp làm những chuyện nguy hiểm như hạ độc giết người.”
Đường Thiên Trọng than thở: “Nàng luôn luôn giữ niềm tin tuyệt đối với hắn vậy sao?”
Sống mũi tôi cay sè, nhưng vẫn mỉm cười nói: “Nếu như huynh ấy cũng lợi dụng thiếp như thế, thì đã không còn là một Trang Bích Lam mà trước kia thiếp yêu thương, nhung nhớ.”
Đường Thiên Trọng sầm mặt lại, không nói thêm gì.
Tôi chỉ tiếp tục nói thêm: “Huống hồ còn rất nhiều điểm sơ hở khác nữa, chỉ e là hầu gia có nghĩ thế nào cũng chẳng ra được. Trong khuê danh của mẫu thân Bích Lam có một chữ “Thanh”, vậy nên khi viết chữ “Thanh”, huynh ấy luôn luôn né tránh bằng cách viết thêm một dấu chấm bên cạnh, hoặc bớt đi một dấu chấm[]. Chính vì thế mà dù có mô phỏng nét chữ giống đến đâu, cũng không phải là bức thư do huynh ấy viết ra. Hơn nữa, thường ngày, huynh ấy không bao giờ gọi thiếp là Thanh Vũ mà chỉ gọi là Vũ, hoặc Vũ Nhi.”
[]. Chữ “Thanh” trong tên của Ninh Thanh Vũ có bộ “Thủy” gồm ba dấu chấm.
“Vũ! Vũ Nhi!” Đường Thiên Trọng dường như đang vô cùng tức giận, bàn tay cầm chén trà nắm chặt lại, ánh mắt tràn đầy ngọn lửa tức giận, đáng sợ vô cùng.
Chuyện đến nước này, tôi không muốn thêm dầu vào lửa nữa, đành day day mũi rồi nói: “Mùi chua nồng quá. Không biết là dấm đã được ủ bao nhiêu năm rồi []?”
[]. Trong tiếng Trung, ghen tuông được gọi là “ăn dấm”, vì vậy Thanh Vũ nói có mùi chua, ý nói nàng cảm nhận được cơn ghen của Thiên Trọng.
Ngọn lửa trong ánh mắt của Đường Thiên Trọng đột nhiên dịu hẳn xuống, trên khuôn mặt lạnh lùng, nghiêm nghị của ngài dần dần hiện lên sự rầu rĩ, chán nản không thích hợp chút nào.
Lúc này, liền nghe thấy giọng nói của Vô Song truyền vào từ ngoài cửa: “Bẩm hầu gia, thái y đã tới.”
Đường Thiên Trọng nhanh chóng gạt bỏ hết mọi cảm xúc, lui lại sau một vài bước rồi lạnh lùng nói: “Cho vào.”
Hai vị thái y cùng Vô Song bước vào, sợ đến mức không dám thở mạnh, bước lại gần khấu kiến Đường Thiên Trọng, đợi ngài xua xua tay về phía tôi, họ mới dám bước lại gần bắt mạch cho tôi.
Nhìn thấy phần cổ tay sưng lên, hai vị thái y quay sang nhìn nhau, vô cùng kinh ngạc, nhưng lại không dám tỏ bất cứ thái độ nào, lấy gối kê tay tôi lên rồi bắt mạch như không có chuyện gì.
Tôi nhìn thấy sắc mặt của Đường Thiên Trọng sầm lại, bèn cười nói: “Tối qua ta cùng hầu gia ra ngoài vườn hoa thưởng nguyệt, lỡ chân ngã từ trên núi giả xuống, hầu gia lo lắng kéo ta lên, lúc kéo dùng sức hơi mạnh nên khiến cổ tay ta bị sưng lên. Hai vị thái y thử xem xem ta có thể dùng được thuốc làm tan máu bầm không?”
Một vị thái y khi bắt mạch, thân hình giật nảy lên như sờ vào lửa, sau đó lại bắt mạch tay bên phải của tôi rồi đánh mắt ra hiệu với vị thái y còn lại, thái độ cũng tỏ ra thoải mài hơn trước nhiều.
Đường Thiên Trọng bắt đầu mất kiên nhẫn, nhận lấy chén trà Vô Song bưng tới, gạt lá trà nổi trên mặt nước rồi nói: “Bắt mạch ra sao rồi? Mau kê đơn thuốc đi chứ?”
Thái y lập tức quỳ xuống nói: “Khởi bẩm hầu gia, Thanh cô nương đã có thai rồi, hoàn toàn không thể dùng thuốc làm tan máu bầm được. Ngay cả thuốc điều dưỡng tim mạch cũng phải dùng rất thận trọng. Nếu như cô nương cảm thấy không khỏe, vẫn cứ phải tự mình tĩnh dưỡng lại thôi.”
“Choang” một tiếng, chén trà trong tay Đường Thiên trọng rơi xuống đất. Ngài chẳng buồn để tâm đến việc nước trà dây bẩn lên áo, đứng bật dậy hỏi lại: “Ngươi nói cái gì? Nàng…đã có thai rồi sao?”
Thái y dập đầu nói thêm: “Theo chuẩn đoán của hạ thần, Thanh cô nương đã có thai gần hai tháng. Chỉ có điều cô nương bệnh tật, thương tích liên miên, thân thể yếu đuối, cần phải tĩnh dưỡng bồi bổ nhiều, thêm vào đó phải thường xuyên dùng thuốc an thai thì hai mẹ con mới có thể bình an, mạnh khỏe được.”
Bọn Cửu Nhi đứng ngoài nghe thấy, liền vội vã tiến vào khấu đầu chúc mừng: “Chúc mừng hầu gia! Chúc mừng hầu gia!”
Đường Thiên Trọng ngây người nhìn tôi một hồi rồi mới nói: “Sau này phải gọi nàng ấy là…phu nhân. Khang hầu phu nhân.”
Trong phòng huyên náo một hồi lâu rồi mọi người mới rút lui.
Đường Thiên Trọng cũng chẳng còn tâm trạng nào vào cung hay đến thư phòng nữa, lặng lẽ ngồi bên giường trúc cùng tôi một hồi lâu, rồi mới bực bội lên tiếng: “Nàng đã biết mình có thai từ lâu rồi có phải không? Thế mà đáng ghét vậy không biết, cũng chẳng nói với ta tiếng nào! Nếu như tối qua…”
Chắc hẳn nhớ lại tối qua vì tức giận quá đỗi mà động tay động chân với tôi, đôi mày của ngài ấy cho thấy rõ nỗi lo sợ thoáng qua, ngài bất an đứng lên ngồi xuống rồi đột nhiên quay lại nói tiếp: “Sau này không cho phép nàng trèo lên núi ngắm trăng ngắm sao gì nữa, cũng không được ra khỏi phòng lúc nửa đêm, không được theo ta đến thư phòng đứng chờ nữa, phải lặng lẽ, sinh đứa con này ra cho ta rồi tính tiếp.”
Tôi bình thản đáp lại: “Dạ, thiếp sẽ tuân theo mệnh lệnh của hầu gia.”
“Nàng…” Ngài lại cảm thấy nỗi tức giận tuôn trào, đi đến trước mặt tôi, nắm chặt bàn tay lại, sau cùng cũng đành ngậm ngùi nghiến răng nói: “Sớm muộn gì ta cũng bị nha đầu nàng làm cho tức chết. Thật sự không biết từ sáng đến tối nàng suy nghĩ những gì nữa.”
Ngài lại nghĩ quá nhiều rồi.
Tôi vuốt ve chiếc bụng hơi nhô ra đôi chút, than ngắn thở dài.
Tôi nào dám cố ý chọc tức ngài? Thực ra trước đó tôi cũng chỉ cảm thấy hơi nghi ngờ mà thôi. Sống trong cung khá lâu, tôi cũng nghe các cung nữ lớn tuổi bàn luận nhiều về việc này, quan sát thấy kinh nguyệt chậm hơn mười ngày, buổi sáng thức dậy lại cảm thấy không thoải mái, nên mới đoán mình đã mang bầu.
Mấy đứa Vô Song hay Cửu Nhi đều là con gái mới lớn, tuy nhận thấy chu kì của tôi thất thường, nhưng cũng chưa nghĩ đến việc này. Nếu không phải bọn họ cứ mang mấy loại thuốc có khả năng làm nguy hại đến thai nhi ép tôi phải dùng, thì lúc này e là tôi vẫn chưa mở miệng nói với ai hết.
Nói cho cùng đây có được xem là hỉ sự hay không?
Không lâu sau nữa, tôi sẽ có một đứa trẻ, cũng có thể coi là có một gia đình rồi.
Tôi bất giác ngẩng đầu lên nhìn về phía Đường Thiên Trọng.
Ngài đã không còn nộ khí, lặng lẽ ngắm nhìn tôi. Thấy tôi ngẩng đầu lên, ngài liền mỉm cười, sau đó đưa môi lại gần, hôn nhẹ lên trán tôi một cái.
“Chắc là mùa hè nhỉ?” Bàn tay nhẹ nhàng, dịu dàng đặt lên bụng tôi, thì thầm nói, dường như ngài đang sợ tiếng nói to quá sẽ kinh động đến thai nhi bé nhỏ đang ngủ say trong bụng tôi.
Tôi cũng bất giác mỉm cười nói: “Đúng thế. Chắc là vậy…mùa hè năm sau. Hai chúng ta sẽ có một đứa trẻ.”
Ngài liền nhấc bổng tôi khỏi giường trúc, thận trọng ôm vào lòng, rồi thì thầm nói khe khẽ bên tai tôi: “Có một đứa con của riêng hai chúng ta. Rất tốt.”
Vào giây phút này, cánh tay của ngài ấm áp mà mềm mại, vững chãi mà dịu dàng.
Ghé đầu bên lồng ngực của ngài, tôi nghe được nhịp tim của ngài thình thịch như trống dồn.
Rất lâu, rất lâu sau, nhịp tim đó vẫn đập rất mạnh, rất nhanh.
Tôi vốn dĩ không phải là người chẳng có việc gì cũng ra ngoài chạy nhảy, cùng lắm cũng chỉ dạo mát, tản bộ quanh mấy con đường nhỏ ven Đình sen mà thôi, cho nên sắc lệnh cấm đoán của Đường Thiên Trọng với tôi cũng không cần thiết lắm. Có điều mỗi ngày không còn phải đến thư phòng cùng ngài, cuộc sống thật sự cũng trở nên vô vị, nhàm chán hơn đôi chút.
Tôi ở trong thâm cung Nam Sở hơn ba năm, trải qua không biết bao sóng gió bão tố, sau khi biết chuyện mang thai, tôi vẫn giữ thói quen ngủ sớm thức sớm như trước kia, lặng lẽ, ngoan ngoãn dưỡng thai. Bởi vì không bị nghén quá khổ sở, ăn uống tôi cũng không quá kén chọn, nên cũng khiến cho mọi người xung quanh an tâm hơn ít nhiều.
Bọn người Vô Song cũng thấy rảnh rỗi, buồn chán liền vài mấy bộ y phục cho Đường Thiên Trọng, lại tìm mấy mảnh gấm màu sắc tươi tắn đến, nói là muốn may mấy bộ quần áo cho tiểu công tử sắp ra đời.
Lúc tôi lại gần ngắm nghía, mấy đứa đang bàn luận xem nên may mấy chiếc yếm, rồi thêu lên những hình ảnh hoan hỉ thường dùng cho trẻ nhỏ như bách tử nghênh phúc, bách tử du xuân, như ý vạn tự,… nói rằng những điều này mang đến cát tường, may mắn cho đứa bé sắp chào đời. Tất cả những hình ảnh thêu này từ nhỏ tôi đã từng học qua, thế nên liền chọn mấy tấm vải mềm mại, tự mình thêu mấy chiếc yếm cho con.
Hôm nay lúc Đường Thiên Trọng quay về, tôi đang cầm một chiếc yếm màu xanh biếc, thêu hình hoa cỏ trên đó.
Ngài cầm chén trà bước lại gần chỗ tôi rồi nói: “Nàng đang thêu lá sen sao?”
Tôi mỉm cười đáp: “Đương nhiên, còn phải thêu thêm hai đóa hoa sen nữa. Đôi hoa đôi lá lại đôi cành, ngụ ý rất thâm sâu.”
Đường Thiên Trọng liền hỏi: “Có ngụ ý gì trong này?”
Tôi do dự vài giây rồi mỉm cười đáp: “Tính ngày tháng thì con chúng ta sẽ ra đời vào đúng lúc hoa sen nở rộ, vậy nên thêu một chiếc yếm hoa sen cho con, không phải rất cát tường sao?”
“Hoa sen…” Nụ cười của ngài càng lúc càng dịu dàng, đặt chén trà sang một bên, ngài ôm tôi từ phía sau, thì thầm nói: “Đứa trẻ này chắc chắn là có duyên với hoa sen. Cha mẹ nó kết duyên bên hồ sen, cùng nhau chung sống trong Đình sen, sau này đương nhiên cũng sinh ra đứa bé trong Đình sen. Chúng ta hãy lấy tên thường ngày là Liên Nhi đi, cho dù là trai hay gái cũng dùng cái tên này hết.”
“Có duyên với hoa sen, Liên Nhi…”
Tâm trạng tôi rối bời, hình như lại nhìn thấy người thiếu niên mặc bộ trang phục thanh cao trên người đang cầm cuốn sách, nụ cười sáng trong đứng bên hồ sen đang nở rực rỡ nhìn về phía tôi.
Vội vã gạt hình ảnh của chàng ra khỏi tâm trí, nhưng bất giác lại nghĩ, nếu như là chàng, nhất định sẽ không hỏi tôi rốt cuộc câu “đôi hoa đôi lá lại đôi cành” có ngụ ý gì.
Câu hỏi mất hứng này cũng chỉ có mình Đường Thiên Trọng, người đàn ông ngang ngược suốt ngày để tâm vào chuyện tranh giành quyền lực mới cất lời mà thôi.
Thế nhưng nói cho cùng ngài đối với tôi vẫn rất ôn hòa, dịu dàng.
Lúc này, ngài dịu dàng hôn lên khuôn mặt tôi, khẽ cất tiếng than mang theo chút ưu phiền: “Đáng tiếc là… đáng tiếc là thái y nói sức khỏe nàng yếu ớt, khuyên ta mấy tháng này không nên đụng đến nàng…đúng là khó chịu quá…”
Nghe thấy những lời này thốt ra từ miệng Đường Thiên Trọng, tôi thật sự không biết nên cười hay nên khóc, tiện miệng nói: “Vậy thì hầu gia có thể đi đến chỗ các phu nhân khác.”
Lời nói vừa dứt, bên tai liền truyền đến cảm giác đau nhói.
Không ngờ ngài cắn một cái lên vành tai tôi.
Nhìn thấy bọn Vô Song, Cửu Nhi chạy tới xem có chuyện gì, Đường Thiên Trọng thản nhiên như không có chuyện gì quay về chỗ ngồi của mình trước bàn, lật giở những báo cáo quân tình đặt trên đó.
Tìm cơ hội, tôi lặng lẽ tra hỏi Cửu Nhi. Cô bé vô cùng sợ hãi, vừa nghe đến Tín vương, lập tức quỳ xuống, khai tất cả mọi chuyện ra.
Cô bé không phải nội ứng của Tín vương, mà chính người anh họ của cô bé mới là người luôn trung thành nhất mực cùng Tín vương.
Cũng giống như tôi và Trang Bích Lam, Cửu Nhi và người anh họ của mình cũng là thanh mai trúc mã từ nhỏ lớn lên bên nhau. Có điều gia đình người anh họ dần dần lụn bại, bố mẹ Cửu Nhi không đồng ý chuyện hôn sự giữa hai người. Sau này khi Cửu Nhi nhập cung, người anh họ tức giận cũng theo đến Kinh thành, nhận được lòng tin của Tín vương, sau đó trở thành tai mắt của ông ta ở trong cung.
Sự việc hạ độc chính là chuyện do Tín vương sắp xếp, mục đích muốn hạ độc Hoàng đế, để gây đại loạn trong triều đình Đại Chu. Dù cho không hạ độc chết được Đường Thiên Tiêu, thì Đường Thiên Trọng cũng trở thành người bị tình nghi đầu tiên, hai huynh đệ họ Đường nhất định sẽ mâu thuẫn lớn, sớm muộn cũng gây nên chiến tranh nội loạn. Còn Tín vương cũng nhân cơ hội này mà phất lá cờ phục hưng Nam Sở, xây dựng lại đất nước Nam Sở năm xưa.
Loại độc dược mà Đường Thiên Tiêu trúng phải được giấu trong móng tay của Cửu Nhi, nhân lúc đổ rượu, cô bé liền hạ độc. Lúc đó cả hai huynh đệ họ Đường đều đang dồn sự chú ý về phía tôi, nên không phát hiện ra hành động dị thường của Cửu Nhi.
Phi tần mà Cửu Nhi hầu hạ chính là một trong những vị cung phi trước kia của Lý Minh Xương, vô cùng thống hận Đại Chu nam tiến xâm chiếm Giang Nam, vậy nên Cửu Nhi cũng chịu ảnh hưởng lớn, hoàn toàn không cảm thấy việc hạ độc Đường Thiên Tiêu có gì không thỏa đáng. Mãi cho tới khi nhận ra rằng vì chuyện này mà tôi suýt chút nữa mất mạng, Cửu Nhi mới hoảng hốt bất an trong lòng. Cho nên đến khi khó khăn lắm tôi mới giữ lại được sinh mệnh, cô bé liền dốc lòng hầu hạ tôi, hi vọng có thể bù đắp được sai lầm trước đây.
Tôi thật sự không biết liệu có nên trách mắng Cửu Nhi không, chỉ đành than dài: “Cửu Nhi, những việc của đàn ông, phụ nữ chúng ta không nên tham dự.”
Đôi mắt long lanh của Cửu Nhi bắt đầu tuôn rơi nước mắt, nấc nghẹn nói cùng tôi: “Vốn dĩ nô tì cũng chẳng hiểu gì mấy chuyện này, thế nhưng anh họ lại vô cùng kích động, nói rằng tráng sĩ thà chết không lùi bước, nhất định bắt nô tì phải làm, thế là nô tì đành làm theo. Thật ra trong lòng cũng cảm thấy hối hận vô cùng, nhiều lúc muốn nói cho cô nương biết, nhưng thật sự lại không dám. Nô tì cũng biết đây là tội đáng chết trăm lần. Kể từ sau buổi tối đưa cô nương đi gặp Trang công tử, Hoàng thượng đã chú ý đến nô tì, hàng ngày khi gặp mặt nô tì tuy rằng vẫn cười đùa hỉ hả, nhưng sau lưng đã sai Cận Thất đi điều tra thân thế của nô tì vài lần rồi. May mà gia thế của nô tì đơn giản, không có chút liên hệ nào cùng Tín vương hay nhà họ Trang, người nhà hàng ngày cũng sống đạm bạc, hiền hòa, lại là hộ thương nhân đầu tiên cống nạp vật phẩm cho quân đội Đại Chu ngày mới công thành. Không tìm ra chút sơ hở gì, lại được cô nương hết lòng che chở, nên mới yên thân đến được lúc này.”
“Vậy lúc Khang hầu điều ngươi ra khỏi cung, Hoàng thượng có biết không?”
“Sau khi cô nương rời đi, Hoàng thượng vẫn thường xuyên đến cung Di Thanh, nhưng chỉ triệu Ngưng Sương và Tẩm Nguyệt vào hầu hạ, không còn ai chú ý đến nô tì nữa. Khang hầu sai người điều nô tì đến làm việc tại cung khác vài ngày sau đó mới đưa đến đây, nên cũng chẳng có mấy người để tâm. Hoàng thượng… chắc cũng không còn nhớ ra nô tì nữa.”
Như vậy cũng có nghĩa là, Đường Thiên Tiêu hình như đã nhận ra rằng chuyện đó không phải do Đường Thiên Trọng làm, nhưng cũng chưa nghi ngờ đến Cửu Nhi. Nói cho cùng thì hôm đó cung nữ hầu rượu cho hai người không chỉ có một, gia đình Cửu Nhi trong sạch, nhất thời ngài cũng không nghi ngờ đến cô bé. Ngay cả đêm đó khi Cửu Nhi đưa đường dẫn lối cho tôi đi gặp Trang Bích Lam, cùng lắm cũng chỉ chứng minh rằng tôi tin tưởng Cửu Nhi hơn những người cung nữ khác mà thôi.
Tôi trầm ngâm một hồi rồi hỏi thêm: “Vậy thì, trong phủ Nhiếp chính vương có người của Tín vương không?”
Cửu Nhi lắc đầu đáp: “Điều này thì nô tì không biết. Vào lúc Hoàng thượng quyết định truy quét toàn bộ vệ binh trong cấm cung, anh họ của nô tì đã tìm cơ hội xin điều chuyển ra ngoài, cho đến khi đến phủ Nhiếp chính vương, nô tì vẫn chưa gặp lại huynh ấy. Có điều… nếu như có cơ hội gặp mặt, nói không chừng huynh ấy lại có chuyện gì muốn nô tì giúp sức chăng? Bây giờ nô tì cũng thường xuyên gặp mặt hầu gia, chắc ít nhiều gì cũng có thể giúp đỡ được cho huynh ấy thôi.”
Câu nói sau cùng của Cửu Nhi mang theo chút ý mỉa mai, tự chế giễu bản thân. Tôi thì đoán chắc người anh họ đó hẳn chẳng để tâm đến mối tình si người em họ đã dành cho mình.
Con nha đầu này thường ngày hoạt bát, nhanh nhẹn, không có việc gì cũng cười vui hoan hỉ, khiến người khác nhìn thấy là vui lây, thật không ngờ trong lòng cũng chất chứa đầy sầu muộn, buồn chán như vậy.
Quả nhiên có tâm là khổ nhất, vô tâm thì mới vui vẻ, bình thản sống qua ngày được.
Nếu như đã rời khỏi Hoàng cung, đối với tôi và cô bé mà nói như được hồi sinh lần nữa, tôi cũng chẳng muốn truy cứu chuyện dĩ vãng làm gì, chỉ khẽ than thở: “Cửu Nhi, mọi chuyện cứ tùy duyên thôi, không nên cưỡng cầu.”
Cửu Nhi gật đầu đáp: “Nô tì hiểu rồi. Ngay cả cô nương trải qua không biết bao nhiêu khổ cực cũng chẳng cầu được, huống hồ là nô tì?”
Tôi bất giác trầm ngâm, lúc lâu sau mới mỉm cười đáp: “Có lẽ đây chính là số phận của ta.”
Cửu Nhi lại hỏi thêm: “Vậy thì, cô nương chấp nhận số phận sao?”
Tôi vuốt ve chiếc bụng của mình, cảm nhận được một sinh mệnh bé nhỏ đang dần dần lớn lên, lại nhớ đến người đàn ông thường ngày lạnh lùng, nghiêm nghị, nhưng khi dịu dàng, hòa nhã thì khiến người khác vô cùng hạnh phúc, liền than dài rồi nói: “Chấp nhận số phận…cũng chẳng có gì không tốt cả.”
Hai ba tháng Mười chính là ngày sinh nhật của Đường Thiên Trọng. Bọn người Vô Song rất có lòng, đã chuẩn bị mỳ thọ, rượu thọ, cùng rất nhiều loại hoa quả từ sớm, đồng thời đem những bộ y phục chúng may gần đây đặt hết trên mặt bàn, chuẩn bị cả nến.
Đường Thiên Trọng quyền cao chức trọng, tuy không cố tình tổ chức sinh nhật gì cả, lại thường nói mọi chuyện đều phải tiết kiệm, đơn giản, nhưng những ngày này người đến chúc tụng nhiều vô kể. Trong sân bày hơn mười bàn tiệc, ngay cả Đường Thừa Sóc cũng cảm thấy sức khỏe tốt hơn, bảo người đỡ ra ngoài ngồi một lúc, uống vài chén rượu mừng rồi mới chịu quay về phòng.
Sau khi tiếp đón hết khách quý, ngài quay về Đình sen trời cũng đã sắp qua giờ Hợi.
Ngài đưa tay lật giở mấy bộ y phục trên bàn rồi hỏi: “Đều do các ngươi làm à?”
Vô Song quay sang nhìn tôi rồi mỉm cười nói: “Dạ, cô nương cũng góp sức không nhỏ đâu ạ.”
Ngài liền gật đầu, đặt mấy bộ y phục sang một bên, cầm chiếc túi thơm đeo bên thắt lưng rồi nói: “Mấy đứa các ngươi cũng rất tỉ mỉ, chu đáo, có điều con bạch hổ trên chiếc túi thơm này cũng sắp sửa thành con hắc hổ rồi, cũng chẳng có ai nhớ làm cho ta một cái mới nữa.”
Ngài đang nói người khác, nhưng lại đưa mắt sang nhìn tôi.
Tôi chớp mắt rồi thản nhiên như không có chuyện gì: “Đáng lẽ ngài phải tháo xuống đem đi giặt rồi thay mấy hương liệu trong đó từ lâu rồi chứ?”
Vô Song mỉm cười nói: “Lúc hầu gia ngủ, nô tì cũng đã lấy ra thay mấy hương liệu trong đó rồi. Có điều hầu gia ngày nào cũng đeo túi thơm trên người, nên nô tì không hề có cơ hội đem đi giặt.”
Nói về mấy thứ đồ này, ngài muốn bao nhiêu mà chẳng có, vậy mà cứ nhất định phải dùng đúng chiếc do tôi làm. Tôi thực cũng chẳng biết phải nói gì, chỉ có điều bị ngài nói như vậy, ngay cả ánh mắt cũng mang chút ý trách móc, nên chuyện này dường như lại thành ra tôi có lỗi.
Lúc nào rảnh có lẽ cũng phải làm thêm vài chiếc túi thơm nữa cho ngài, đây cũng chẳng phải việc gì to tát lắm.
Tuy rằng đang mang thai, nhưng tôi cũng không có mấy triệu chứng ốm nghén, chỉ mỗi tội là ham ngủ hơn thường ngày đôi chút.
Đêm nay vừa mới mơ màng chợp mắt, Đường Thiên Trọng nằm phía sau bỗng đưa tay chạm vào sau gáy tôi, sau đó tôi liền nghe thấy tiếng gõ cửa vội vã, gấp gáp.
“Hầu gia, hầu gia, có người đến chuyển lời nói vương gia không ổn rồi.”
Tôi kinh ngạc ngồi bật dậy, Đường Thiên Trọng cũng nhanh chóng mặc y phục xuống giường. Ngài đưa tay vỗ nhẹ lên vai tôi rồi nói: “Nàng cứ đi ngủ trước đi, nếu như có chuyện gì, ta sẽ sai người đến gọi sau.”
Tôi đáp lại, mắt nhìn ngài vội vã rời khỏi phòng, cũng chẳng thể nào ngủ thêm được nữa. Ngược lại tôi cảm thấy toàn thân ướt đẫm mồ hôi, sau đó cảm thấy hoa mày chóng mặt, toàn thân không có chút sức lực nào cả.
Thời gian gần đây tôi cũng thường xuyên đến thăm Đường Thừa Sóc, tuy biết bệnh tình của ngài không tốt lắm, nhưng hôm trước ngài vẫn còn ra ngoài tiếp khách, trông tinh thần rất tốt, thật không hiểu tại sao đột nhiên lại thành ra như vậy.
Bọn người Vô Song cũng nghe thấy chuyện này, thấy tôi ngủ không yên, nên cũng không dám đi nghỉ, liền ở lại trong phòng, thỉnh thoảng lại sai người đi nghe ngóng tình hình của vương gia.
Không lâu sau, Đường Thiên Trọng liền sai người nói rằng bệnh tình Nhiếp chính vương đã ổn định lại, tôi đang mang thai, lại giữa đêm khuya, không cần phải tới đó, cứ an tâm nghỉ ngơi mới là quan trọng nhất.
Tôi biết rõ ngài nói vậy chỉ vì thương xót tôi, trong lòng cũng bất an, làm sao có thể an tâm được chứ? Đến tận lúc tờ mờ sáng tôi mới chợp mắt được giây lát.
Ngày hôm sau, khi dùng xong bữa sáng, tôi liền cùng với Vô Song, Cửu Nhi sang chỗ Đường Thừa Sóc.
Hai bên, phía trước cửa phòng Nhiếp chính vương toàn người là người, chắc hẳn họ là gia quyến hoặc vương công đại thần đang đến thăm hỏi tình hình bệnh tật của ngài. Thế nhưng phía trong lại không nghe thấy bất cứ tiếng người nói nào, ngay cả những người hầu đi lại bên hành lang cũng im lặng tăm tắp, không nói bất cứ lời nào.
Nghe nói tôi tới thăm, có người nhanh chóng đón tôi vào, nhưng lại không trực tiếp dẫn tôi đi gặp Đường Thừa Sóc, chỉ để tôi đứng chờ bên phòng ngoài rồi mời Đường Thiên Trọng ra gặp.
Thần sắc của Đường Thiên Trọng trông hơi tiều tụy, nhưng bước đi vẫn rất nhịp nhàng, ổn định. Ngài kéo tôi đứng sang một bên rồi khẽ tiếng nói: “Đêm qua phụ thân đã ho ra rất nhiều máu, thần sắc không ổn lắm, vừa mới ngủ thiếp đi, nàng có lòng như vậy là được rồi, không cần phải vào làm phiền người nữa đâu.”
“Dạ”.
Tôi đáp lời, nghĩ tới việc thường ngày Nhiếp chính vương đối xử với tôi nhẹ nhàng, ôn hòa, trong lòng cũng cảm thấy buồn bã, nên chẳng nhẫn nhịn được liền kiễng chân lên nhìn vào phòng trong.
Cách cả một tấm rèm, nên tôi cũng chẳng thấy gì hết.
Đường Thiên Trọng lại tiếp tục nói: “Mấy ngày nữa, có lẽ ta sẽ đưa nàng tới một nơi khác dưỡng thai. Bây giờ nàng hãy quay về thu dọn đồ đạc, có thứ gì yêu thích thì mang hết đi, để tránh đến lúc gần đi vội vã quên mất, sau này muốn dùng lại không có.”
Tôi nghi ngờ hỏi lại: “Tại sao phải đưa thiếp đi chỗ khác?”
Đường Thiên Trọng còn chưa kịp trả lời thì trong phòng đã truyền ra tiếng than dài, tiếp đó là giọng nói ồm ồm, yếu ớt của Đường Thừa Sóc: “Là…nha đầu Thanh Vũ tới đấy sao? Mau gọi…vào đây.”
Tuy rằng giọng nói yếu ớt, ngài vẫn nói rõ từng từ một, rõ ràng thần trí vẫn tỉnh táo.
“Là con đây ạ.” Tôi liền nhớ tới khuôn mặt hiền từ của người, đôi mắt bỗng nóng rực, nhanh chóng đáp lời, rồi vội vã bước vào.
Đường Thiên Trọng lại nhíu chặt đôi mày, đứng phía sau định đưa tay kéo tôi quay lại, vào lúc này tôi đã nhanh bước ra chỗ cửa vào, nhấc tấm rèm lên, vừa hay tránh khỏi bàn tay của ngài.
Tôi nhìn ngài với đôi mắt nghi ngờ, sắc mặt ngài hơi lạ lùng, sau đó lại xua xua tay, để cho tôi bước vào trong, rồi mới chậm rãi bước vào cùng.
Đường Thiên Kỳ, Lục phu nhân, Phó phu nhân… đang đứng một hàng dài, mặt mày ai nấy đều vô cùng lo lắng, nhìn thấy tôi bước vào đều gật đầu thay cho lời chào.
Đường Thừa Sóc đang nằm trên giường nhìn về phía tôi, ánh mắt rất sáng, tuy khuôn mặt nhợt nhạt. Tôi càng tới gần, lại càng nhìn thấy đôi chút hỗn loạn hiện lên trong đôi mắt của ngài, mất đi thần thái khiến người khác hoảng sợ cho dù vẫn đang nằm trên giường bệnh như trước kia.
“Vương gia.”
Tôi lại gần hành lễ, Đường Thừa Sóc hất hất cằm, ra hiệu cho tôi ngồi vào chiếc ghế gỗ sáu chân chạm khắc tinh xảo được đặt bên cạnh giường.
Quay lại nhìn mấy người Đường Thiên Trọng, Đường Thiên Kỳ… vẫn đang đứng gọn một bên, tôi nào dám ngồi xuống, liền mỉm cười nói: “Vương gia cảm thấy đỡ hơn chưa ạ? Có cần con xoa bóp, bấm huyệt chân không ạ?”
Đường Thừa Sóc lắc lắc đầu, đột nhiên đưa tay chỉ về phía sau rồi nói: “Các người…ra ngoài hết đi. Ta có chuyện…muốn nói với con dâu trưởng nhà họ Đường.”
Đường Thiên Kỳ cùng mấy vị phu nhân, người hầu khác đều tỏ ra kinh ngạc, chỉ mình Đường Thiên Trọng vẫn tỏ ra trầm tĩnh, ánh mắt sâu thẳm lướt nhìn tôi với Đường Thừa Sóc, sau đó quay sang khẽ nói cùng mấy người Đường Thiên Kỳ: “Chúng ta mau ra ngoài thôi.”
Đường Thiên Kỳ do dự không hiểu mấy, lúc bước ra khỏi cửa vẫn còn quay lại nhìn tôi.
Bản thân tôi cũng cảm thấy vô cùng bất ngờ, nhìn thấy cửa phòng đóng chặt lại, tròng phòng chỉ còn lại mỗi tôi và Đường Thừa Sóc. Trong hơi thở nặng nề, hổn hển, không khí đượm đặc mùi thuốc nồng nặc và mùi hương thoang thoảng, khiến cho căn phòng trở nên vô cùng bí bách.
“Vương gia.”
Tôi biết rõ ngài đã không thể dùng cơm được nữa, tôi liền bê chậu nước sạch trên bàn, dùng khăn bông thấm ướt rồi chấm lên đôi môi khô của ngài.
Ngài liền nở nụ cười dịu dàng, cảm khái hỏi tôi: “Con đường cả cuộc đời ta phải chăng đã đi đến điểm cuối?”
Tôi liền mỉm cười đáp: “Vương gia cũng giống hệt như phụ thân của con, đều là những người anh hùng tái thế.”
Đường Thừa Sóc gật đầu nói tiếp: “Tuy rằng ta không chết trên chiến trường, nhưng cũng vì…cũng vì bản thân, vì Đại Chu, cố gắng đến tận những giây phút cuối cùng của cuộc đời. Ta…đã tận tâm với Thái hậu, cũng đã tận lực với Thiên Tiêu.”
Đường Thiên Tiêu từng nói, Đường Thiên Trọng do dự mãi chưa làm phản chính là vì Nhiếp chính vương. Lúc đó, tôi vẫn chưa thật sự tin vào điều này, nói cho cùng thì Đường Thiên Trọng có được ngày hôm nay, nguyên nhân lớn nhất chính vì ngài là con trai trưởng của Nhiếp chính vương tài năng trác tuyệt.
Thế nhưng đến những thời khắc thế này, tôi không cho rằng Đường Thừa Sóc còn cần thiết phải nói dối làm gì cả. Ngài thật sự trung thành với hai mẹ con Tuyên thái hậu.
Tôi cũng đành phải phụ họa theo những lời nói của Đường Thừa Sóc: “Toàn bộ dân chúng trong thiên hạ này đều biết rằng, không có vương gia thì không thể có được thiên hạ của Đại Chu ngày nay. Vương gia chính là công thần số một của Đại Chu.”
Đường Thừa Sóc hơi nheo đôi mắt lại, đôi mắt lại sáng bừng lên, dường như đang quay trở về những ngày tháng huy hoàng vẫy vùng trên thân ngựa, cùng với vạn lý giang sơn mỹ lệ đang hiện hữu trước mắt.
Rất lâu sau, ngài từ từ nói tiếp: “Ta hi vọng…khi chết đi, triều đình Đại Chu này vẫn vững như thái sơn. Ít nhất thì…không đến mức huynh đệ trở mặt thành thù, thủ túc tương tàn.”
Trái tim tôi đột nhiên đập loạn xạ, ngây lặng ra nhìn một người già sắp chết, không nói được bất cứ lời nào.
Nếu như ngài đã sớm biết con trai mình có dã tâm, tại sao lại còn giao lại quyền lực của mình, đồng thời để mặc cho thế lực của Đường Thiên Trọng ngày càng lớn lên trong triều đình? Hoặc giả, trong thâm ngài vẫn cứ cho rằng, hậu nhân của Nhiếp chính vương đương nhiên cũng phải giống như bản thân mình, có thể nắm trọn trong tay quá nửa giang sơn Đại Chu?
Đường Thừa Sóc thấy tôi không nói gì liền than: “Nha đầu con là người thông minh… chắc hẳn cũng không thể nào không hiểu, có nhiều lúc tình thế ép người, không tiến phải lùi… Thiên Trọng… cũng đang đứng bên bờ vực thẳm, cô đơn, lạnh lẽo vô ngần. Ta dạy dỗ thằng bé hơn hai mươi năm, nói cho cùng cũng chẳng thể nào dạy cho nó biết rút lui đúng giờ, giữ an toàn cho bản thân.”
Nếu như ngài đã nói trắng hẳn ra, tôi cũng chẳng muốn giả vờ ngu ngơ nữa, khẽ cất tiếng đáp: “Hầu gia ngày nay… e là cưỡi trên lưng hổ, muốn xuống cũng khó.”
“Cũng không trách được Thiên Trọng…” Ánh mắt của Đường Thừa Sóc lại trầm xuống. “Lúc ta còn trẻ… còn ngang ngược, ngạo mạn hơn Thiên Trọng nhiều…sau cùng cũng có người có thể khuyên nhủ được ta. Thực tình không biết được, có ai có thể khuyên được Thiên Trọng hay không?”
Trước ánh mắt tràn đầy hi vọng hướng về phía mình, tôi im lặng một lúc rồi đáp: “Con không thể khuyên được ngài ấy.”
“Không thể khuyên được…” Ngài thở dài, rút từ trong túi ra một túi màu vàng nho nhỏ rồi đưa cho tôi, nói tiếp: “Vậy thì, đợi đến lúc Thiên Trọng binh bại như núi đổ, con hãy dùng cái này để khuyên nó.”
Binh bại như núi đổ?
Tôi nhất thời không dám tin vào những lời mình vừa nghe thấy.
Đã từng đến thư phòng nghe Đường Thiên Trọng xử lý triều chính một thời gian, tôi cũng khá thấu hiều ngài đang nắm trong tay bao nhiêu quyền lực. Phủ Nhiếp chính vương nắm trong tay quá nửa số binh mã của toàn bộ triều đình Đại Chu, Định Bắc vương nắm quyền phía bắc bộ, trong tay có tầm tám vạn binh mã, nhưng lại là chiến hữu vào sinh ra tử cùng với Nhiếp chính vương, tuy rằng không tới mức làm phản Đường Thiên Tiêu, nhưng nếu Đường Thiên Trọng có hành động gì, tuyệt đối sẽ không khoanh tay đứng nhìn cuộc tranh giành quyền lực giữa hai huynh đệ nhà họ Đường.
Còn đội binh lực Phiêu Kị, thuộc hạ của Phụ Quốc tướng quân mà bản thân Đường Thiên Tiêu nắm trong tay đã bị Đường Thiên Trọng âm thầm làm suy yếu đi, trước mắt chưa đủ lực để cân bằng cùng lực lượng của Đường Thiên Trọng được.
Hai mẹ con Đường Thiên Tiêu dựa vào cái gì khiến cho Đường Thiên Trọng binh bại như núi đổ?
Tôi nghi hoặc nhận lấy chiếc túi màu vàng nhỏ từ tay Đường Thừa Sóc, bên ngoài được buộc chặt lại bằng sợi dây, bên trong đựng thứ gì đó hình tròn, lúc này chưa tiện mở ra, nên tôi cũng đành lên tiếng hỏi: “Trong này…đựng thứ gì thế ạ?”
Đường Thừa Sóc âu sầu lên tiếng: “Nếu như có một ngày như thế…con mở ra nhìn thấy rồi, tự nhiên sẽ hiểu cả. Ta chỉ mong rằng ngày đó sẽ không bao giờ đến.”
Ngài nói nửa úp nửa mở, tôi nghe thấy cũng mơ mơ hồ hồ, đang suy nghĩ không biết có nên truy hỏi thêm vài câu nữa không thì bên ngoài liền truyền vào tiếng bước chân vội vã, tiếp đó là tiếng nói của Đường Thiên Kỳ bẩm báo từ ngoài: “Phụ thân, Thái hậu đã tới rồi.”
“Thái hậu…” Đường Thừa Sóc bỗng nhiên thất thần, ánh mắt mơ màng nhìn về phía trước, một lúc lâu sau mới lẩm bẩm: “Ta cứ tưởng rằng… cứ tưởng rằng nàng nhất định phải đợi ta chết rồi mới chịu tới thăm.”
Tôi không dám đáp lại, đúng lúc định cáo lui thì Đường Thừa Sóc chỉ vào bức bình phong phía sau giường rồi ra hiệu cho tôi: “Con hãy… tránh mặt đi một lúc, không cần phải ra ngoài đâu…”
Tuyên thái hậu tới thăm Nhiếp chính vương sắp sửa qua đời, chắc hẳn cần phải thương lượng nhiều đại sự cơ mật, tôi thật không hiểu Đường Thừa Sóc cho tôi đứng trong phòng này để làm gì.
Sau khi bước ra phía sau tấm bình phong, tôi mới ẩn hết thân người mình, liền nghe thấy Đường Thừa Sóc ho nhẹ một tiếng, hắng giọng rồi chậm rãi lên tiếng: “Kính mời Thái hậu…vào phòng.”
Cửa phòng mở ra, huynh đệ Đường Thiên Trọng, Đường Thiên Kỳ đích thân dẫn Thái hậu vào trong, rồi im lặng đứng sang một bên.
Tuyên thái hậu nắm lấy tay của một cung nữ già, chậm rãi bước vào trong phòng.
Người không hề mặc đồ lộng lẫy như mọi khi, thần thái tuy rằng vẫn cao sang quý phái, nhưng đã tiều tụy đi nhiều, phía dưới mắt dù đã dặm rất nhiều phấn nhưng chẳng thể nào che đi được quầng thâm. Hôm nay người ăn mặc rất đơn giản, y phục màu nâu in hoa văn viền bạc, chiếc trâm dài cài trên mái tóc vấn, trên chiếc trâm có dính một hạt minh châu to bằng ngón tay cái.
“Nàng đã tới rồi…” Đường Thừa Sóc không hề khách khí, chỉ khẽ khàng lên tiếng than thở.
“Ta đã đến rồi.”
Tuyên thái hậu mỉm cười, thần thái có phần tươi tỉnh hơn, lúc bước đến gần giường Đường Thừa Sóc, hai hàng nước mắt lăn dài trên má.
Đường Thừa Sóc than dài nói: “Hôm trước ta lại mơ thấy Tĩnh Nhu rồi. Ta nằm mơ…khi chúng ta vừa mới quen biết, cưỡi ngựa trên thảo nguyên bao la, Tĩnh Nhu muốn phi lên đầu tiên nhưng lại bị ngã khỏi ngựa. Hai chúng ta cùng gọi nàng ấy, Tiểu Tuyên…”
“Tiểu Tuyên…” Tuyên thái hậu lẩm bẩm gọi tên: “Đúng thế, lúc đó mọi người đều gọi ta là Đại Tuyên, gọi muội muội là Tiểu Tuyên… Bầu trời trên thảo nguyên xanh trong hơn, cao rộng hơn, tươi mát hơn cả Bắc Đô. Ta vốn dĩ cho rằng… vốn dĩ cho rằng chúng ta có thể sống trọn cuộc đời bên nhau hạnh phúc, vui vẻ như vậy.”
“Tĩnh Uyển…” Ánh mắt của Đường Thừa Sóc cũng bắt đầu phủ lên một lớp sương, nghẹn ngào gọi tên bà: “Nếu như năm đó ta đánh trận ở Bắc Hách không truyền tin tử trận về, chúng ta sẽ như thế nào nhỉ?”
“Sẽ thành ra như thế nào…” Tuyên thái hậu ngồi trên chiếc ghế sáu chân mà tôi ngồi trước đó, nắm lấy bàn tay khô ráp của Đường Thừa Sóc, rồi nói: “Có lẽ ta sẽ không trở thành Thái hậu, ngài cũng không trở thành Nhiếp chính vương.”
Nghe thấy lời nói của hai người càng ngày càng thân mật, tiếp đó, vị cung nữ già đi theo Tuyên thái hậu bước lại gần đưa tay ra hiệu cùng hai huynh đệ Đường Thiên Trọng đi ra ngoài.
Đường Thiên Trọng bình thản đứng ở phía sau, đối mặt với cảnh hai vị trưởng bối mắt lệ đẫm nhòa vì sắp phải sinh ly tử biệt, ánh mắt của ngài vẫn thản nhiên như không, chẳng nhìn thấy chút cảm xúc gì cả. Có điều khi nhớ tới trước kia ngài đã từng buông lời mắng nhiếc người bác gái của mình một cách thậm tệ, sự bình tĩnh này khiến cho người khác phải ớn lạnh cả người.
Lúc gần ra khỏi cửa, ngài bỗng đưa ánh mắt liếc về phía tôi đang đứng.
Ngài đương nhiên biết rằng tôi vẫn còn ở trong phòng, mà trong phòng muốn đi thì chỉ có đúng bức bình phong ở phía sau giường của Nhiếp chính vương mà thôi.
Người cung nữ già đóng cửa lại, rồi đứng cạnh canh cửa, nhìn thấy hai người khóc lóc đỏ ửng cả đôi mắt, liền mang khăn đến.
Tôi thật sự không biết Đường Thừa Sóc giữ tôi lại đây là muốn nói điều gì, nên cũng đành phải im hơi lặng tiếng, tận tâm nhìn cảnh vật bên ngoài qua khe hở nhỏ. Tuy rằng không biết rốt cuộc giữa hai người đã xảy ra chuyện gì, nhưng lúc này tôi cảm thấy căn phòng này chứa đầy không khí bi thương, sầu não, giống như một cảm xúc đã được giấu kín bao năm nay, đã được kìm nén đến mức độ cao nhất, cuối cùng đã bùng phát trỗi dậy mạnh mẽ.
Lại nghe thấy Đường Thừa Sóc than dài: “Tĩnh Uyển, nói cho cùng ta vẫn chẳng thể cam lòng nổi. Chính tin tức tử trận ấy, rõ ràng là do hoàng huynh sai người loan báo, còn nàng, không ngờ lại vội vã xuất giá như vậy. Tuy rằng cha mẹ nàng có dự định riêng của mình, nhưng bản thân nàng cũng chưa từng…suy nghĩ thật kĩ hay sao? Nàng chỉ trách ta sau khi lên Nhiếp chính ép uổng nàng, mà lại không biết…mà lại không biết ta đã sầu muộn, ảo não biết bao năm nay…”
Tuyên thái hậu đưa ống tay áo lên che miệng, dường như đang cố giấu đi tiếng khóc nấc, nghẹn ngào lên tiếng: “Ta hiểu…ta vẫn luôn thấu hiểu…thế nhưng sau khi tiên đế băng hà, ngài có thân phận thế nào? Ta lại có thân phận ra sao? Huống hồ…còn có Tĩnh Nhu nữa. Nếu như không phải ngài thường xuyên nhập cung, làm sao mà muội ấy lại đi vào tuyệt lộ cay nghiệt như vậy?”
“Tĩnh Nhu…” Đường Thừa Sóc lại than. “Người ta muốn lấy không phải là nàng ấy. Nàng ấy cũng hiểu thấu được tâm tư của ta, cho dù ta có đối xử tốt với nàng ấy thế nào, cũng chẳng tránh được sự mâu thuẫn trong lòng. Ta có lỗi với nàng ấy, có lỗi với Thiên Trọng… Hầy, Tĩnh Uyển, Thiên Trọng, thằng bé đó, ta lo lắng cho nó biết bao.”
“Thiên Trọng…” Tuyên thái hậu dường như cũng có suy nghĩ gì đó, lại dường như thấy phẫn nộ, giọng điệu có phần cững rắn hơn vài phần: “Thật ra…ta lại mong thằng bé có thể bao bọc, che chở cho hai mẹ con ta hơn.”
Đường Thừa Sóc bật cười, nhưng vừa cười lại vừa ho dữ dội, thảm thiết nói: “Nàng không tin ta. Từ trước đến nay, nàng đều không tin ta. Nếu như có cơ hội, liệu nàng có xử sự cực đoan như Tĩnh Nhu đã làm hay không? Thật ra…bao nhiêu năm nay, nàng cũng luôn chờ cơ hội để giết chết ta, có phải không?”
“Không phải.” Tuyên thái hậu cuối cùng cũng chẳng thể nào kiềm chế được nữa, bật khóc thành tiếng. “Thề nguyền sinh tử, cùng chàng thành sử. Nắm bàn tay chàng, cùng nhau bạc đầu. Lời thề trên thảo nguyên bao la năm xưa, chàng cho rằng ta đã quên hay sao? Thế nhưng vật đổi sao rời, ta đã có chồng, có con, nhà họ Tuyên cũng theo đó mà hưng thịnh, phát đạt hẳn lên, thế nhưng trước khi Tĩnh Nhu xảy ra chuyện, chàng vẫn luôn ép người quá đáng, chàng muốn ta phải làm sao đây?”
Sắc mặt của Đường Thừa Sóc càng ngày càng nhợt nhạt, ánh mắt bỗng giãn ra, vừa ho vừa gật đầu nói: “Thôi bỏ đi, bỏ đi, trước nay ta vẫn luôn nghi ngờ nàng, huống hồ nàng chỉ là một cô gia quả phụ, làm sao có thể không nghi ngờ ta được chứ? Có điều… hôm nay ta chết, chắc nàng cũng an tâm hơn nhiều rồi đúng không?”
Lời còn chưa dứt, thân thể ngài đã đổ mạnh về phía trước, trong tiếng hét thất thanh, thê thảm của Tuyên thái hậu, người ho ra rất nhiều, rất nhiều máu, bắn đầy khắp người Thái hậu.
Tôi đứng sau tấm bình phong che miệng chặt lại, suýt chút nữa cũng hét lên thành tiếng, chỉ có điều thân phận đặc biệt nên không dám bước lại gần thêm.
“Thừa Sóc, Thừa Sóc”. Tuyên thái hậu không hề ngại bẩn, ôm chặt Đường Thừa Sóc vào lòng, hoảng loạn dùng tay che miệng ngài lại, như thể muốn dùng tay che đi để ngài không còn nôn ra máu nữa.
Người cung nữ già theo hầu cận cũng hoảng hốt, vừa đứng cạnh giúp đỡ lau máu trên người Thái hậu, vừa quay về phía sau hét lớn: “Người đâu, mau truyền thái y…mau truyền thái y…”
Bên ngoài thái y luôn túc trực sẵn sàng, vừa nghe thấy tiếng gọi, liền vội vã đi theo hai sau huynh đệ Đường Thiên Trọng bước vào trong.
Đường Thiên Kỳ không hề lạnh nhạt như người anh của mình, vừa nhìn thấy bộ dạng của phụ thân, lập tức nước mắt đầm đìa, xông lại gần, ôm chặt lấy Đường Thừa Sóc.
Tuyên thái hậu không hề tránh qua một bên, vẫn ôm chặt lấy cổ Đường Thừa Sóc, lấy tay áo của mình lau sạch số máu đọng trên miệng ngài.
Đường Thừa Sóc nhắm mắt lại, lồng ngực rung mạnh, lúc này chẳng thể nào nói thêm được lời nào nữa.
“Thừa Sóc, mau tỉnh lại đi, Thừa Sóc…”
Tuyên thái hậu trước kia vẫn luôn nho nhã, cao sang, không dễ gì mất đi kiểm soát, lúc này ôm chặt lấy người vừa là bạn vừa là địch đã cùng phối hợp và đề phòng nhau hơn mười năm nay, chẳng thèm để tâm đến ánh mắt của những người xung quanh, bật khóc thành tiếng, nhất quyết không chịu buông ra.
Nỗi tuyệt vọng mà bi thương đó dường như đã lột bỏ tất cả mọi lớp mặt nạ khô cứng mà đẹp đẽ bên ngoài, thể hiện rõ nỗi đau đớn, xót xa ẩn giấu sâu thẳm trong trái tim người bấy lâu nay. Nước mắt nóng ấm, bi ai liên tục trào ra, tiếng khóc vang vọng cả căn phòng.
Không biết từ lúc nào, Đường Thiên Kỳ đã quỳ trước mặt cha, mím môi thật chặt, nước mắt lã chã, mấy vị phu nhân khác không dám lại gần, cầm khăn khóc lóc thảm thương. Mấy vị thái y đưa tay dụi mắt, nhưng lại không dám lại gần kéo Tuyên thái hậu ra để chẩn trị cho Nhiếp chính vương.
Lúc tôi đang ngậm miệng khóc lóc thì Đường Thiên Trọng vốn dĩ đang im lặng đứng cạnh Đường Thiên Kỳ bỗng nhiên đi ra trước mặt Thái hậu, đưa tay đỡ lấy Đường Thừa Sóc ra khỏi vòng tay của Tuyên thái hậu, ôm vào lòng rồi lễ phép, xa lạ nói với người: “Thái hậu, trước tiên hãy để thái y chẩn trị cho phụ vương đã.”
“Thiên Trọng…”
Tuyên thái hậu gọi tên ngài với vẻ bất lực, sau cùng đành miễn cưỡng ngồi lại trên ghế với sự giúp đỡ của người cung nữ, nhưng đôi mắt vẫn nhìn chằm chằm vào Đường Thừa Sóc đang dần dần mất đi sức sống. Đôi mắt người mê man, thẫn thờ, trông chẳng khác nào một người phụ nữ đáng thương sắp sửa mất đi người chồng thân yêu của mình, không còn chút oai nghiêm, tôn quý nào của bậc mẫu nghi thiên hạ.
Đường Thiên Trọng dường như chẳng hề để tâm trước bộ dạng đáng thương của Tuyên thái hậu, lạnh lùng quay sang nói với thái y: “Còn không mau tới đây chẩn trị?”
Mấy vị thái y đáp lời, lần lượt thay nhau bắt mạch, mặt mũi ai nấy đều tái nhợt, lặng lẽ lui về phía sau, quay sang nhìn nhau không dám nói lời nào.
Đường Thiên Trọng cau chặt đôi mày, trầm giọng cất tiếng: “Làm sao rồi?”
Tất cả mấy thái y đều hoang mang, quỳ rạp xuống đất, đưa tay lau sạch mồ hôi đầm đìa trên trán rồi nói: “Hầu gia…vi thần vô năng, vi thần đáng chết.”
Đường Thiên Kỳ đứng bật dậy, giơ chân đá mạnh vào vị thái y quỳ gần đó nhất rồi quát lớn: “Các người có thể chết đi. Nhưng trước khi chết phải chữa khỏi bệnh cho phụ vương của ta đã.”
Vị thái y bị đá ngã lăn ra đất, vội vã quỳ rạp xuống đất, không dám nói thêm bất cứ lời nào.
“Thôi được rồi. Mấy người họ…cũng đã tận tâm tận lực rồi.”
Đường Thiên Trọng ngăn cản đệ đệ của mình, quay đầu lại nhìn mấy vị phu nhân đứng phía sau.
Mấy vị phu nhân nhận được hiệu lệnh, liền vội vã tiến tới, có mấy người đi lấy nước nóng, chuẩn bị lau rửa sạch sẽ thân thể cho Nhiếp chính vương.
Đường Thừa Sóc dường như bị tiếng động xung quanh làm cho tỉnh lại, ngón tay hơi co giật.
Đường Thiên Trọng vội vã quỳ xuống, thì thầm gọi cha: “Phụ thân.”
Đường Thừa Sóc từ từ mở mắt ra, con ngươi khẽ đưa lên, đưa tay về phía Đường Thiên Trọng rồi thì thầm gọi tên: “Tĩnh Nhu…”
Đường Thiên Trọng vội vã nắm lấy bàn tay của phụ thân, áp người lại gần nói: “Phụ thân, con là Thiên Trọng.”
Khóe miệng Đường Thừa Sóc hơi nhếch lên, nở một nụ cười hiền hậu, nhưng vẫn tiếp tục nói: “Tĩnh Nhu…nói cho cùng…ta vẫn có lỗi với nàng.”
Đường Thiên Trọng cuối cùng cũng chẳng thể nào lạnh lùng thêm được nữa.
Ngài khép bờ mi xuống, nghẹn ngào lên tiếng: “Phụ thân, mẫu thân không bao giờ hận người đâu.”
Đường Thừa Sóc không đáp lại, buông tay của Đường Thiên Trọng ra rồi lại đưa tay về phía bên cạnh.
Cả người Tuyên thái hậu run lên bần bật, bàn tay khẽ động nhưng lại chẳng dám đưa ra, chỉ đưa lời dò hỏi: “Thừa Sóc?”
Đường Thừa Sóc nhanh chóng đáp lại, chậm rãi nói: “Tĩnh Uyển…ta biết rằng nàng đang đợi ta. Khi từ phương xa quay về, ta vẫn sẽ nghe nàng ca hát… nàng nói sẽ hát cho ta nghe.”
Bàn tay Tuyên thái hậu run run nắm chặt lấy bàn tay của Nhiếp chính vương, Đường Thừa Sóc an tâm thở phào một hơi, thì thầm nói: “Là nàng, Tĩnh Uyển. Ha ha, ta đã nghe thấy rồi, ta nghe thấy rồi, nàng đang hát…”
Đường Thừa Sóc nằm lấy bàn tay của Tuyên thái hậu, sau đó buông ra, ngài trút hơi thở cuối cùng.
Cả căn phòng khóc lớn thành tiếng, chỉ có người phụ nữ tên gọi Tĩnh Uyển vừa mới mất đi người yêu là không hề bật khóc. Nàng nghẹn ngào hát một khúc ca []:
“Vịnh lan can ngóng tin chàng
Rượu say oán hận vội vàng tình duyên
Chờ hoa nở, báo gió đêm
Cảnh xuân khó giữ buồn phiền nhớ nhung
Chẳng thà chưa được tương phùng
Trăng bên cửa sổ ai cùng chờ mong
Ngóng trông nào chốn quy hồng
Nhu tình muôn vạn thành không một ngày
Tiếng đàn như vẫn đâu đây
Luyến lưu vì thiếp như ngày mới quen.”
[]. Phỏng dịch từ bài từ theo điệu Giang Thần Tử của Lý Chí Nghi.
Năm đó nhất định có một người đàn ông anh tuấn, rắn rỏi từ phương xa quay về, đứng bên cửa sổ nhà người tình trong mộng lặng lẽ nghe cô gái hát khúc ca này.
Lúc đó, bầu trời nhất định rất cao, rất xanh, ánh mắt người đàn ông đó nhất định sáng trong mà dịu dàng.
Trên mặt người đàn ông nở nụ cười chan chứa yêu thương, đi về phía người yêu của mình, khẽ khàng, khẽ khàng gọi tên cô gái: “Tĩnh Uyển, Tĩnh Uyển…”
“Oán ly biệt, hận gió đông
Yêu thương nhung nhớ thành không một ngày!