Đàm Đài Chính Minh rất lanh trí, thấy Trương Đan Phong cứ buộc Vân Trọng học thuật châm cứu này thì biết chắc chắn có nguyên cớ khác, cười rằng: “Nếu Trương đại ca đã có ý tốt, huynh hãy cứ nhận lấy”.
Vân Trọng thấy nàng nói như thế thì cũng cầm lấy, trong lòng thầm ngạc nhiên.
Trương Đan Phong nói: “Thôi được, huynh hãy trị thương cho Đàm Đài muội muội, tôi không quấy nhiễu hai người nữa”. Rồi vén rèm bước ra.
Sáng sớm hôm sau, Trương Đan Phong gọi Vân Trọng dậy, hỏi: “Thương thế của Đàm Đài muội muội như thế nào rồi?”
Vân Trọng cười rằng: “Thuật châm cứu của huynh thật thần kỳ, vừa mới châm xong nửa canh giờ thì nàng có thể đi lại như thường”.
Trương Đan Phong nói: “Vậy thì chúng ta hãy xuất phát ngay bây giờ, sẽ có tuồng hay đang chờ”.
Vân Trọng không biết Trương Đan Phong lại sẽ sắp đặt chuyện gì, chỉ đành nghe theo lời chàng.
Trong trận kịch chiến đêm qua, phía Vân Trọng chỉ có ba người bị thương, tất cả đều có thể cỡi ngựa.
Đêm qua phía Sa Đào có quá nửa bị rơi xuống đầm, bỏ lại ngựa, cho nên Vân Trọng bảo tùy tùng chọn hai mươi thớt ngựa tốt rồi cùng phóng ra khỏi thung lũng.
Vừa ra khỏi núi thì thấy ở phía trước có một đội nhân mã chạy tới, Vân Trọng ngạc nhiên: “Hình như có một cánh quân”.
Trương Đan Phong cười nói: “Sắp có tuồng hay, các người hãy chờ xem”.
Mọi người qua khỏi chân núi chợt thấy phía trước bụi bốc mù trời, một toán quân Mông Cổ chạy tới, quần áo xốc xếch, người ngựa đều tơi tả, rõ ràng là vừa mới bại trận.
Vân Trọng ngạc nhiên, chỉ thấy phía trước một võ quan Mông Cổ ngồi trên ngựa ôm quyền nói: “Vân đại nhân đến tệ quốc, chúng tôi không thể nghênh đón, mong hãy thứ lỗi”.
Vân Trọng nói: “Các người là ai?” Võ quan ấy nói: “Chúng tôi phụng lệnh Thái sư rước sứ thần vào kinh thành. Ồ, Trương công tử cũng ở đây ư? Thật là hay!”
Võ quan ấy chính là Ngạch Cát Đa, y vừa thấy Trương Đan Phong thì không khỏi lộ vẻ lúng túng, trên trán toát mồ hôi.
Trương Đan Phong mỉm cười nói: “Thái sư của các người suy nghĩ thật chu đáo”. Rồi thúc ngựa tới phía trước, đột nhiên vươn tay ném một tên võ quan bên cạnh Ngạch Cát Đa xuống đất. Võ quan ấy cũng rất ghê gớm, bị Trương Đan Phong bất ngờ giở lên khỏi lưng ngựa mà vẫn đá ra hai cước, nhưng mau chóng bị Trương Đan Phong điểm vào Ma huyệt, không thể nào cử động được nữa.
Lúc này mọi người đều bất ngờ, Ngạch Cát Đa quát: “Trương công tử, sao ngươi lại vô lễ như thế!”
Trương Đan Phong xé toạc áo của viên võ quan ấy, xoay lưng y ra phía trước, chỉ thấy trên lưng có xâm một chữ “tặc”. Trương Đan Phong cả cười nói: “Là ai vô lễ? Ngươi cũng từng đọc sách Trung Quốc, chắc là biết được chữ “tặc” này chứ? May mà ta đã ghi lại ký hiệu”. Rồi ném tên võ quan ấy, vệ sĩ bên cạnh Vân Trọng vội vàng đón lấy. Trương Đan Phong nói: “Vân đại nhân, gã này chính là tên giặc che mặt hôm qua đã chạy thoát, tên gọi Ma Dự Tán, là võ sĩ dưới trướng của Thái sư Ngõa Thích, ngài hãy dắt y về trao lại cho Dã Tiên!”
Ngạch Cát Đa gầm lớn một tiếng, vung đao chém tới, Trương Đan Phong giở kiếm lên đỡ, chặn được mấy chiêu thì chợt cả cười rằng: “Đêm qua ngươi vẫn chịu khổ chưa đủ sao? Ngươi muốn lọt vào tay ta hay lọt vào tay kẻ thù của ngươi?”
Ngạch Cát Đa ngẩn người ra, mắng: “Té ra mọi chuyện đêm qua đều là do ngươi!” Thế rồi chém xuống một đao Lực Phách Hoa Sơn, Trương Đan Phong ngầm vận nội kình, mượn lực chém ngược lại, hất thanh Bạch Vân kiếm lên, chỉ nghe keng một tiếng, đao và kiếm giao nhau, thanh sóng dày của Ngạch Cát Đa đã bị chặt gãy! Ngạch Cát Đa rút đao bỏ chạy. Trương Đan Phong cười nói: “Ngươi chạy cũng không thoát, ngươi hãy xem ai đến”. Chỉ nghe một tiếng ngựa hí, vó ngựa gấp gáp từ xa vọng tới, chỉ thấy có một bóng trắng, trong chớp mắt bóng trắng ấy hiện ra trước mặt, Đàm Đài Chính Minh kêu lên một tiếng ca ca, té ra kẻ ấy chính là Đàm Đài Diệt Minh, y ngồi trên con Chiếu dạ sư tử mã của Trương Đan Phong.
Ngạch Cát Đa kinh hồn bạt vía, vừa kêu lên được một tiếng: “Đàm Đài tướng quân...”.
Đàm Đài Diệt Minh cả cười nói: “Hôm nay ta sẽ cho ngươi biết thế nào là Đàm Đài Diệt Minh!” Rồi vung tới một quyền, đấm ngã Ngạch Cát Đa. Đàm Đài Diệt Minh đã từng bị Ngạch Cát Đa bức hiếp khi Dã Tiên ra lệnh bao vây phủ Trương Tôn Châu, nay y đã từ quan cho nên chẳng còn lo lắng gì, vì thế cứ mặc sức ra tay.
Tàn binh của Ngạch Cát Đa tuy còn đến hai chục thớt ngựa, nhưng ai cũng biết Đàm Đài Diệt Minh là đệ nhất dũng tướng ở nước Ngõa Thích, nghe y quát như thế, những kẻ nhát gan đều vỗ ngựa bỏ chạy. Đàm Đài Diệt Minh trói chặt Ngạch Cát Đa, Đàm Đài Chính Minh định đến trò chuyện với y, chợt thấy trước mặt bụi lại bốc mù trời. Vân Trọng ngạc nhiên nói: “Dã Tiên dám làm càn, phái đại quân đến hay sao?”
Đàm Đài Diệt Minh cười rằng: “Đó không phải là quân của Dã Tiên”.
Một lát sau, toán quân ấy đã kéo tới, té ra đó là Tù trưởng của một bộ lạc ở Ngõa Thích, Tù trưởng cũ của bộ lạc này bị Dã Tiên giết chết, buộc Tù trưởng hiện nay quy thuận mình, gần đây Dã Tiên đấu tranh với A Thích, bộ lạc này đương nhiên đầu hàng A Thích. Ngạch Cát Đa vốn dắt theo năm trăm kỵ binh tinh nhuệ, đêm qua đã bị bộ lạc này đánh lén, toàn quân hầu như tan rã. Số còn lại chạy trốn cũng đều bị họ bắt sống trở lại.
Đến khi hai bên ngồi lại, Vân Trọng mới biết rõ nguồn cơ, té ra Trương Đan Phong và Đàm Đài Diệt Minh xuống phía nam đón Vân Trọng, nửa đường lại gặp toán quân này của Ngạch Cát Đa, Trương Đan Phong theo dõi thì gặp Ngạch Cát Đa đang bàn bạc cùng với Sa Đào, truyền đạt mệnh lệnh của Dã Tiên, bảo Sa Đào bắt sứ thần của Trung Quốc, rồi Ngạch Cát Đa sẽ ra tay tương cứu. Trương Đan Phong đang lo thiếu người, không thể nào vừa phải chống lại năm trăm tinh binh của Ngạch Cát Đa, vừa phải chống lại đám cướp của Sa Đào, thế là nói với Đàm Đài Diệt Minh, mới biết gần đây có một bộ lạc là kẻ thù của Dã Tiên, vì thế cả hai bên bày mưu tính kế, Trương Đan Phong dụ đám cướp của Sa Đào sa vào đầm lầy, còn Đàm Đài Diệt Minh thì cỡi con Chiếu dạ sư tử mã thuyết phục Tù trưởng của bộ lạc này xuất binh. Hai bên phối hợp với nhau, quả nhiên đã thành công.
Còn tên võ sĩ Ma Dự Tán vốn đi cùng với Ngạch Cát Đa, khi Sa Đào tấn công Vân Trọng thất bại, đã đốt lửa lên cho nên y đến giúp đỡ. Không ngờ bị Vân Trọng đánh một chưởng rách lớp áo da hộ thân, Trương Đan Phong thừa cơ dùng phi châm xâm vào một chữ “tặc” thật lớn trên người y.
Tù trưởng của bộ lạc ấy và Vân Trọng gặp nhau, trao cho nhau “Ha đạt” (là một loại khăn tơ thể hiện sự tôn trọng đối với khách). Hai bên quyết định, Vân Trọng sẽ dắt Ngạch Cát Đa và Ma Dự Tán đi, còn nhân mã và vũ khí đều thuộc về Tù trưởng. Phía Vân Trọng không hề tổn thất. Tù trưởng được Đàm Đài Diệt Minh giúp đỡ, thắng lớn một trận, lại thu được nhiều chiến lợi phẩm cho nên rất hài lòng, cứ luôn miệng đáp tạ, lại đích thân hộ tống Vân Trọng một đoạn.
Ra khỏi thung lũng, Tù trưởng ấy dẫn binh quay về, Vân Trọng tiếp tục lên đường. Lúc này đã đến trưa, ánh mặt trời chói chang, khí lạnh tiêu tan, Vân Trọng vui mừng nói với Trương Đan Phong rằng: “Đêm qua toàn nhờ Trương huynh, Dã Tiên muốn hạ oai chúng ta ai ngờ đã bị chúng ta nắm trúng yếu điểm”.
Trương Đan Phong mỉm cười. Đàm Đài Chính Minh nói: “Vân đại ca, cũng nhờ đêm qua huynh chỉ huy đúng cách chúng ta mới tránh được tai nạn, công lao của huynh cũng không nhỏ”.
Đàm Đài Diệt Minh thấy thế thì cười thầm: “Té ra ả nha đầu đã chọn được ý trung nhân từ lâu”.
Y thấy hai người thân mật như thế, nghĩ lại cảnh ngộ bất hạnh của Trương Đan Phong thì không khỏi thầm đau lòng.
Trương Đan Phong cũng buồn bã. Vân Trọng đang vui mừng chợt hỏi: “Lối muội đâu? Sao Lối muội không đi cùng Trương huynh, chẳng lẽ một mình Lối muội ở kinh thành Ngõa Thích ư?” Chàng đã muốn hỏi câu này từ lâu, nhưng đêm qua bận rộn, cho đến hôm nay mới có thời gian nói chuyện gia đình.
Trương Đan Phong sững người ra, cố nén nỗi xúc động trong lòng, thản nhiên đáp: “Ồ, Lối muội không đi cùng tôi, nàng đã về nhà thăm mẹ”.
Vân Trọng cả mừng nói: “Không biết mẹ tôi có còn sống hay không?”
Đàm Đài Diệt Minh nói: “Nghe nói lệnh tôn cũng đã trở về nhà. Vân đại nhân, lần này cả nhà ông đoàn tựu thật là chuyện đáng mừng!”
Vân Trọng vui mừng đến nỗi phát điên: “Thật không?”
Đàm Đài Diệt Minh nói: “Làm sao là giả được? Chỉ là...” Rồi chợt thấy Trương Đan Phong liếc nhìn y, cho nên y chẳng dám nói gì nữa.
Vân Trọng nói: “Chỉ là thế nào?”
Đàm Đài Diệt Minh nói: “Chỉ là đường xa muôn dặm, họ không thể đến gặp gỡ ngài”.
Vân Trọng cười nói: “Tôi dù phải ở lại kinh thành Ngõa Thích bao nhiêu lâu cũng phải chờ họ”.
Chàng chợt thấy Trương Đan Phong lạnh lùng thì không vui, nghĩ bụng: “Họ Vân và họ Trương có mối thù truyền kiếp, y bảo cha mình còn sống đương nhiên sẽ không vui. Gã này lòng dạ vốn phóng khoáng, nhưng cũng có lúc rất hẹp hòi. Cũng được, sau này sẽ càng dễ chia cắt y với A Lối hơn”.
Sau sự việc vừa rồi, sự thù hận của Vân Trọng đối với Trương Đan Phong đã giảm được mấy phần, thậm chí có thể nói, chàng đã hoàn toàn không coi Trương Đan Phong là kẻ thù nữa. Chỉ vì vẫn chưa thông suốt, không muốn cho Vân Lối đi lại với Trương Đan Phong.
Mọi người đi được hơn mười ngày thì đến kinh thành Ngõa Thích. Vân Trọng dừng ngựa đứng từ xa nhìn vào, trong lòng có vô vàn cảm khái, nghĩ lại mình lúc còn nhỏ đã trải qua những nam tháng đắng cay nhất, nhưng nay đã trở thành một sứ thần, chợt nhớ lại tình cảnh ba đời nhà mình ở Ngõa Thích, bất giác rơi nước mắt, cũng không biết là vui mừng hay đau lòng.
Chợt nghe ba tiếng pháo nổ, cửa thành mở rộng, Quốc vương Ngõa Thích đã nhận được tin sứ thần Trung Quốc đến cho nên phái người ra nghênh đón. Người của Dã Tiên cũng ra thành, bọn chúng không thấy toán kỵ binh của Ngạch Cát Đa hộ tống thì rất ngạc nhiên. Bọn chúng nằm mơ cũng không ngờ rằng, Ngạch Cát Đa và Ma Dự Tán đều trở thành tù binh, đang bị nhốt trong cỗ xe la kín mít. Còn Trương Đan Phong và Đàm Đài Diệt Minh vừa nghe tiếng pháo đón khách thì đã dong ngựa vào thành bằng lối khác, trở về nhà.
Dã Tiên đang ngồi thấp thỏm chờ tin tức của sứ thần triều Minh, nghe gia nhân về báo cáo, sứ thần triều Minh dắt theo mười tám tùy tùng, lại còn có cả phụ nữ, ai nấy đều có thân thủ phi thường, giáp trụ sáng choang, không hề có vẻ mệt mỏi tơi tả như bị đánh lén. Còn năm trăm kỵ binh cùng với Ngạch Cát Đa thì chẳng thấy tăm hơi. Dã Tiên thất kinh, cảm thấy rất ngạc nhiên, nghĩ bụng: “Ngạch Cát Đa và Ma Dự Tán võ công cao cường, lại rất khôn khéo, còn có năm trăm kỵ binh và đám cướp của Sa Đào giúp đỡ, không có lý nào thất thủ. Dù cho thất thủ cũng phải có người chạy về báo tin, sao lại không có ai! Chả lẽ sứ giả của triều Minh là thiên thần?” Y cứ mải suy nghĩ cho nên suốt đêm không ngủ, sáng sớm hôm sau thì sai người đến khách sạn mời sứ thần triều Minh vào phủ Thái sư gặp gỡ.
Dã Tiên là Thái sư của Ngõa Thích, y đã tự trao quyền cho mình trong cuộc nghị hòa này, theo lệ tiết, Vân Trọng phải đến gặp y. Vì thế chằng dắt theo bốn tùy tùng, đánh một cỗ xe la đến phủ Thái sư.
Dã Tiên đã đợi từ sáng sớm, đến gần trưa mới có vệ sĩ vào báo cáo, bảo rằng sứ thần của triều Minh đã tới, lại còn đánh theo một cỗ xe lừa. Dã Tiên thầm ngạc nhiên, nghĩ bụng: “Chả lẽ bọn chúng chở theo một xe lễ vật, những lễ vật này chắc chắn là thứ nặng nề to lớn”.
Thế rồi lập tức mở rộng trung đường, cho kẻ hầu người hạ lui xuống, mời sứ thần vào trong gặp gỡ.
Vân Trọng tướng mạo hiên ngang, dáng dấp đỉnh đạc, khi băng qua hai hàng vệ sĩ với gươm đao sáng loáng mà không hề e ngại, Dã Tiên nhìn thấy cũng không khỏi bất ngờ. Bởi vì y thấy hình như đã gặp người này ở đâu. Trong khoảnh khắc, hình bóng người một sứ thần triều Minh khác lướt qua trong đầu, hình bóng của Vân Tĩnh vào ba mươi năm trước, chăn ngựa ở Ngõa Thích hai mươi năm mà không hề cúi đầu, người này giống như chàng thiếu niên ở trước mặt.
Vân Trọng bước lên trao lễ vật của Hoàng đế Trung Quốc, chẳng qua chỉ là những thứ ngọc ngà châu báu, đó chính là lễ tiết giữa hai nước, Vân Trọng chuyển lời thăm hỏi của Hoàng đế với Dã Tiên, Dã Tiên hỏi họ tên, nghe chàng bảo là họ Vân, lòng thầm thất kinh rồi cười gượng: “Thật là khéo, sứ thần ba mươi năm trước đến đây cũng là họ Vân”.
Vân Trọng cười rằng: “Có điều còn trùng hợp hơn! Ba mươi năm trước gia gia đi sứ, ba mươi năm sau cháu nội của ông ta cũng đi sứ, xin hỏi Thái sư, đây có phải là một giai thoại hay không!”
Dã Tiên biến sắc, cười khan mấy tiếng rồi nói: “Giai thoại, giai thoại!” Vẻ lo lắng, lúng túng hiện ra trên mặt. Vân Trọng đắc ý, cười ha hả rồi nói thêm một câu: “Lần này tôi đi sứ đã học được bản lĩnh nuôi ngựa, khi cần thiết sẽ ở lại quý quốc!”
Dã Tiên lúng túng vô cùng, cười khan rồi nói: “Vân đại nhân thật biết nói đùa!” Rồi ho một tiếng, vuốt râu nói: “Vân đại nhân lần này đi sứ, tệ quốc không nghênh đón được từ xa, lão phu xin cáo lỗi. Vân đại nhân vượt ngàn dặm xa xôi đến đây, trên đường chắc rất vất vả!”
Dã Tiên nói như thế một là để lái sang chuyện khác, hai là muốn thăm dò xem trên đường chàng có gặp chuyện gì không. Vân Trọng cười lạnh nói: “Cũng chẳng có gì, chỉ là sau khi vào địa phận của quý quốc, vô tình gặp vài tên tiểu tặc mà thôi”.
Dã Tiên hoảng hồn, nghĩ bụng: “Nếu là mấy tên tiểu tặc, chắc không phải là bọn Ngạch Cát Đa”. Vội vàng nói: “Gặp giặc cướp ở đâu? Vân đại nhân có nhớ không? Bọn quan viên ở đó thật là thất trách, tôi sẽ lập tức cắt chức bọn chúng”.
Vân Trọng cười nói: “Không cần, dù sao thì tôi cũng chẳng tổn thất gì, tôi có một chút quà mọn xin dâng lên cho Thái sư”.
Dã Tiên tươi cười, nói: “Vân đại nhân cần gì phải khách sáo thế”.
Vân Trọng nói: “Xin đại nhân cho phép tôi đem lễ vật trong xe vào đây”.
Dã Tiên nghĩ bụng: “Ta đoán không sai, trong xe quả nhiên là lễ vật. Nhưng lễ vật nặng nề này chắc chẳng phải thứ gì tốt lành”.
Nhưng dù sao đó cũng là lễ vật của sứ thần Trung Quốc, y đang lo Vân Trọng cứng cỏi, khó đối phó, thế mà chàng đã tỏ ra kính trọng y, đương nhiên y rất vui mừng. Do đó Dã Tiên cũng không cần để ý lễ vật có quý giá hay không, thế là nói với lời khiêm nhường, một mặt bảo người trong phủ tránh ra một lối để cho tùy tùng của Vân Trọng khiêng lễ vật vào sảnh.
Vân Trọng mỉm cười, Dã Tiên nhìn ra bên ngoài, chỉ thấy bốn tùy tùng của Vân Trọng khiêng hai bao bố lớn bước vào. Dã Tiên còn tưởng đó là đặc sản của Trung Quốc, thầm cười Vân Trọng keo kiệt, bao bố chợt vùng lên, nghe một tiếng kêu ối chao từ bên trong vọng ra, khi mở miệng bao, hai người đang bị trói trong bao lăn ra, trong đó một người bị xâm trên lưng một chữ “tặc”. Vân Trọng cười: “Đây chỉ là một ít quà để tỏ lòng thành, mong Thái sư hãy nhận cho!”
Không cần hỏi cũng biết, hai người bị trói ấy chính là Ngạch Cát Đa và Ma Dự Tán, bọn chúng vì bị nhốt trong bao bố lâu ngày, đầu váng mắt hoa, nay đột nhiên được giải huyệt đạo, đến khi mở bừng mắt ra thì thấy Dã Tiên, còn tưởng mình đã được cứu thoát, không khỏi cả mừng kêu lên: “Thái sư...”.
Dã Tiên thấy kinh, nhưng dẫu sao y vẫn là một kẻ gian hùng, trong khoảnh khắc đã đoán được chuyện gì đã xảy ra, thế là sầm mặt, lập tức quát: “Hai tên tiểu tặc nhà ngươi dám mạo phạm sứ giả của thiên triều, người đâu, hãy kéo xuống đánh ba trăm hèo rồi nhốt vào thiên lao đợi ta xử lý”.
Ngạch Cát Đa, Ma Dự Tán sợ đến nỗi hồn bay phách tán, chỉ nghe bọn vệ sĩ dạ ran, lôi xềnh xệch cả hai ra phía sau.
Vân Trọng lại mỉm cười, nói: “Thái sư ngày tính muôn chuyện, không cần phải hao hơi tốn sức vì hai tên tiểu tặc này, cho nên tôi đã bắt hộ bọn chúng cho Thái sư”.
Dã Tiên mặt đỏ ửng, nói: “Hai tên tiểu tặc này thật khiến cho ta mất mặt. Hừ, hừ, nhất định phải sử nặng, phải xử nặng!”
Vân Trọng chẳng nói lời nào, chỉ lạnh lùng nhín y, để mặc cho y nói. Dã Tiên càng nói thì càng thấy y dối trá, hai người này là võ sĩ dưới trướng của y, lại còn mang theo năm trăm thiết kỵ, được Sa Đào giúp đỡ, thế nhưng đã bị Vân Trọng dễ dàng bắt sống, Dã Tiên làm sao mà không sợ cho được? Lại thêm bộ dạng của Vân Trọng lúc này tựa như đang thẩm vấn, lúc này sắc mặt của Dã Tiên đã trắng bệt, lúng túng chẳng biết nói lời gì nữa.
Vân Trọng thấy thế thì thầm cười rằng: “Hôm nay đùa với y đã đủ, thôi được, không cần phải dồn ép y nữa, để khỏi y thẹn quá hóa giận lại bày trò khác thì hỏng việc”.
Thế rồi chàng mỉm cười, nói: “Có vài tên tiểu tặc trong nước cũng là chuyện bình thường, Thái sư đừng để trong lòng, chúng ta hãy bàn chuyện hòa ước đi thôi”.
Dã Tiên thở phào, nói: “Vân đại nhân nói phải”.
Vân Trọng lấy ra một quyển sách nhỏ đưa tới rồi nói: “Đây là bản nháp hòa ước của chúng tôi, mời Thái sư xem qua”.
Vu Khiêm đã soạn bản hòa ước này, nội dung chủ yếu rất đơn giản, chẳng qua là yêu cầu mỗi bên giữ biên cương của mình, đối xử bình đẳng với nhau, hai bên mãi mãi không dấy động can qua nữa. Điều khoản phụ là Ngõa Thích phải lập tức thả Thái thượng hoàng của Trung Quốc về. Dã Tiên xem qua, trầm ngâm không nói. Y vốn đã soạn một bản hòa ước khác, mô phỏng bản hòa ước mà năm xưa Tống triều đã ký với nước Kim, yêu cầu vua nhà Minh phải tự xưng là tiểu bối, kết tình “thúc điệt” với Ngõa Thích, mỗi năm phải cống nạp ba trặm vạn lượng bạc, bốn vạn cây gấm vóc, nhưng không ngờ khéo quá hóa vụng, y đã nặn óc ra bày mưu tính kế, muốn bắt sứ thần của triều Minh, nhưng ngược lại bị sứ thần của triều Minh nắm trúng chỗ hiểm. Lúc này trước phong thái đỉnh đạc của Vân Trọng, Dã Tiên tựa như chú gà trống bại trận, không dám đưa ra ra bản nháp của mình. Vân Trọng nghiêm mặt nói: “Trung Quốc là nước lễ nghĩa, nay muốn kết tình huynh đệ với quý quốc, chuyện trước kia không cần nhắc lại nữa, theo bản hòa ước này thì hai bên không nước nào thiệt thòi. Nếu Thái sư còn có hai lòng ba ý muốn bức hiếp Trung Quốc, ở biên quan chúng tôi cũng có mười vạn hùng binh, có thể đối chọi với Thái sư”.
Những lời này của Vân Trọng có mềm có cứng, lại rất hợp lý. Dã Tiên lần trước đánh vào Trung Quốc, tuy thu được toàn thắng ở thành Thổ Mộc, bắt sống được Hoàng đế triều Minh, nhưng lại thua to ở Bắc Kinh, bị đuổi ra khỏi Nhạn Môn quan, trong cuộc chiến này cả hai bên đều có thắng thua, không ai có thể tự cho mình là nước thắng trận. Hòa ước của triều Minh cũng rất công bằng. Dã Tiên nghĩ bụng: “Sứ thần này thật khó ứng phó, lợi hại hơn cả gia gia của y, có kéo dài thêm nữa cũng chẳng chiếm được phần lợi gì”. Lại thêm y đang lo lắng chuyện A Thích, cho nên chỉ đành nhận bản nháp của Vân Trọng, hẹn để cho Quốc vương Ngõa Thích xem qua rồi sẽ bàn tiếp.
Mọi việc diễn ra rất thuận lợi, không đầy mười ngày thì hai bên đã đồng ý ký vào hòa ước. Hai bên quy định, sau khi ký hòa ước, sứ thần triều Minh sẽ đón Thái thượng hoàng của họ về nước, lúc này Hoàng đế Chu Kỳ Trấn cũng được đưa vào hoàng cung của Ngõa Thích, được tiếp đãi bằng lễ quốc quân. Trong thời gian hai bên bàn bạc, Trương Đan Phong đã sai người gởi thư cho Vân Trọng, mời Vân Trọng đến nhà mình. Vân Trọng nhớ thù xưa, tuy không còn căm ghét Trương Đan Phong nhưng cũng không tới. Trương Đan Phong cũng không đến gặp chàng.
Thời gian trôi qua, sứ thần triều Minh cũng sắp rời khỏi Ngõa Thích. Đêm hôm nay Vân Trọng sung sướng vô cùng, cứ đi qua đi lại trong khách sạn, chẳng thể nào ngủ được. Ở một nơi khác, cũng có hai người sung sướng vô cùng, không thể nào ngủ được. Hai người đó chính là Trương Đan Phong và cha của chàng. Song tâm trạng của hai cha con lại rất khác nhau. Trong nỗi sung sướng của Trương Tôn Châu có nỗi u buồn, lúc này cả hai đang đứng ngoài vườn hoa.
Mấy ngày hôm nay, Trương Tôn Châu cứ giống như cây bị khô hạn, gió xuân đã thổi tới nhưng vây vẫn không hề nảy mầm mới. Ông ta cứ nhốt mình trong phòng đọc sách ngay cả con mình cũng ít nói chuyện, chẳng hề nhắc đến tin tức sứ giả triều Minh đến, sự trầm mặc trái lẽ thường ấy khiến cho người nhà đều lo lắng, Trương Đan Phong vốn muốn đến gặp Vân Trọng, nhưng vì cha mình nên không dám rời khỏi cửa nửa bước.
Đêm nay, Trương Tôn Châu lại gọi con mình tới, hai cha con dạo bước trong vườn, im lặng một lúc lâu mà chẳng nói, nhìn mặt trăng dần dần lên cao, Trương Đan Phong thở dài ngâm rằng: “Trăng trong vườn đêm nay, sang năm chỉ có thể ngắm một mình”.
Trương Đan Phong nhói lòng, kêu lên: “Cha”.
Trương Tôn Châu cười buồn bã, chợt hỏi: “Nghe nói hòa ước đã ký, ngày mai sứ giả triều Minh sẽ trở về nước, đúng không?” Đây là lần đầu tiên ông hỏi đến sứ giả triều Minh. Trương Đan Phong nói: “Đúng thế”.
Trương Tôn Châu nói: “Sứ thần cũng là họ Vân, đúng không?”
Trương Đan Phong nói: “Đúng thế”.
Chàng đã suy nghĩ rất kỹ, Vân Trọng không muốn đến gặp cha mình, chàng cũng không dám cho cha mình biết thân phận của Vân Trọng. Trương Tôn Châu nói: “Sứ thần này đã không nhục sứ mệnh, giỏi hơn Vân Tĩnh năm xưa nhiều!”
Ông không biết sứ thần này chính là cháu nội của Vân Tĩnh. Trương Đan Phong mỉm cười gật đầu, Trương Tôn Châu nói: “Phong nhi, vậy ngày mai con cũng ra đi!”
Trương Đan Phong giật mình, chàng đã mong muốn điều này từ rất lâu, nhưng nay cha đã nói ra, chàng cũng không biết trong lòng mình có cảm giác gì, chàng chỉ hiểu rằng, nếu ngày mai mình ra đi thì sẽ không bao giờ gặp lại cha già nữa.
Sinh li tử biệt từ xưa đến nay là nỗi khổ của con người, huống chi lần này chàng phải từ biệt người cha đã sinh ra mình! Trương Đan Phong cố nén lòng, biết rõ cha sẽ không trở về theo mình, nhưng vẫn hỏi: “Còn cha thì sao?”
Trương Tôn Châu sầm mặt, chợt cười: “Ta đã gói ghém thay con tất cả đồ đạc, đây là lần cuối cùng ta chăm sóc cho con”.
Trương Đan Phong xúc động vô cùng, chàng buột miệng nói: “Cha, cha không đi con cũng ở lại bên cạnh cha”.
Trương Tôn Châu nhẹ nhàng nói: “Không, con phải trở về! con vẫn còn trẻ. Đàm Đài tướng quân sẽ đi về cùng con, ta đã nói cho y biết”.
Trương Đan Phong nói: “Đàm Đài tướng quân cũng đi?...”. Chàng định nói thêm “vậy chẳng phải cha sẽ cô độc một mình sao?” Trương Tôn Châu mỉm cười: “Đúng thế, Đàm Đài tướng quân...” Chợt thấy một bóng người lướt tới, Đàm Đài Diệt Minh đã chạy tới trước mặt. Trương Tôn Châu vẫn mỉm cười, định nói: “Vừa nói Tào Tháo thì Tào Tháo đã tới”.
Chỉ nghe Đàm Đài Diệt Minh thở hổn hển, rung giọng nói: “Chúa công, không xong!”
Trương Tôn Châu chưa bao giờ thấy Đàm Đài Diệt Minh lo lắng như thế, hỏi: “Chuyện gì?”
Đàm Đài Diệt Minh nói: “Chúng ta đã bị bao vây”.
Trương Đan Phong lắng nghe, quả nhiên bên ngoài có tiếng người. Trương Tôn Châu vẫn bình thản: “Vậy chúng ta ra xem thử”.
Trương Đan Phong và Đàm Đài Diệt Minh nhảy lên bức tường, chỉ thấy bên ngoài phủ đã bị bao vây mấy vòng, trước cửa còn có một cỗ hồng y đại pháo! Thuốc nổ đã được người Mông Cổ sử dụng đầu tiên trên chiến trường, năm xưa ngang dọc châu Âu, cũng nhờ vào uy lực của loại vũ khí này hôm nay không ngờ lại sử dụng đối phó với nhà họ Trương. Đằng sau cỗ hồng y đại pháo có ba thớt ngựa khoẻ, đó chính là Ngạch Cát Đa, Ma Dự Tán và sư huynh của Thanh Cốc pháp sư là Bạch Sơn pháp sư.
Quân Mông Cổ đã đốt ngọn đuốc, thấy Trương Đan Phong đứng trên bức tường, tất cả đều hò hét ầm ĩ, Trương Đan Phong bình tĩnh nói: “Các người đang làm gì?” Chàng vẫn đứng nói chuyện, tiếng nói của chàng át cả tiếng la hét của quân Mông Cổ. Ngạch Cát Đa vỗ ngựa bước tới trước, cả cười nói: “Trương Đan Phong, xem thử hôm nay ngươi còn có thủ đoạn gì? Ngươi muốn chết hay muốn sống?”
Trương Đan Phong nói: “Thế nào?”
Ngạch Cát Đa nói: “Nếu muốn sống thì tự tay ngươi hãy trói tất cả những người trong nhà lại, trừ cha ngươi, sau đó mở rộng cửa để cho bọn ta dắt cha con ngươi đến cho Thái sư xử lý”.
Trương Đan Phong hừ một tiếng, nói: “Nếu không thì sao?”
Ngạch Cát Đa nói: “Ta sẽ cho ngươi một chút thời gian để các ngươi suy nghĩ cho kỹ càng. Ngươi đã thấy cỗ đại pháo này. Dù võ công của ngươi cao cường cũng khó chống trả nổi. Đến canh năm các ngươi phải trả lời, nếu dám nói nửa chữ không hay muốn chống cự, vậy thì xin lỗi, trời vừa sáng ta sẽ cho nổ pháo!”
Trương Tôn Châu nói: “Phong nhi, xuống đây”.
Trương Đan Phong và Đàm Đài Diệt Minh bước tới trước mặt Trương Tôn Châu, Trương Tôn Châu nói: “Xem ra Dã Tiên cũng không yên tâm đối với ta, cứ để ta theo bọn chúng! Con và Đàm Đài tướng quân hãy chạy trốn!”
Trương Đan Phong nói: “Không được! Con không thể để cha bị Dã Tiên làm nhục!”
Trương Tôn Châu suy nghĩ một lát, chợt cười lớn nói: “Chí khí lớn, chí khí lớn! Ba đời nhà chúng ta đều nhịn nhục cầu sinh ở Ngõa Thích, nay Trung Quốc đã mạnh, không cần phải nhịn nhục chúng nữa. Thôi được, ta và người nhà sẽ chết ở đây, các người hãy xông ra từ cửa sau!”
Trương Đan Phong nói như chém đinh chặt sắt: “Không được!”
Đàm Đài Diệt Minh cũng nói: “Có chết, tôi cũng chết cùng chúa công”.
Trương Tôn Châu mỉm cười mà rưng rưng nước mắt: “Các người là con trai tốt của ta, thuộc hạ tốt của ta, chỉ là ta đã liên lụy cho các người”.
Trương Tôn Châu nghĩ lại hai đời nhà ông ta, chỉ vì sai trong nhất thời, muốn mượn sức của Ngõa Thích tranh giành giang sơn với triều Minh, làm quan cho Ngõa Thích, giúp cho Ngõa Thích lớn mạnh, không ngờ nay gậy ông đập lưng ông, không những Trung Quốc suýt bị Ngõa Thích tiêu diệt mà ngay cả nhà mình cũng sắp tan hoang dưới pháo của Dã Tiên!
Bên ngoài vọng lại tiếng Ngạch Cát Đa: “Đã suy nghĩ xong chưa? Trời sáng bọn ta sẽ nổ pháo!”
Lúc này Trương Đan Phong cũng chẳng nghĩ ra được kế gì đối phó, thấy vẻ bi phẫn của cha già, lòng càng thêm lo lắng!
Ngay lúc này, ở một nơi khác cũng có một người lo lắng hơn, người đó chính là con gái của Dã Tiên.
Thoát Bất Hoa đương nhiên biết hòa ước đã được ký, ngày mai sứ thần triều Minh sẽ quay về, cũng đoán Trương Đan Phong sẽ trở về cùng họ, trong lòng đau khổ, Dã Tiên cũng biết điều đó. Đêm nay Dã Tiên uống mấy chén rượu, đến lúc ngà ngà thì nói với con gái rằng: “Con đừng lo lắng, ta thấy Trương Đan Phong ngày mai chưa chắc sẽ ra đi, ta có một cách bắt y trở lại. Ta chỉ có một đứa con gái là con, con muốn trăng trên trời, ta cũng hái xuống cho con. Hoa nhi, con thấy cha có thương con không!”
Thoát Bất Hoa vừa lo vừa mừng, khi hỏi thì Dã Tiên chỉ uống rượu chứ không nói nữa.
Đêm nay, Thoát Bất Hoa lòng chưa chan tâm sự, không biết cha đang có mưu kế gì, đến nửa đêm thì bên ngoài khách sảnh có người nói chuyện, Thoát Bất Hoa len lén bước ra, núp sau tấm bình phong.
Trong sảnh có hai người, một người là Dã Tiên, người kia là Tổng quản trong phủ Thái sư Oa Trát Hợp. Thoát Bất Hoa nín thở ngưng thần lắng nghe. Chỉ nghe Dã Tiên hỏi: “Ngày mai sứ giả triều Minh sẽ ra thành, các người đã chuẩn bị lễ vật đầy đủ chưa?”
Oa Trát Hợp nói: “Đã chuẩn bị đầy đủ”.
Dã Tiên nói: “Tên tiểu tử họ Vân thật khó đối phó, cám ơn trời đất, y ra về thì ta yên lòng”.
Oa Trát Hợp nói: “Thái sư có đi tiễn không?”
Dã Tiên nói: “Ngươi sẽ đi thay ta, cứ bảo là ta bị bệnh. Dẫu sao đã có Quốc vương đưa họ ra khỏi thành, cũng đã long trọng”.
Thoát Bất Hoa nghe họ nói toàn là chuyện đưa tiễn sứ giả triều Minh, cũng chẳng có gì đáng nghe nữa cho nên định quay về ngủ, chợt nghe cha hỏi: “Uy lực của hồng y đại pháo rất lớn, ngươi thấy tiếng pháo nổ có vọng ra ngoài thành không?”
Oa Trát Hợp nói: “Phủ đệ của Trương Tôn Châu cách cửa thành hơn mười dặm, tiếng pháp có thể truyền đi mười dặm, khi trời sáng họ đã ra thành, lại cách một lớp tường thành rất dày, dù cho có nghe thấy cũng như tiếng tre nổ, chẳng thể nào nghi ngờ được”.
Thoát Bất Hoa thất kinh, chỉ nghe Oa Trát Hợp lại nói: “Vả lại cũng không nhất định phải cho nổ pháo, trước họng pháo, thế nào bọn chúng cũng ngoan Ngoãn chịu nghe theo Thái sư!”
Dã Tiên nói: “Cha con Trương Tôn Châu rất ngang ngạnh, nhất là Trương Đan Phong, y chịu mềm chứ không chịu cứng, ta thấy bọn chúng có thể thà chết cũng không phục”. Ngừng một lát rồi thở dài: “Trương Đan Phong văn võ song toàn, là một bậc nhân tài, đáng tiếc y không chịu nghe lời ta, nếu để y về nước, đó sẽ là mối lo cho Ngõa Thích, cũng mong y đầu hàng ta. Nếu không dù cho Thoát Bất Hoa đau lòng cũng phải trừ y”.
Té ra sau khi mọi chuyện xảy ra, Dã Tiên tra hỏi Ngạch Cát Đa và Ma Dự Tán, biết rằng chính Trương Đan Phong đã cứu Vân Trọng, bắt sống Sa Đào, tiêu diệt năm trăm kỵ binh của Dã Tiên. Dã Tiên vừa lo vừa giận, cho nên đã quyết định hôm nay sẽ cho nổ pháo. Nhưng trước khi sứ giả triều Minh rời khỏi Ngõa Thích thì không thể làm thế. Cho nên phải đợi trước khi trời sáng, sứ giả triều Minh rời khỏi thành.
Thoát Bất Hoa nghe xong thì lo lắng vô cùng. Nghe bên ngoài tiếng trống gõ đánh canh ba, sau khi Dã Tiên dặn dò xong Oa Trát Hợp mới quay về ngủ. Phòng ngủ của Dã Tiên đối diện với phòng của Thoát Bất Hoa, Thoát Bất Hoa nấp trong phòng, chỉ thấy bóng cha già vẫn đi qua đi lại trong phòng, nghĩ bụng chắc ông ta rất căng thẳng cho nên khuya rồi mà vẫn chưa ngủ. Thoát Bất Hoa càng lo hơn Dã Tiên cả trăm lần, nàng đang suy nghĩ tìm cách cứu Trương Đan Phong, nhưng Dã Tiên vẫn chưa nghỉ, nàng không dám đi ra ngoài.
Một lát lâu sau Dã Tiên mới tắt đèn, Triệu Hải Bình thhở phào nhảy bật dậy.
Chợt nhớ bên ngoài có người canh gác, nếu mình chạy ra, đương nhiên họ không dám ngăn cản, nhưng sẽ đánh thức cha. Thoát Bất Hoa nghĩ một lát rồi len lén gọi ả thị nữ dậy, bảo ả hâm nóng hai bầu rượu đưa cho hai tên vệ sĩ bên ngoài vườn hoa uống, nói dối rằng vì trời lạnh nên Thái sư ban thưởng. Nàng đã ngầm bỏ thuốc mê vào trong rượu.
Thoát Bất Hoa thấp thỏm lo âu, nàng sợ hai gã vệ sĩ không mắc lừa, nàng hận không có cách nào níu giữ lại thời gian. Một lát sau ả thị nữ quay về báo, hai gã vệ sĩ đã ngủ say như chết. Thoát Bất Hoa thay đồ dạ hành, len lén chạy ra vườn hoa, phóng ra khỏi vách tướng. Lúc này trống canh đã gõ bốn tiếng.
Lúc này Vân Trọng đang ở trong tân quán cũng rất sung sướng, không thể nào ngủ được. Vua Ngõa Thích đã hẹn cùng với chàng, sáng sớm ngày mai sẽ lấy lễ đưa tiễn vua Minh triều, đưa Hoàng đế Chu Kỳ Trấn ra thành tề tựu với Vân Trọng cùng về nước. Đây là lễ tiết long trọng nhất, không cần Vân Trọng phải vào triều từ biệt.
Bên ngoài trăng sáng vằng vặc, bầu trời không một gợn mây. Vân Trọng nhìn lên nghĩ bụng: “Ngày mai có lẽ trời rất đẹp. Xuân qua đông tới, được quay về quê cũ, Hoàng thượng không biết sẽ vui mừng biết bao nhiêu!”
Nghĩ lại mình đi chuyến này may mắn không nghịch sứ mệnh, không những đã ký được hòa ước mà còn rước Hoàng đế về nước, chuyện này chưa bao giờ xảy ra trong lịch sử, Vân Trọng vui mừng cho Hoàng đế, cũng thấy mình may mắn.
Nhưng trong nỗi vui mừng cũng có chút đau khổ. Trước lúc rời Ngõa Thích, Vân Trọng đương nhiên càng nhớ cha mẹ và em gái hơn, chả lẽ họ không biết mình đến đây? Sao lại không gặp bọn Châu Sơn Dân? Tại sao họ không đến kinh thành đoàn tụ với mình? Bao nhiêu nỗi thắc mắc dâng lên trong lòng. Vân Trọng vốn muốn ở lại thêm vài ngày đợi đoàn tụ với người nhà. Nhưng không ngờ việc kỳ hòa ước quá thuận lợi như thế, mà Chu Kỳ Trấn lại nôn nóng cho nên sai người thúc Vân Trọng lên đường, Chu Kỳ Trấn chỉ muốn sớm ngày trở về ngồi trở lại ngai vàng, y nào biết nỗi lòng của Vân Trọng.
Trước lúc ra đi, Vân Trọng đương nhiên cũng nhớ đến Trương Đan Phong, lần này đi sứ thành công quá nửa là đều nhờ Trương Đan Phong, nhưng vì mối thù truyền đời giữa hai nhà, chàng không muốn đến gặp kẻ đã hành hạ ông nội của mình, mà Trương Đan Phong cũng không đến gặp chàng. Vân Trọng nghĩ lại thì cảm thấy buồn bã, Đàm Đài Chính Minh đã nhiều lần thúc giục chàng, khuyên chàng bỏ qua mối thù với nhà họ Trương, nhưng nỗi ám ảnh của bức huyết thư bằng da dê cứ luôn đè nặng trong lòng, làm sao chàng có thể bước vào nhà kẻ thù? Nhưng dẫu như thế, chàng cũng có cảm giác quyến luyến với Trương Đan Phong.
“Ngày mai Trương Đan Phong có đi cùng mình hay không?” Vân Trọng nghĩ tới câu hỏi này, tâm trạng mâu thuẫn vô cùng. Tận đáy lòng mình, hình như chàng mong Trương Đan Phong đến, nhưng hình như chàng cũng không muốn Trương Đan Phong đến, nếu quả thật Trương Đan Phong có thể cùng mình trở về cố quốc, sau này cha mình sẽ nghĩ như thế nào, rồi mối quan hệ giữa Trương Đan Phong và Vân Lối sẽ giải quyết như thế nào?
Nỗi vui mừng, lo lắng cứ đan xen vào nhau, càng nghĩ càng rối, chưa bao giờ tâm trạng của Vân Trọng lại rối bời như lúc này. Chàng cứ đứng suy đi nghĩ lại, bất giác đã nghe bên ngoài trống canh đã gõ bốn tiếng.
Vân Trọng định quay trở về phòng chợp mắt, chợt nghe bên ngoài có tiếng người ồn ào, tùy tùng bước vào báo cáo, trong khách sạn có một người che mặt bảo phải gặp sứ thần, không biết có phải là thích khách hay không, Vân Trọng ngạc nhiên, nghĩ ngợi rồi nói: “Được, cho y vào”.
Một lúc sau, vệ sĩ dắt vào một thiếu niên mặc đồ đen, nhưng người này trông rất mảnh khảnh, chẳng ra dáng dấp đàn ông tý nào.
Vân Trọng ngạc nhiên, nói: “Nửa đêm ngươi đến gặp ta có chuyện gì? Là ai đã sai ngươi đến?”
Thanh niên ấy che mặt, chỉ để lộ đôi mắt, nhìn chàng rồi hạ giọng nói: “Mong đại nhân hãy cho người xung quanh lui ra ngoài”.
Tùy tùng của Vân Trọng nghi y là thích khách, một người bước lên nói: “Đại nhân hãy cẩn thận”.
Một người khác bước lên toan lục soát người y, võ sĩ ấy đột nhiên tránh qua một bên, ánh mắt lộ vẻ e thẹn. Vân Trọng chột dạ, phất tay nói: “Các người hãy lui xuống”.
Tùy tùng bước ra ngoài, Vân Trọng tiện tay đóng cửa, cười nói: “Có thể nói được chưa?”
Chì thấy thiếu niên ấy lột khăn che mặt xuống, té ra đó là một thiếu nữ Mông Cổ xinh đẹp. Câu đầu tiên của nàng là: “Tôi là con gái của Dã Tiên!”
Vân Trọng giật mình, chàng đã biết đó là một thiếu nữ cải dạng nam trang, nhưng không ngờ rằng nàng lại là con gái của Dã Tiên! Vân Trọng không biết Dã Tiên sẽ giở trò gì, vội vàng đứng dậy mời nàng ngồi rồi nói: “Tôn đại nhân có gì chỉ giáo? Tại sao tiểu thư lại đến đây?”
Thoát Bất Hoa lắc đầu, tỏ ý không phải do cha mình sai đến. Vân Trọng càng ngạc nhiên hơn, chỉ thấy Thoát Bất Hoa tỏ vẻ lo lắng, buột miệng nói: “Vân đại nhân, ông có phải là bằng hữu tốt của Trương Đan Phong không?”
Vân Trọng nói: “Sao?”
Thoát Bất Hoa nói: “Giờ đây trời đã sắp sáng, già trẻ lớn bé cả nhà Trương Đan Phong sắp hóa thành tro bụi! Tánh mạng của y cũng nằm trong tay ngài, ngài có cứu y hay không?”
Vân Trọng kinh hãi vô cùng, vội vàng hỏi: “Chuyện gì xảy ra?”
Thoát Bất Hoa nói: “Cha tôi căm tức y giúp ngài, lại sợ y trở về Trung Hoa sẽ là mầm họa cho Ngõa Thích cho nên đã phái binh bao vây Trương phủ, chờ đến khi trời sáng thì sẽ cho nổ pháo!”
Vân Trọng nói: “Làm sao ta có thể cứu được y?”
Thoát Bất Hoa nói: “Lập tức đến nhà họ Trương!”
Vân Trọng cũng là người thông minh, chàng định thần trở lại rồi nghĩ ngợi, mình là sứ thần của Trung Quốc, nếu đến nhà họ Trương, Dã Tiên đang muốn cầu hòa với Trung Quốc, dù y có lớn gan bằng trời cũng không dám nổ pháo. Y chờ đến khi trời sáng mới ra tay là muốn tránh không cho mình biết.
Trong lúc này, biển lòng Vân Trọng lại dấy sóng, lần này không những phải bước vào nhà kẻ thù mà còn lỡ cả chuyến đi, bởi vì chàng đã hẹn trước ngày giờ với vua Ngõa Thích và Thái thượng hoàng của Minh triều!
Thoát Bất Hoa nhìn chằm chằm vào mặt Vân Trọng, suýt nữa rơi nước mắt, nàng rưng rưng hỏi: “Rốt cuộc ngài có cứu y hay không?”
Lúc này lòng chàng rối như tơ vò, trong đầu hiện lên hình bóng nho nhã của Trương Đan Phong, chàng nhớ lại khi mình gặp nạn, Trương Đan Phong đã xuất hiện cứu mình như thế nào. Chàng làm sao có thể để cho Trương Đan Phong chết?
Không đợi Thoát Bất Hoa hỏi nữa, Vân Trọng đã đứng dậy, mở cửa phòng kêu: “Phái hai người lập tức chạy đến hoàng cung Ngõa Thích, báo cho quan hoàng môn, bảo y chuyển lời cho Quốc vương Ngõa Thích, bảo ngày mai ta chưa thể đi được!”
Bọn tùy tùng vội vàng hỏi: “Sao thế?”
Vân Trọng nói: “Các người hãy lập tức thay đổi y phục xuất phát cùng ta, ta sẽ đến gặp Trương Tôn Châu!”
Lúc này chàng đã không để ý đến lời thề không bước vào nhà kẻ thù nữa!
Mọi người lao xao, Đàm Đài Chính Minh cũng đã thức dậy, lúc này đang đứng trước cửa phòng ngủ Vân Trọng, thấy một thiếu nữ Mông Cổ, mặt thì mỉm cười, nhưng mắt thì rưng rưng lệ, vả lại còn nắm chặt tay Vân Trọng, lòng rất ngạc nhiên, chợt nghe Vân Trọng bảo đến gặp Trương Tôn Châu thì càng kinh ngạc hơn. Vân Trọng nói: “Hay lắm, Đàm Đài muội muội, muội cũng đi thôi!”
Đàm Đài Chính Minh vui mừng vô cùng, lập tức trả lời: “Được, chúng ta đi thôi!”
Lúc này bọn Thoát Bất Hoa mới hỏi họ tên nhau.
Khách sạn cách hoàng cung không xa, nhưng cách nhà họ Trương đến sáu bảy dặm đường, bọn Vân Trọng cỡi khoái mã lao đi trong đêm tối, một lát sau đã nhìn thấy phủ thừa tướng. Trên đường chợt có một thớt khoái mã chặn ngang, Vân Trọng quát: “Ta là sứ giả của đại Minh, ai dám ngăn cản?” Người ấy rất lanh lẹ, Vân Trọng chỉ lao thẳng người tới, y phóng người lên không trung lộn một vòng rồi quỳ xuống đất, hai tay giơ cao một mảnh kim bài, lớn giọng nói: “Thiên tử triều Minh có chỉ, mời Vân đại nhân tiếp chỉ”.
Vân Trọng thất kinh, giơ đèn lồng lên xem, Vân Trọng nhìn lại, nhận ra đó là một trong những đại nội thị vệ bị bắt sống trong trận Thổ Mộc. Lần đó bên cạnh Hoàng đế còn có bốn năm người, bị bắt sống cùng với Hoàng đế triều Minh, lúc đầu thì bị nhốt riêng, sau khi Vân Trọng đến nghị hòa, vua Ngõa Thích đã rước Chu Kỳ Trấn vào cung, những thị vệ này đương nhiên cũng được thả ra, được cho đi theo hầu Chu Kỳ Trấn.
Chu Kỳ Trấn sợ Vân Trọng không tin cho nên còn viết theo một bức chiếu thư. Trên chiếu thư có đề mấy chữ: “Gọi sứ thần Vân Trọng vào cung triều kiến”.
Đã có kim bài lại thêm chiếu thư, có thể đoán chuyện này rất quan trọng.
Vân Trọng chỉ muốn mở ra xem, thấy không phải là giả. Vân Trọng thất kinh, không biết làm thế nào. Chỉ còn một canh giờ nữa thì trời sáng, nếu vào cung gặp Hoàng đế, chỉ e cả nhà Trương Đan Phong sẽ thịt nát xương tan dưới họng pháo! Nhưng không nhận thánh chỉ thì sẽ bị xử tội! Vân Trọng cầm chiếu thư, vẫn do dự chưa quyết, Đàm Đài Chính Minh nói: “Đến nhà họ Trương rồi sẽ vào cung”.
Vân Trọng nói: “Được”.
Vệ sĩ cầm kim bài vẫn quỳ ở trước ngựa, không dám đứng dậy, Vân Trọng nói: “Ngươi hãy quay về bẩm cáo với Hoàng thượng, sáng sớm tạm thời chưa lên đường, muộn nhất là đến trưa ta sẽ vào cung”.
Vệ sĩ ấy vẫn quỳ ở dưới đất, không chịu lấy lại kim bài. Chợt nghe có tiếng nhạc ngựa vang lên gấp gáp, lại một thớt ngựa nữa phóng tới, người trên ngựa nhảy xuống quỳ trước mặt Vân Trọng.
Người này cũng là vệ sĩ của Chu Kỳ Trấn, một tay đưa cao tấm kim bài, một tay lấy ra chiếu thư, trên chiếu thư viết: “Cho gọi sứ thần Vân Trọng lập tức vào cung triều kiến”.
Nét chữ cũng giống như bức chiếu thư trước, chỉ là thêm hai chữ lập tức, Vân Trọng cầm bức chiếu thư mà tay rung rung, vẫn chưa dám quyết định. Thoát Bất Hoa nói: “Mặc kệ chiếu thư, chúng ta đi mau”.
Nói chưa dứt, lại một thớt khoái mã nữa đuổi tới, người trên ngựa kêu lớn: “Vân đại nhân tiếp chỉ!”
Đó chính là Phàn Tuấn, em trai của Phàn Trung. Chỉ thấy y một tay cũng cầm kim bài, tay kia thì cầm chiếu thư, nhưng bên cạnh hai chữ lập tức còn có hai dấu tròn màu đỏ. Vân Trọng hỏi: “Phàn thị vệ, có chuyện gì gấp?”
Phàn Tuấn nói: “Chúng tôi cũng không biết chuyện gì. Nhưng Hoàng thượng căn dặn, nhất định phải mời cho được Vân đại nhân vào cung triều kiến, không được chậm trễ”.
Vân Trọng thở dài, chàng nào dám chống lại, vả lại chàng cũng sợ trong cung có biến, sau khi cân nhắc thì cảm thấy Hoàng đế quan trọng hơn. Vân Trọng nhận ba mảnh kim bài, chỉ đành quay đầu ngựa nói với Đàm Đài Chính Minh: “Được, các người hãy đi trước đi”.
Rồi lập tức phóng ngựa quay về hoàng cung cùng với ba thị vệ của Chu Kỳ Trấn.
Đàm Đài Chính Minh đã biết chuyện ở nhà họ Trương, lòng lo lắng thầm nhủ: “Trương Đan Phong đã cứu cả giang sơn của triều Minh, lão Hoàng đế triều Minh xui xẻo này đã liên lụy Trương Đan Phong mất mạng!”
Nhưng Vân Trọng đã quyết định, nàng không thể ngăn cản được, chỉ đành dắt mười tám tùy tùng của Vân Trọng phóng ngựa tới.
Nào ngờ khi đi ra khỏi con đường, Kinh sư Thái úy của Ngõa Thích (tên chức quan, tương đương với Đề đốc cửu môn của nhà Minh) đã bày sẵn trận chờ đợi. Tùy tùng của Vân Trọng nói: “Chúng tôi phụng lệnh Vân đại nhân đến gặp Hữu thừa tướng của các người”.
Thái úy Mông Cổ trả lời: “Vân đại nhân đâu?”
Người tùy tùng bảo: “Vân đại nhân vừa mới nhận chiếu vào cung, sắp đến đây”.
Thái úy ấy nói: “Nếu đã như thế thì đợi Vân đại nhân quay lại rồi tính tiếp. Chúng tôi phụng lệnh bảo vệ sứ giả triều Minh, ông ta không có ở đây, chúng tôi không thể nào gánh vác nổi”.
Thoát Bất Hoa thì thầm nói: “Chúng ta cứ xông qua”.
Nhưng viên Thái úy ấy đã sớm hạ mệnh lệnh, cho quân đứng dàn hàng ngang lắp tên vào cung chờ đôi. Đàm Đài Chính Minh và tùy tùng của Vân Trọng biết nếu cứ xông qua thì mọi chuyện sẽ hỏng bét. Huống chi địch nhiều ta ít, cũng chưa chắc xông qua được, thế là vội vàng kéo Thoát Bất Hoa, vẫn nói lý với bọn họ. Nhưng Thái úy Mông Cổ đã hạ lệnh rồi lui vào trong trận, mặc cho tùy tùng của Vân Trọng kêu gào thế nào y vẫn không đáp lời.
Hai bên cứ giùng giằng như thế, Đàm Đài Chính Minh và mười tám tùy tùng đều nóng ruột, nhưng cũng chẳng còn cách nào, xem ra chỉ đành đợi Vân Trọng quay về. Họ có thể đợi nhưng Trương Đan Phong thì không. Chỉ nghe trống canh lại gõ thêm năm tiếng, một lát nữa thôi trời sẽ sáng! Thoát Bất Hoa quát lớn một tiếng, vỗ ngựa phóng tới! Đàm Đài Chính Minh toan kéo lại nhưng đã không kịp nữa!
Quân Mông Cổ thấy một thiếu nữ phóng tới thì ngạc nhiên, vội vang kéo dây cung nhưng không dám phóng tên, cũng không dám quăng dây ra giật chân ngựa. Trời còn tối, ban đầu thì không nhìn thấy rõ ràng, nhưng khi nàng ta đến gần thì đã có quá nửa đã nhận ra nàng chính là con gái của Dã Tiên!
Viên Thái úy vội vàng bước lên nói: “Chúng tôi đã phụng lệnh Thái sư, không cho những người không có phận sự vượt qua”.
Thoát Bất Hoa trừng mắt, mắng rằng: “Ta là người không có phận sự ư? Ta cũng phụng lệnh Thái sư, nhất định phải vượt qua đây!” Rồi nàng vỗ ngựa phóng tới. Viên Thái úy thấy Thoát Bất Hoa từ phía sứ giả Minh triều phóng tới, tuy ngạc nhiên nhưng ai cũng biết nàng là con gái của Thái sư, thấy nàng vượt qua thì không ai dám ngăn cản, chỉ đành dạt qua hai bên. Thoát Bất Hoa vượt qua khỏi vòng vây, ngẩng đầu lên nhìn thì thấy ở đằng đông trời đã hửng sáng.
Lúc này ở Trương phủ, mọi người đều như kiến bò trên trảo nóng, chỉ có Trương Tôn Châu là vẫn tự nhiên, tựa như chẳng hề để ý đến chuyện sống chết. Trương Đan Phong cũng rất bình tĩnh, nhưng nghĩ lại trước khi lâm chung, không thể gặp Vân Lối thì trong lòng đau đớn vô hạn.
Người nhà ngồi lại một chỗ, bên ngoài tường chốc chốc lại vang lên tiếng quát của lính Mông Cổ.
Trong nhà ai nấy đều không lên tiếng, chỉ nghe tiếng trống canh gõ ba lần, không lâu sau lại gõ bốn lần, đêm mùa đông dài dằng dặc, nhưng đám người đang chờ đợi cái chết lại cảm thấy như qua đi rất nhanh!
Cái chết càng đến gần, tiếng quát tháo bên ngoài vách tường càng lớn, hình như tiếng trống báo canh bốn vang lên không lâu, trên đầu thành lại vọng xuống tiếng trống báo canh năm. Trương Đan Phong thở dài, quỳ trước mặt cha rồi nói: “Cha còn có gì căn dặn?”
Trương Tôn Châu nhẹ nhàng vuốt ve đầu chàng, mỉm cười nói: “Nếu một năm trước, ta đã chết không nhắm mắt. Nhưng lúc này coi như con đã làm được một vài chuyện cho Trung Quốc, còn ta cũng đã dốc một chút sức, tuy chưa thể chuộc tội nhưng lòng đã không hối tiếc”. Nụ cười của ông ta rất thê lương.
Trương Đan Phong thấy sắc mặt kỳ lạ của cha mình, chàng không khỏi chột dạ, nhưng lúc này thì còn có thể hỏi gì? Trương Đan Phong chỉ cảm thấy trước khi chết, tâm ý của hai người tương thông với nhau, chàng cảm thấy chưa bao giờ hai cha con lại gần gũi như lúc này!
Đàm Đài Diệt Minh cũng mỉm cười, nói: “Chúa công, hôm nay chúng ta cáo từ nhau”. Thế rồi lạy Trương Tôn Châu ba lạy. Y đã quyết, trước khi kẻ địch nổ pháo thì sẽ vung kiếm tự sát. Bên ngoài trống đã gõ canh năm. Một lát nữa thôi trời sẽ sáng!
Chợt nghe bên ngoài vang lên một hồi tiếng quát tháo, Đàm Đài Diệt Minh nói: “Trời chưa sáng mà bọn chúng đã nổ pháo rồi ư?” Rồi rút đôi câu ra.
Trương Đan Phong nói: “Ồ, không giống thế!”
Đàm Đài Diệt Minh nói: “Không giống cái gì?”
Trương Đan Phong nói: “Hình như có người đang đến. Ồ, người đó đang đánh nhau với bọn chúng”.
Rồi chàng nhảy lên bức tường nhìn xuống, chỉ thấy cách đó một dặm có ba thớt ngựa khỏe phóng tới. Bọn lính Mông Cổ bao vây ở phía trước không khỏi sáo động, nhưng cỗ pháo vẫn còn chỉa thẳng về phía cửa nhà mình.
Bọn võ sĩ Ngạch Cát Đa dẫn tới đều là tinh binh, chỉ cần hạ lệnh thì hàng ngàn mũi tên sẽ phóng về phía ba thớt ngựa ấy. Chỉ nghe trong tiếng quát tháo, tiếng chiến mã hí vang, từ xa nhìn tới, chỉ thấy ba thớt ngựa phóng lên cao đến cả trượng, bụng ngựa, lưng ngựa đều bị trúng tên, toàn thân ngựa đều đổ máu, thớt ngựa đang phóng lên đột nhiên bốn vó co lại, ngã lăn xuống đất. Cả ba kỵ sĩ phóng vọt người lên, đột nhiên một mảng lục quang, tiếp theo là một mảng bạch quang, một đạo thanh quang cùng phóng ra, tên bắn đến gần đều bị rơi xuống, lúc này Trương Đan Phong mới nhìn thấy rõ, ba kẻ ấy chính là Oanh Thiên Lôi Thạch Anh và Hắc Bạch Ma Ha! Hắc Ma Ha vung cây lục ngọc trượng, Bạch Ma Ha múa cây bạch ngọc trượng, Thạch Anh sử dụng cây thanh cương kiếm, khi múa gấp, chỉ thấy ba cái cầu màu lục, màu trắng và màu xanh xông thẳng tới kẻ địch.
Lính Mông Cổ vội vàng chặn lại, Hắc Bạch Ma Ha gầm lớn một tiếng, vung cây trượng đánh loạn xạ, người ngựa đều ngã lăn, những kẻ khinh công giỏi sau khi ngã xuống thì phóng lên tiếp nhưng bị Thạch Anh vung kiếm chặn lại cho nên không thể đánh sát tới. Ba người dàn hàng ngang lao tới, trong chớp mắt đã phóng tới gần ở giữa. Bạch Sơn pháp sư cả giận, vung lên phía trước chặn lại, đầu tiên gặp phải Thạch Anh, Bạch Sơn pháp sư bổ cây thiền trượng to như miệng bát xuống. Bạch Sơn pháp sư vốn là sư huynh của Thanh Cốc pháp sư, võ công cao hơn Ngạch Cát Đa, lực của cú đánh này nặng đến ngàn cân, kiếm và trượng giao nhau một tiếng, Bạch Sơn pháp sư quát một tiếng: “Ngã xuống!”
Thế là đè cây thiền trượng xuống, Thạch Anh hơi lắc lư, chợt cười nói: “Hay lắm!”
Thế rồi xoay cổ tay, đột nhiên rút thanh kiếm ra, vung lên trên không đâm vào vai Bạch Sơn pháp sư. Bạch Sơn pháp sư ỷ có khí lực hơn người, không ngờ lúc nãy chưa đánh ngã được kẻ địch, kiếm trượng giao nhau, cảm thấy hổ khẩu của mình đau nhói, đang thất kinh thì đột nhiên chỉ thấy ánh kiếm quang, không thấy bóng người, kẻ địch đã xoay ra sau lưng mình phát chiêu. Bạch Sơn pháp sư né tránh ha nhát kiếm, định xoay ngược trượng lại, chặn kiếm thứ ba của ông Thạch Anh, chỉ nghe Thạch Anh quát một tiếng: “Trúng!”
Thanh kiếm chạm vào cây trượng, bật ngược ra trở lại, ông Thạch Anh lại trở tay đâm một kiếm, vạch một đường máu trên vai Bạch Sơn pháp sư. Bạch Sơn pháp sư đã luyện công phu Thiết Bố Sam, trúng kiếm nhưng vẫn không ngã, lão ta điểm cây thiền trượng nhảy vọt ra hơn một trượng, múa trượng xoay người định lao tới, Thạch Anh đã lao vào trong trận.
Bạch Sơn pháp sư gầm lớn như sấm sét, chỉ nghe một tiếng quát: “Thật đáng ghét, hãy nếm một trượng của Thạch Anh!”
Bạch Sơn pháp sư đang nổi giận, thấy Hắc Ma Ha lao tới thì gầm lớn một tiếng, chém ngang cây thiền trượng tới. Nào ngờ vừa mới giở bước chân lên, Hắc Ma Ha đã ở phía trước mặt, cây lục ngọc trượng hất lên, cây thiền trượng của Bạch Sơn pháp sư tuột khỏi tay bắn lên cao, lão sợ đến nỗi hồn bay phách tán. Lão xưa nay tưởng mình có khí lực hơn người, nào ngờ Hắc Ma Ha còn lợi hại hơn cả lão, chợt thấy trượng thứ hai của Hắc Ma Ha lại đánh tới, Bạch Sơn pháp sư nào dám tiếp lấy, vội vàng nhảy vọt ra sau mấy bước, va phải Bạch Ma Ha. Bạch Ma Ha mắng: “Đường sáng có lối ngươi không đi, Địa ngục không cửa ngươi lại cứ vào, hãy nếm một trượng của Thạch Anh!” Thế rồi quét ngang cây trượng xuống hạ bàn của Bạch Sơn pháp sư, hai chân của Bạch Sơn pháp sư đều gãy lìa.
Thạch Anh xông vào trong trận, lớn giọng kêu: “Hắc Thạch trang thế Long kỵ đô úy Thạch Anh cầu kiến chúa công!”
Té ra tổ tiên của Thạch Anh là vệ sĩ thân tín của Trương Sĩ Thành, được phong chức Long kỵ đô úy, nay Thạch Anh đã đến, vẫn bẩm cáo theo lễ chủ tớ ngày trước, cầu kiến Trương Tôn Châu, Trương Tôn Châu nước mắt rưng rưng, vịn vai con trai bước ra, nói: “Phong nhi, con hãy bảo ông ta chạy mau!”
Bạch Ma Ha cũng nói: “Trương Đan Phong, sao ngươi không xông ra? Bạn cũ đến mà ngươi không tiếp ư?”
Trương Đan Phong cười khổ, đang định lên tiếng, chợt thấy bọn võ sĩ dạt ra hai bên, chừa ra một lối, cỗ hồng y đại pháo bị người Thạch Anh chặn lại nay đã lộ ra. Thạch Anh thất kinh, chỉ nghe Ngạch Cát Đa nói: “Các người tiến thêm một bước, Thạch Anh sẽ cho nổ pháo!”
Ngạch Cát Đa nghe họ gọi như thế, biết mối quan hệ giữa họ với cha con Trương Đan Phong, nghĩ rằng họ sợ nhà họ Trương tan xác dưới họng pháo cho nên mới dọa như thế.
Thực ra cỗ hồng y đại pháo này di chuyển không tiện, không thể nào bắn được Hắc Bạch Ma Ha; lúc nãy canh năm vừa mới qua không lâu, trời vẫn chưa sáng, Ngạch Cát Đa cũng không dám nổ pháo vào nhà họ Trương, chỉ cần Hắc Bạch Ma Ha và Thạch Anh xông tới thì nhà họ Trương sẽ được giải vây. Nhưng Trương Đan Phong và bọn Thạch Anh không biết điều này, nhất là Thạch Anh, thấy cỗ pháo lớn chĩa về phía nhà họ Trương thì càng không dám ra tay.
Hắc Bạch Ma Ha tức giận đến nỗi quát mắng ầm ĩ bằng tiếng Ấn Độ, nhưng cũng không dám tiến về phía trước nửa bước. Ngạch Cát Đa cười ha hả, vung đao quát: “Hãy lui ra sau một trăm bước, nếu không Thạch Anh sẽ cho nổ pháo!”
Thạch Anh và Hắc Bạch Ma Ha đành phải y theo lời lui ra phía sau, Ngạch Cát Đa ra lệnh cho người rải tật lê có độc ở dưới đất, để lại một trăm cung thủ đối phó với họ, bọn ba người Thạch Anh tuy võ công cao cường, nhưng không thể đồng thời đối phó với cung tên ở trên, quét tật lê ở dưới, chỉ đứng mở to mắt nhìn kẻ địch.
Vầng trăng chìm xuống phía tây, ánh sao dần mờ đi, ở đằng đông, tia sáng đầu tiên đã xuất hiện, không bao lâu sau mặt trời dần ló dạng. Ngạch Cát Đa quát lớn: “Thế nào?”
Trương Đan Phong vẫn thản nhiên, cười lạnh nói: “Thế nào cái gì?”
Ngạch Cát Đa nói: “Trương Đan Phong, ngươi cứ ngang ngạnh cố chấp, ta chỉ đành nổ pháo!”
Trương Đan Phong nói: “Cứ việc cho nổ pháo, không cần nhiều lời!”
Ngạch Cát Đa nói: “Bây giờ ta sẽ đếm từ một tới mười, khi đếm tới mười ta sẽ lập tức nổ. Loài kiến kia còn ham sống, ngươi phải suy nghĩ cho kỹ”.
Trương Đan Phong nở nụ cười khinh miệt, nhảy xuống tường mà chẳng hề màng đến y.
Trong khoảnh khắc, bên ngoài im phăng phắc, Ngạch Cát Đa cao giọng đếm: “Một, hai, ba, bốn...”.
Trương Đan Phong nắm chặt tay cha, Đàm Đài Diệt Minh đã đảo ngược mũi kim câu chĩa vào ngực mình, Ngạch Cát Đa vẫn tiếp tục đếm: “Năm, sáu, bảy, tám, chín...”.
Đàm Đài Diệt Minh là một đại tướng, chỉ có thể tự sát chứ không thể bị giết, mũi câu đã chạm vào thịt, chỉ cần đẩy nhẹ một cái, lập tức lồng ngực sẽ rách toang.
Sau khi chín, tất cả lại rơi vào im lặng, chợt nghe bên ngoài có tiếng thét: “Không được nổ pháo!”
Đàm Đài Diệt Minh nói: “Ồ, tiếng phụ nữ!” Rồi cùng Trương Đan Phong nhảy lên tường, chỉ thấy bên cạnh cỗ hồng y đại pháo có một thiếu nữ đang chĩa đao vào phó thủ, Trương Đan Phong kêu lên: “Thoát Bất Hoa!”
Thoát Bất Hoa ngẩng đầu nhoẻn miệng cười, chỉ thấy nàng áo quần xốc xếch, tóc tai rối bời, chắc là vừa mới chạy đến đây.
Ngạch Cát Đa trợn tròn mắt, nói: “Ai bảo không nổ pháo?”
Thoát Bất Hoa nói: “Ngươi có điếc không? Chính là ta!”
Ngạch Cát Đa là gia tướng của Dã Tiên, bình thường rất e ngại Thoát Bất Hoa, Thoát Bất Hoa tưởng rằng sẽ dọa được y, nào ngơ Ngạch Cát Đa đã được Dã Tiên dặn trước, chỉ thấy y cung kính nói với Thoát Bất Hoa: “Đã nghe rõ, mời Quận chúa tránh ra!” Rồi đột nhiên lớn giọng thét: “Nổ pháo!”
Thoát Bất Hoa trừng mắt quát: “Ai nổ pháo ta sẽ chém kẻ ấy! Ngạch Cát Đa ngươi dám cãi lời ta?” Tên pháo thủ hơi nấn ná, ngọn đuốc trong tay rung rung, không dám châm vào pháo. Ngạch Cát Đa cười nhạt, nói: “Thuộc hạ chỉ nghe lời Thái sư!”
Thoát Bất Hoa nói: “Cha ta bảo ta đến nói với các ngươi không được nổ pháo!”
Nếu ngay từ lúc đầu Thoát Bất Hoa đã nói câu này, có lẽ sẽ lừa được Ngạch Cát Đa, nhưng lúc này Ngạch Cát Đa nghe giọng nàng rung rung, thấy dáng vẻ lo lắng của nàng thì không hề tin, y lại cung kính nói: “Có thủ dụ của Thái sư không?”
Thoát Bất Hoa nói: “Ta là con gái của ông ta, cần gì thủ dụ?”
Ngạch Cát Đa lại cúi người xuống, nói: “Không thấy thủ dụ, xin thứ thuộc hạ không thể nghe theo, mời Quận chúa tránh ra”.
Rồi lớn giọng quát: “Nổ pháo! Nếu không ta sẽ chém ngươi trước!”
Tên pháo thủ luống cuống tay chân, toan bước gần đến ngòi nổ, chợt thấy một bóng đen nhảy bổ tới quát rằng: “Ngươi tưởng ta không dám chém ngươi!” Rồi ánh đao vung lên, tên pháo thủ ấy chưa kịp lên tiếng thì đã bị Thoát Bất Hoa chém ngã. Thoát Bất Hoa dập tắt ngọn đuốc, lấy thân mình chèn vào họng pháo, kêu lên hổn hển: “Ai dám bước tới, ta sẽ chém kẻ ấy!”
Ngạch Cát Đa không ngờ Thoát Bất Hoa lại manh động đến thế, y tuy võ công cao hơn Thoát Bất Hoa rất nhiều, nhưng dầu sao nàng vẫn là cành vàng lá ngọc, cho nên y chẳng dám chạm tới!
Đang lúc giằng co, cảm thấy một thớt ngựa một thớt ngựa phóng tới, người ấy nhảy xuống ngựa quát lớn: “Tại sao không nổ pháo!”
Đó chính là Tổng quản của phủ Thái sư Oa Trát Hợp. Ngạch Cát Đa nói: “Quận chúa không cho!”
Oa Trát Hợp mặt nổi sát khí, quát lớn: “Thái sư đã căn dặn, bất luận là ai, nếu dám ngăn cản thì hãy giết chết không tha! Đây là thủ lệnh!”
Thủ lệnh đã viết rất rõ ràng, dù cho có chết con gái ông ta cũng có công chứ không có tôi.
Ngạch Cát Đa quát lớn: “Ma Dự Tán, hãy bước tới mời Quận chúa ra!”
Thoát Bất Hoa kêu lên: “Ai dám bước tới?” lúc này mái tóc của nàng xổ tung ra, cây trâm ngọc rơi xuống đất, bộ dạng trông như điên dại. Oa Trát Hợp bước tới, lạnh lùng nói: “Quận chúa đã nghe rõ rồi chứ, hãy mau tránh ra, không được cố chấp, Thái sư bảo Quận chúa về nhà”.
Triệu Hải Bình chợt khóc òa lên, nàng đau lòng vô cùng, nàng không chỉ vì Trương Đan Phong mà đây là lần đầu tiên cha nàng đối với nàng như thế. Nàng là con gái duy nhất của Dã Tiên, bình thường Dã Tiên luôn nuông chìu nàng, ngay cả nàng muốn trăng trên trời y cũng hứa lấy xuống cho nàng, nào ngờ ngay lúc này, y đã căn dặn gia tướng giết chết nàng.
Nàng không ngờ Dã Tiên lại nhẫn tâm đến thế, xem ra tình thương của y chỉ là giả dối! Trong trời đất này có chuyện gì khiến cho nàng đau lòng hơn nữa? Nhất là đối với một người xưa nay quen ương ngạnh như Thái Bang Hùng.
Oa Trát Hợp nói: “Quận chúa khóc cũng vô dụng, nếu Quận chúa không tránh qua một bên, chúng tôi sẽ không khách sáo nữa, hãy mau theo tôi về nhà”.
Thoát Bất Hoa đau lòng đến cùng cực, nàng chẳng còn khóc được nữa, nàng lau nước mắt, vẫn thấy thân mình che họng pháo, thần sắc rất đáng sợ, Ngạch Cát Đa nói: “Ma Dự Tán, hãy kéo Quận chúa ra”.
Ma Dự Tán bị Trương Đan Phong xâm một chữ “tặc” trên lưng, từ lâu đã muốn tiêu diệt cả nhà họ Trương, lúc này có thủ lệnh của Thái sư thì mạnh dạnh bước tới kéo tay áo Thoát Bất Hoa. Thoát Bất Hoa phất tay áo, phun một bãi nước bọt vào người Ma Dự Tán. Ma Dự Tán ngẩn người ra, trở tay chụp tới, kéo tay của Thoát Bất Hoa bẻ ra phía sau lưng, võ công của Ma Dự Tán cao hơn nàng gấp mấy lần, lại ra tay rất mạnh bạo, Thoát Bất Hoa không thể nào nhúc nhích được, đột nhiên nàng bổ nhào về phía Ma Dự Tán, há miệng ngoạm vào vai y, Ma Dự Tán không ngờ nàng lại làm thế, Mông Cổ tuy cởi mở hơn Trung Quốc, không khắt khe đến nỗi giữa nam nữ không được đụng chạm nhau, nhưng Ma Dự Tán dầu sao cũng là phận tôi tớ, bị Thoát Bất Hoa đè vào người thì hoảng hồn đến nỗi lúng túng, Ma Dự Tán vừa đau vừa sợ, vội vàng buông tay ra, Oa Trát Hợp quát lớn: “Đừng lo, cứ đánh ngất!”
Ma Dự Tán vung chưởng lên, chợt nghe xoạc xoạc hai tiếng, té ra đó là hai cây tụ tiễn Thoát Bất Hoa giấu trên người, lúc nãy hai tay đều bị bẻ quặt ra phía sau, không bắn ra được. Hai cây tụ tiễn này là tên độc nàng dùng khi đi săn, khoảng cách giữa hai bên lại gần, Ma Dự Tán không đề phòng cho nên bị tên độc cắm vào, Thoát Bất Hoa bị chưởng lực của y đánh ngã xuống đất.
Oa Trát Hợp cả kinh, vội vàng bước tới, chỉ thấy Thoát Bất Hoa nhảy vọt lên, quát rằng: “Trương đại ca, không phải muội không cứu huynh, muội đã tận lực!” Rồi nàng trở chui đao, đâm thẳng vào ngực mình, người ngã xuống nhưng hai tay vẫn ôm chặt thân pháo.
Trương Đan Phong đứng trên đầu tường đã nhìn thấy hết, Thoát Bất Hoa đã chết vì chàng! Trong khoảnh khắc ấy, Trương Đan Phong cảm thấy nhói lòng, nỗi chán ghét đối với nàng đã hoàn toàn tiêu biến, chàng bất giác bật khóc rồi kêu lên: “Bất Hoa muội muội!”
Nhưng Thoát Bất Hoa đã chết, nàng không thể nào nghe được tiếng gọi chứa chan tình cảm của Trương Đan Phong.
Ma Dự Tán mất mạng, Thoát Bất Hoa tự sát, tất cả đều vượt ngoài dự liệu của mọi người, bọn võ sĩ Mông Cổ đều đứng sững ra, chẳng ai dám lên tiếng. Oa Trát Hợp kêu lên: “Kéo Quận chúa ra, nổ pháo!”
Ngạch Cát Đa phải ráng sức mới có thể mở được hai cánh tay của Thoát Bất Hoa ra khỏi thân pháo, chỉ thấy họng pháo đã nhuộm máu đỏ, dưới đất máu cũng chảy tràn ra.
Đó chính là:
Liều mình đem thân chèn họng pháo, ngọc nát hương tàn bảo vệ Trương lang.
Muốn biết sau đó thế nào, mời xem hồi sau phân giải.