Loan Đao Tiểu Lục hừ lạnh một tiếng: "Ngươi vẫn muốn làm theo sách lược của Triệu đại thủ lĩnh, là luôn muốn tránh nguy hiểm tìm chỗ dễ, trốn qua trốn lại, kết quả thì sao chứ? Thanh thế lúc đầu của chúng ta vốn rất lớn, kết quả của việc trốn qua trốn lại là làm cho nó ngày càng suy yếu đi, tháo binh ngày càng nhiều, chính vì thành đô là trung tâm của Ba Thục, nên bây giờ chúng ta mới nhất định phải đánh hạ nó. Như vậy, chúng ta không những có thể đoạt được lượng lớn lương thực chống đỡ cho cả năm, mà còn khi thành đô bị hạ, Ba Thục lung lạc, thanh thế của chúng ta sẽ lớn mạnh lên, như vậy mới có nhiều người đầu quân vào chỗ chúng ta".
Hắn xoay người lại, áo choàng tung bay trong gió: "Ý nghĩ của việc đoạt lấy thành đô không phải chỉ ở một ngôi thành trì, mà chúng ta còn có thể thay đổi cả một xu thế suy tàn hiện nay. Cho nên, thành đô nhất định phải đánh".
Hắn quay đầu nhìn về phía thành đô, cười lạnh lùng nói: "Thành đô không được coi là một hiểm yếu, hiểm yếu của nó là nằm ở các quan ải được bố trí xung quanh nó, bây giờ Cung Lai Quan đã vào tay ta, thành đô còn có gì đáng sợ nữa". truyện được lấy tại TruyenFull.vn
"Đại thủ lĩnh nói phải!". Tam thủ lĩnh Vương Tiểu Ba có cái mũi hơi giống mũi quạ, vẻ mặt có chút hung ác liền bước lên trước nói: "Binh uy và thực lực là do đánh mà ra, chứ không phải do tháo chạy mà có được, đánh thành đô tổn thất nhất định không nhỏ, nhưng khi mà chúng ta lấy được nó thì cái lợi sẽ lớn hơn nhiều, cuộc mua bán này đáng để làm".
Nhị đương gia Thiết Ngưu nhân cơ hội đứng ra, giơ cánh tay hô to: "Lễ tế Táo quân sắp đến rồi, các vị lão gia muốn táo quân lên trời nói mấy lời tốt đẹp với ngọc hoàng, nhưng đám chúng ta ngay cả một bữa no cũng không có, giờ đi cùng đại đương gia đánh đến thành đô, cướp lấy đồ đạc thức ăn của đám lão gia quý nhân đó, thế miếu ngũ tạng của chúng ta. Cái tết Táo quân này, chúng ta sẽ thay Táo quân hưởng!". Dứt lời, mười vạn đại quân cùng đồng thanh hô vang, tiếng hô như sóng triều, âm vang cả rừng núi...
Triệu Quang Nghĩa khi biết được thái độ của Liêu Quốc với Hạ Quốc đương nhiên vô cùng vui mừng, Hạ Quốc hoàn toàn không có phản ứng gì đã làm cho chúng thần trong triều Liêu Quốc rất phẫn nộ. Liêu Quốc cho dù chưa đồng ý viện trợ vũ lực cho Hạ Quốc, nhưng Liêu Quốc đã thừa nhận sự thành lập của Hạ Quốc, cũng coi như chừa ra một cơ hội trả giá mặc cả cho Hạ Quốc. Nếu như Hạ Quốc có thể bỏ ra chút nhượng bộ về hợp tác quân sự, giao thông kinh tế thì phía Liêu Quốc chưa chắc đã không chịu viện trợ quân sự cho Hạ Quốc, đến lúc đó, bất kể là trực tiếp xuất binh tương trợ hay đưa binh gây chút động thái ở biên cương thì đều đủ làm cho binh lực Tống Quốc nhiễu loạn, giảm bớt áp lực cho Dương Hạo.
Nhưng Dương Hạo lại lặng thinh, không bỏ ra chút nhượng bộ nào, tin tức này không khỏi làm cho văn võ Liêu Quốc tức giận lôi đình, cảm thấy hoàng đế Hạ Quốc này không biết thức thời, ngay cả Tiêu thái hậu cũng thấy bực đến phát cười: "Kẻ oan gia này thật còn tưởng rằng vì có một mối tình duyên không để cho người khác biết mà đã có thể bài bố bản cung sao, để cho ta làm tổn hại đến lợi ích của quốc gia, lợi ích bộ tộc, không tiếc tất cả để giúp hắn sao? Giang sơn Đại Liêu là của con trai ta, bất kỳ ai cũng không thể làm hại nó, thao túng nó cũng không được, cho dù là ngươi cũng không được!".
Tiêu Xước rất tức giận, quyết tâm ngồi yên không bận tâm đến, để cho Dương Hạo phải đau đầu khổ sở, chịu khuất phục Liêu Quốc rồi hẵng nói. Nhưng ai biết được Tống Quốc lại lập tức tăng thêm ba vạn binh đuổi đến Hà Tây, viện quân còn chưa tới thì phòng tuyến Hoành Sơn đã bắt đầu buông lỏng, khi Vương Kế Ân hồi kinh bẩm báo quân tình thì lại dẫn ba vạn viện quân đuổi tới Hoành Sơn, hai đội quân hội họp, sĩ khí đại chấn, liên tiếp tấn công vào năm nơi hiểm yếu, phòng tuyến Hoành Sơn hoàn toàn bị phá vỡ.
Tiêu Xước nhận được tin này không khỏi kinh ngạc vô cùng, nàng vốn cho rằng Dương Hạo kiên quyết không chịu xưng thần nạp cống với Liêu Quốc tất đã có tính toán kỹ, không ngờ hắn lại bị bại nhanh đến như vậy. Nếu như Hà Tây thật sự rơi vào tay Tống quốc, để cho Tống Quốc có được mảnh đất dưỡng mã của mình, không những sẽ uy hiếp lớn đến Liêu Quốc về mặt thực lực quân sự, mà còn giảm bớt hẳn ưu thế địa lý của mười sáu châu thuộc Liêu Quốc. Nếu như Hà Tây hoàn toàn vào tay Tống Quốc thì Tống quốc có thể lấy Thánh Châu từ Hà Tây, trực tiếp thích sát đến trung kinh Liêu Quốc.
Thực tế chính là như vậy, Tiêu hậu đành phải giương cung lên, từ bỏ ý định muốn làm cho Dương Hạo chịu khổ, lập tức mệnh lệnh cho Da Luật Hưu Ca thống lĩnh sáu viện bộ tứ vạn tinh binh đuổi đến Hà Tây, lấy lý do là chiến tranh Tống Hạ ảnh hưởng đến sự an toàn quốc cảnh của Liêu Quốc, nên bổ sung thực lực vào Tây Kinh Đại Đồng.
Tiêu Xước để cho Da Luật Hưu Ca tùy cơ ứng biến, dặn hắn nếu như không phải gặp tình thế bất đắc dĩ thì tuyệt đối không thể trực tiệp can thiệp vào cuộc chiến của Tống, lần này đi không phải địch cũng không phải bạn, cứ dựa theo tình thế chiến trường mà động. Nếu như Tống quân thế cường thì sẽ gia tăng áp lực với Tống quân, nếu như Hạ quân chuyển bại thành thắng thì ít nhất có thể mỉa mai được Hạ Quốc, tóm lại cần hết sức tạo ra một sự thăng bằng có lợi cho Liêu Quốc.
Sau khi tin tức Liêu Quốc đột nhiên tăng binh ở Tây Kinh Đại Đồng Phủ được truyền đến Đông Kinh Biện Lương, Triệu Quang Nghĩa vô cùng lo lắng, Liêu Quốc nếu như thành lập liên minh quân sự, rất có thể sẽ trực tiếp huy quân nam hạ, không cần phải bỏ gần tìm xa đuổi tới tây kinh. Bây giờ Liêu Quốc đã tập kết quân đội ở tây kinh chưa chắc đã có cấu kết gì với Hạ Quốc, nhưng băng tuyết ngập trời, Liêu Quốc sẽ không vô duyên vô cớ điều binh chứ? Nếu như Liêu Quốc muốn rút củi trong lửa thì sao?
Triệu Quang Nghĩa ngồi không yên được nữa, nội trong ba ngày đã liên tiếp hạ xuống ba đạo thánh chỉ, mệnh lệnh cho Phan Mỹ, Vương Kế Ân tăng cường công thế, hết sức có thể mở rộng chiến quả trước khi truân binh Liêu Quốc đến Tây Kinh Đại Đồng, đồng thời lệnh cho Thôi Ngạn Tiến thống lĩnh hai vạn cấm quân nhanh chóng tới Nhạn Môn Quan, cùng với thủ tướng địa phương thủ ngự Nhạn Môn Quan, tạo ra sự uy hiếp với Tây Kinh Đại Đồng của Liêu Quốc.
Khi Tống Liêu hai nước điều binh khiển tướng, trấn áp lẫn nhau, Hạ Quốc cũng tiến hành dụ địch xâm nhập, đánh hậu cần của nó, chuẩn bị kết hợp trận địa chiến và vận động chiến. Tiếp theo đó các bộ lạc Đảng Hạng nhận được mệnh lần lượt bắt đầu di chuyển, vườn không nhà trống để đối phó với địch quân. Châu thành Tây Hạ lại tăng cường phòng ngự thành trì, tích trữ lương thảo, đồng thời tiến hành chiến dịch di chuyển lượng lớn người và của.
Hà Tây thành trì ít mà thảo nguyên nhiều, các bộ lạc di chuyển với tốc độ hết sức nhanh chóng, muốn làm cho vườn không nhà trống rất dễ dàng. Mùa đông đến rồi, tuyết rơi dày đặc khắp nơi, các bộ lạc cũng đúng đến lúc nghỉ ngơi không phải canh mục nữa, chuyển chiến địa cũng không lo mất mùa màng. Hơn mười vạn Tống quân ùn ùn như thác nước kéo tới, nếu như không thể nhanh chóng công đánh Hạ Quốc thì áp lực hậu cần của nó sẽ lập tức xuất hiện.
Phan Mỹ rất có kinh nghiệm chiến trận, đối với vấn đề hậu cần sao có thể không biết, nhưng bây giờ quân Hạ Quốc đã thảm bại, liên tục rút khỏi Hoành Sơn, chạy về vùng Hạ Châu. Đạo binh gia thường nói binh bại như núi đổ, lúc này chính là lúc phải thừa thắng xông lên giành phần thắng, nào còn thời gian mà để cho minh mã chưa động, lương thực lại động trước, để dẫn đến mất chiến cơ, để cho Dương Hạo có thời gian tập kết loạn binh, chỉnh đốn lại hàng ngũ, đứng vững chân mở ra thế tầng tầng phòng ngự được.
Huống hồ thái độ của Liêu Quốc rất mập mờ, chiến cơ hơi chậm trễ một chút thì quan gia lại thêm một lần hối thúc, càng không phải là áp lực hắn có thể chịu được, vì thế Phan Mỹ chỉ có thể chọn lựa con đường nhanh chóng tiến công, đuổi cùng giết tận. Hắn vốn muốn để lại lâm quân Vương Kế Ân phụ trách chăm lo hậu cần, nhưng bây giờ đại thắng đang kề trước mắt, đó chính là công lao vô thượng, Vương Kế Ân nào chịu ở lại hậu phương, nên khăng khăng muốn cùng hắn đi công đánh thành Hạ Châu, Phan Mỹ không còn cách nào khác, liền để lại hai viên tướng lĩnh tâm phúc phụ trách quân nhu rồi vội vã lên đường.
Hạ Quốc vì quân đội thoái lui mà đã cung cấp một lượng lớn ngựa, vì thế tốc độ thoái lui rất nhanh, Tống quân vội vã đuổi theo nhưng dù sao hai chân cũng không thể nhanh bằng bốn chân. Có điều, Hạ quân thoái lui hoàn toàn không có bố cục gì, rất khó hình thành được khả năng đối kháng có hiệu quả đối với thế tiến công của Phan Mỹ. Thêm nữa, cả chặng đường thoái lui, khi tiếp cận vào ngoại vi Hạ Châu, Hạ quân mới bắt đầu tổ chức một số đợt tập kích và ngăn cản, Phan Mỹ hiểu được mục đích của đối phương là gì, nên không đưa ra bất kỳ hành động nào. Chỉ đánh thoái lui địch binh chứ tuyệt đối không truy kích nữa, chỉ nhắm chuẩn về Hạ Châu.
Hạ Châu là đô thành của Hạ Quốc, ý nghĩa của nó tuyệt đối không chỉ đơn giản là một thành trì bất kể là hoàng đế Hạ Quốc bị bắt hay là đô thành Hạ Quốc bị mất thì đều không phải là thất bại mà một Hạ Quốc mới tự lập có thể chấp nhận được. Dương Hạo không thể rời khỏi Hạ Châu, Hạ Châu khó chắp thêm cánh để bay đi, mục tiêu của hắn đương nhiên chỉ có một Hạ Châu, cái đạo lý bắt trộm phải bắt kẻ cầm đầu này sao hắn lại có thể không hiểu.
Khi đại quân của Phan Mỹ đuổi tới Thiết Dã Vụ mới coi như gặp phải sự đối kháng thật sự có ý nghĩa của quân Hạ Châu sau khi thất thủ ở Hoành Sơn chạy về. Đây là môn hộ thẳng tiến vào Hạ Châu, một pháp đài kiên cố, đánh hạ được Thiết Dã Vụ hắn có thể đến thẳng được thành Hạ Châu. Phan Mỹ lập tức cắm doanh trại cách Thiết Dã Vụ mười dặm, các quân luân phiên xuất chiến, bắt đầu từ sáng cho đến đêm, không một khắc nào nghỉ công đánh toàn hiểm yếu này.
Cùng lúc đó, Phan Mỹ lại lệnh cho hậu phương tăng cường vận chuyển lương thảo cho tiền tuyến, và tập trung thợ thủ công của lưỡng châu Lân Phủ và trong Tống quân, bắt đầu chế tạo khí giới công thành. Tống quân tập kích bất ngờ, lấy được lưỡng châu Lân Phủ, Phan Mỹ lại vội vã hành quân, những vũ khí nhẹ đều được mang từ Biện Lương đến, cho nên vẫn chưa chuẩn bị được những quân giới nặng, khi vừa có được Lân Phủ thì hắn liền tiến vào đoạt Hoành Sơn, đám thợ thủ công trong quân phần lớn có trách nhiệm kiến tạo binh doanh và những công sự xung quanh Hoành Sơn, lúc này mới có thể xuất thủ chế tạo khí giới công thành.
Cho dù có những người thợ thành thục nhất và đầy đủ nguyên vật liệu thì đợt quân giới đầu tiên được tạo ra cũng cần ít nhất nửa tháng, hơn nữa vận chuyển đến thành Hạ Châu cũng tiêu hao một thời gian dài. Có điều Hạ Châu không thể chạy đi được, đầu tiên cứ đánh đến thành Hạ Châu, bao vây chặt lấy nó, vị hoàng đế đoản mạng Dương Hạo này đương nhiên cũng sẽ bị hắn tiêu khiển từ từ.
Lúc này, lượng tài vật và người cuối cùng chuyển từ Hạ Châu đến Hưng Châu đã nhanh chóng tập kết. Thực ra Dương Hạo sớm đã có ý thiết lập trung tâm chính trị của hắn ở Hưng Châu, Hưng Châu chính là đô thành Hưng Khánh Phủ của Tây Hạ Quốc trong lịch sử, khi Tây Hạ lập vẫn chưa đánh được chư châu Hà Tây, lúc đó tác dụng chính trị quan trọng của Hạ Châu còn lớn hơn Hạ Châu bây giờ, nhưng Lý Nguyên Hạo vẫn chống được trùng trùng áp lực, đem quốc đô chuyển từ Hạ Châu đến Hưng Châu, đây đương nhiên cũng là nguyên nhân quan trọng nhất.
Giống như những lời Dương Hạo đã nói với văn võ trọng thần ở Ngân Châu, vị trí địa lý của Hưng Châu đặc biệt tốt, thế dựa núi dựa sông, xung quanh không phải là rãnh trời cửa hải hiểm yếu thì là đại phụ đại thành, lại còn là nơi sản xuất ra nhiều lúa gạo nhất, hơn nữa trong tất cả các vị trí trung tâm của cả Hà Tây này thì đây là nơi thích hợp nhất để làm đô thành của một nước. Hạ Châu cách Tống Quốc quá gần, một khi Hoành Sơn thất thủ, Tống quân chỉ cần một thời gian ngắn đã có thể tới. Về mặt quân sự cũng rất không thỏa đáng, hơn nữa do các vùng lân cận Hạ Châu tốc độ sa mạc hóa ngày càng nghiêm trọng, từ điêu kiện tự nhiên mà nói cũng không thích hợp làm đô một nước.
Có điều muốn rời đô cũng không dễ, giống như Tống Quốc vậy, nền tảng thống trị của hắn chủ yếu là người ở lân cận Hạ Châu, rất nhiều quan viên đều thâm căn cố để ở đây, muốn di rời bọn họ đi sao có thể dễ dàng như vậy. Lần này, Dương Hạo lại mượn thế lực của Tống quân để giảm bớt áp lực rời đô xuống mức thấp nhất, thuận lợi hoàn thành sự chuẩn bị cho tiền kỳ rời đô.
Dương Hạo không những mượn thế của Tống quân, hoàn thành vấn đề đại nan giải rời đô này, mà còn mượn sự cấp tiến của Tống quân để làm đảo loạn kế hoạch của Liêu Quốc, thuận lợi dẫn dụ quân Liêu Quốc ra, khi hắn nhận được tin Liêu Quốc đã tập kết binh lực ở Đại Đồng Phủ Tây Kinh, thật sự đã có thể thở phào nhẹ nhõm.
Dương Hạo không chịu nhượng bộ với Liêu Quốc, bỏ qua cơ hội lợi dụng lợi ích chính trị hai bên, từ đó tạo ra một liên minh gắn kết với nhau, thực ra là hắn đã suy nghĩ rất kỹ. Suy nghĩ theo nhiều tầng, lợi ích trong đó phải đợi đến khi hắn bố trí thực hiện giai đoạn thứ hai và giai đoạn thứ ba mới có thể từ từ hiện ra, ý nghĩa của nước cờ ngầm này, ngoài hắn ra không một ai biết, cũng không một ai có thể nhìn ra.
Tuy nói Tống Quốc và Liêu Quốc, thậm chí cả thuộc hạ của hắn đều là những nhân tài kiệt xuất, không thiếu những chính trị gia, quân sự gia có con mắt nhìn xa trông rộng, nhưng tuyệt đối sẽ không có người nhìn ra ý nghĩa thâm sâu trong nước cờ này của hắn, thậm chí hoàn toàn không thể nhìn ra Dương Hạo đang có ý đồ riêng. Điều này không phải là do Dương Hạo là hùng tài đại lược, không ai sánh bằng mà là vì hắn là người của hậu thế, hắn nắm chắc một số sự kiện lớn trong lịch sử.
Cho dù vì hắn xuất hiện mà cả nền lịch sử đã bắt đầu thay đổi, nhưng đi đến bước ngày hôm nay đã ép hắn tới bước đường không thay đổi lịch sử không được, có một số xu thế đại sự trong lịch sử bây giờ hắn vẫn có thể nắm chắc được, chỉ dựa vào điểm này, hắn đã có thể biến hai đại đế quốc nam triều bắc triều thành con cờ của hắn. Bây giờ thì tốt rồi, tất cả đều đã diễn ra theo dự liệu của hắn, tiếp theo đó chỉ cần xem hắn làm thế nào để xướng tốt vở đại kịch "Hạ Châu bảo vệ chiến" này thôi.
Nữ Anh đảo mắt lần cuối nhìn tĩnh thất mà mình đã ở, nàng sắp phải đi Hưng Châu rồi. Đông Nhi, Diễm Diễm đã di chuyển đầu tiên đến đó để sắp xếp bố trí mọi việc, còn nàng sẽ đi theo nhóm cuối cùng với các vật tư rời khỏi đây. Thai nhi trong bụng đã được hơn sáu tháng rồi, nhưng vẫn chưa lộ ra bụng, mặc thêm đạo bào rộng thùng thinh càng dễ che mắt người khác, chỉ có khi nàng vuốt ve bụng mới cảm nhận được sinh mạng nhỏ trong bụng đang đạp mạnh mẽ như thế nào.
Đột nhiên, có một những tiếng bước chân vang lên, Nữ Anh vui mừng quay đầu lại. Bây giờ, trong những người còn ở thành Hạ Quốc chỉ có nhũ nương và Dương Hạo mới không cần báo trước mà vào. Nhũ nương thì đi nhẹ nhàng như con mèo, không phát ra nửa tiếng động, tiếng chân này không phải của Dương Hạo thì còn có thể là ai?
Nữ Anh biết Dương Hạo bây giờ bận rộn như thế nào, vốn không trông mong hắn bỏ ra thời gian đến thăm mình. Một lần trải qua nỗi đau vong quốc hủy gia, Nữ Anh cũng đã không còn là một Tiểu Chu Hậu lãng mạn hão huyền không biết nặng nhẹ nữa, nàng bây giờ đã hiểu được thế nào là quý trọng, biết thế nào là đủ. Việc Dương Hạo bất ngờ đến làm cho nàng vô cùng vui mừng.
"Quan nhân...". Nàng quay đầu ra nhìn, quả nhiên là Dương Hạo, Nữ Anh chạy nhào tới lòng hắn, thân thương gọi một tiếng.
Dương Hạo nhẹ nhàng ôm lấy nàng rồi sóng vai ngồi xuống giường, dịu dàng nói: "Một lát nữa nàng phải lên đường rồi, ta tranh thủ đến thăm nàng một chút. Bên Thiết Dã Vụ sắp không trụ được nữa rồi, không đi sẽ không kịp nữa. Khi Oa Nhi sinh, người làm cha như ta không thể ở bên cạnh nàng ấy, hy vọng khi nàng sinh, ta có thể về bên cạnh nàng".
"Ừm". Nữ Anh hiền dịu gật đầu, dựa vào lòng hắn, rồi lại ngẩng đầu lên nhìn hắn hỏi: "Quan nhân, người ta... Người ta bây giờ vẫn mang thân phận xuất gia, sau khi sinh con ra nên để thân phận như thế nào mới được? Quan nhân từ khi trở về luôn bận rộn. Thần thiếp... Không dám vì chuyện này mà phiền quan nhân, nhưng... Nhưng qua mấy tháng nữa là nó ra đời rồi, thiếp thật không biết như thế nào mới tốt".
"Chuyện này à...". Dương Hạo trầm ngâm một lát, đột nhiên hắn nhớ tới một chuyện, bất giác vỗ đùi nói: "Đúng rồi, có thể cho nó kế tục đại ca ta...".
"Sao cơ?".
"Đứa trẻ này nếu như là con trai thì cho kế thừa đại ca ta, thế nào?". Nữ Anh từ từ cúi đầu xuống, hơi buồn bã nói: "Ừm...".
Dương Hạo nhận ra có chút không ổn, vỗ vỗ vai nàng, nói: "Giao cho đại ca ta thì cũng vẫn là con của chúng ta, sao nàng... Nếu như nàng không đồng ý thì thôi vậy". Nữ Anh thấp giọng nói: "Quan nhân muốn sắp xếp như thế nào thì thần thiếp sẽ làm như thế". Dương Hạo nhíu mày nói: "Ngẩng đầu lên nào".
Nữ Anh tránh ra một chút, không chịu ngẩng đầu, Dương Hạo xoay vai nàng lại, đưa tay nâng má nàng lên, mới thấy trên khuôn mặt nàng đang có hai hàng lệ tuôn rơi. Vừa thấy Dương Hạo nhìn mình, Nữ Anh liền quay đầu đi, nhẹ lau nước mắt, thật là tội nghiệp. Nữ Anh bây giờ sắp biến thành người làm bằng nước rồi.
Một vị hoàng hậu từng ở cao cao tại thượng, một đệ nhất giai nhân thông minh hoạt bát, tay chân khéo léo mà từ khi theo hắn lại chưa từng một lần phản đối bất kỳ quyết định nào của hắn, không yêu cầu bất cứ thứ gì, cũng không tranh bất cứ điều gì, ngoan ngoãn đến đáng thương, ngay cả khi muốn phản đối cũng chỉ có thể dùng nước mắt để biểu đạt, thật là làm cho người ta vừa thương vừa yêu.
Dương Hạo vừa giận lại vừa buồn cười: "Nàng không nỡ thì nói một câu là xong, ta cũng chỉ là nhất thời nghĩ ra thôi, còn về... Thôi thôi, coi như ta chưa nói gì".
Nữ Anh nhẹ nhàng nói: "Thiếp chỉ là... Không nỡ thôi, dù sao cũng là máu thịt của mình, chứ không phải là muốn làm trái lời quan nhân, nếu như quan nhân muốn giao cho đại ca thì...".
"Được rồi được rồi, ta vốn nghĩ có cho làm con thừa tự hay không chẳng qua cũng chỉ là hình thức, con vẫn là của chúng ta, vẫn yêu thương nó. Haizz, người làm cha như ta dù sao cũng không giống người làm mẹ như các nàng. Thôi, là quan nhân đã sai, sau này không nhắc đến nữa, được không?".
Nữ Anh mỉm cười, nhẹ nhàng gật đầu, dáng vẻ rất ôn thuần.
Dương Hạo nhẹ thở dài, nâng cằm nàng lên, cười nói: "Nhìn dáng vẻ như một người vợ nhỏ bị ức hiếp của nàng, làm cho vạn hào hùng của một trượng phu như ta cũng tan thành mây khói".
Nữ Anh xấu hổ, lại thấy mình mới lộ một chút không muốn ra mà Dương Hạo lập tức đã phủ quyết ý định của hắn, trong lòng thấy vô cùng cảm kích. Dương Hạo nghiêng đầu tới, trao cho nàng một nụ hôn. Từ khi nàng mang thai, hắn chưa từng thân mật với nàng, lần này làm cho nàng cảm thấy vô cùng mãn nguyện, còn Dương Hạo thì lại lâng lâng, trút đi hết bao nhiêu phiền toái và mệt nhọc.
Khi Dương Hạo đang say sưa với men tình thì cung thái tử ở Đông Hoa Môn thành Biện Lương lửa cháy ngùn ngụt.
Cấm quân cung vệ, đại tiểu thái giám, thậm chí cả chốt hỏa tình, các lộ nhân mã qua lại như bay, xe nước cũng cũng đến rồi, nhưng vẫn có rất nhiều tiểu thái giám bưng chậu nước rửa mặt, ôm bình nước đi cứu hỏa, cũng không biết những đồ này có thể giúp được gì không. Cung thái tử đã cháy rồi, không phải là tự nhiên cháy mà là bị phóng hỏa, người phóng hỏa lại chính là thái tử Triệu Nguyên Tá.
Triệu Nguyên Tá luôn nghi ngờ cái chết của tiên đế có liên quan đến phụ thân mình, một người từ nhỏ đã được dạy dỗ về sự trung nghĩa hiếu lễ như hắn không có cách nào để chấp nhận sự thật này. Không thể chấp nhận được phụ thân mình lại là một kẻ đại gian đại ác hận độc vô tình, thêm vào đó Triệu Đức Chiêu vô tình chết trong hai quân trận càng làm cho sự nghi ngờ của Triệu Nguyên Tá đối với phụ thân hắn càng lớn hơn, mối hận này đã được hắn trút hết vào đầu phụ thân hắn.
Mối quan hệ giữa hai phụ tử trở nên vô cùng căng thẳng, cho dù khi là quốc sự trọng đại cần hoàng đế và hoàng thái tử cùng ra mặt thì hắn cũng không hề giả vờ thuận hòa với phụ thân. Chuyện phụ tử quan gia bất hòa ở Biện Lương đã là một bí mật công khai. Có điều hắn đối với phụ thân tuy lãnh đạm, hai năm nay chỉ ở trong cung đọc sách tập văn, nhưng cũng rất ít tái sinh xung đột với phụ thân.
Ai mà ngờ được hai ngày vừa qua không biết có kẻ nào nhiều lời lại báo cho hắn tin Tề vương Triệu Quang Mỹ bị bãi chức ở phủ Khai Phong, điều đến thành Trường An, giữa đường còn gặp thích khách. Triệu Nguyên Tá vừa nghe xong liền bốc hỏa, hắn là một người đơn thuần, cố chấp, phụ thân hắn trong lòng hắn vốn chỉ kém hơn bá phụ hùng tài đại lược Triệu Khuông Dận, ấn tượng này không phải chỉ trong một hai năm. Nhưng khi hắn lớn lên, trưởng thành lại phát hiện ra phụ thân mình thực ra lại là một kẻ đại gian đại ác. Bây giờ có người muốn hại thúc phụ, trong thiên hạ này còn có ai muốn hại thúc phụ chứ? Có ai cần phải hại ông ấy? Bá phụ là do cha hại, đường huynh là do cha hại, vậy ông ta hạ thủ với thúc phụ có gì là kỳ lạ chứ? Cha đã làm một đế vương mà còn không ngừng muốn tàn sát người thân của mình, ông ta thật là muốn làm một cô gia quả nhân vô tình vô nghĩa sao? Nhớ lại trong lịch sử, những tên hôn quân khi vừa đăng cơ liền lập tức giết sạch huynh đệ cháu chắt không chừa một ai, Triệu Nguyên Tá vừa bi ai vừa phẫn nộ.
Hắn vốn là một thanh niên cực kỳ phóng đạt, mấy năm nay vì mang trong lòng tâm sự nặng nề nên luôn cảm thấy buồn bực vô cùng, đến lúc này bao nhiêu bực tức chất chứa nhiều năm cuối cùng cũng bộc phát triệt để. Khi Triệu Quang Nghĩa đang cùng đại thần tâm phúc phân tích tình thế Hà Tây, thì hoàng thái tử đột nhiên xông vào, hai cha con xung đột kịch liệt, Triệu Quang Nghĩa nổi giận lôi đình, sai thuộc hạ trói thái tử đưa về cung.
Sự ức chế nhiều năm của Triệu Vô Tá thực sự đã bộc phát, hắn như điên như dại, sau khi về cung thái tử thì gào khóc một trận sau đó lại lớn tiếng cười, lúc khóc lúc cười, thần trí rất bất ổn, cuối cùng thì châm lửa thiêu điện, lớn tiếng nói muốn thiêu mình và cung thái tử, muốn thiêu hủy sạch sẽ những thứ dơ bẩn ô uế.
Cuối cùng cũng cứu hỏa kịp thời, cung thái tử ngoài bị thiêu cháy mất chủ điện thì mấy tòa nhà khác vẫn ổn. Nhìn thấy đống điêu tàn, khói thổi nghi ngút, lại còn đứa nghịch tử bị người ta khống chế rồi mà vẫn vừa khóc vừa cười, Triệu Quang Nghĩa tức đến toàn thân nóng ran, mặt xanh như thiết quay người bỏ đi.
Trở về Văn Đức điện, Triệu Quang Nghĩa vẫn chưa nguôi cơn tức, cầm lấy tách trà đưa lên môi, nhấp một ngụm lại ném mạnh xuống đất một cái, chiếc tách vỡ vụn: "Nghịch tử! Nghịch tử!".
"Quan gia bớt giận, thái tử là người tính tình trung nhân, chỉ là tuổi còn trẻ, không hiểu việc đời thôi, sau này ngài ấy sẽ hiểu được nỗi khổ tâm của quan gia".
Đám người Trình Vũ, Tống Kỳ, Giả Diễm thận trọng khuyên, Triệu Quang Nghĩa đập bàn một cái, gào lên nói: "Niên thiếu vô tri sao? Nó còn niên thiếu vô tri sao? Đã qua cái tuổi cực quan rồi, lại còn không biết nặng nhẹ như thế. Nghịch tử bất hiếu làm trẫm tức chết, thật là tức chết đi được, thật hối hận lúc đầu trẫm không nên lập nó làm thái tử, đứa con này làm sao có thể kế thừa đại bảo, quân lâm thiên hạ chứ!". Đám người Trình Vũ, Tống Kỳ lập tức biến sắc, không dám tiệp lời nữa.
Cho dù bọn họ là tâm phúc thân cận nhất của hoàng đế, nhưng cũng không phải chuyện gì cũng có thể tiếp lời được, thái tử là căn bản của một nước, sao có thể xem thường chuyện phế lập? Nếu như thật sự phế thái tử thì phải ăn nói như thế nào với văn võ bá quan trọng triều và vạn dân trong thiên hạ? Dùng lý do gì? Việc này, nếu như không thể đưa ra được một lý do làm cho cả thiên hạ tin phục thì tuyệt đối không thể phế.
Hơn nữa cho dù thái tử này phải phế thì đó cũng là con trai ruột của hoàng đế, nếu như một thần tử xuất ngôn tán thành, đợi khi hoàng đế hết tức, nhớ lại có một thần tử xen vào chuyện lập phế thái tử của hắn, thì sao hắn lại không đề phòng với người đó được? Sao cơ? Ngươi đồng ý phế thái tử, tại sao ngươi đồng ý? Phải chăng là ngươi có cấu kết riêng với một vị hoàng từ nào đó? Hơn nữa vạn nhất một ngày nào đó hoàng đế hồi tâm chuyển ý, lập lại thái tử đã phế thì đó chẳng phải là tự tìm chỗ khó cho mình sao.
Nếu nói ra mấy lời phản đối còn tốt hơn một chút, cần phải biết rằng thái tử nếu đã lập rồi thì chính là quân vương tương lai của một nước, là chính thống, ngươi biểu thị ủng hộ chính là nói ngươi trung thành với triều đình, cho dù một ngày thái tử thật sự bị đổi, tân thái tử lên chỉ cần làm việc tử tế, không bừa bãi thì hắn đối với ngươi cũng sẽ không có bao nhiêu sự nghi hoặc, vì thế biểu hiện của ngươi chính là hiểu mức độ, thủ quy tắc. Như thế nếu như bây giờ ta làm thái tử rồi thì ngươi đương nhiên cũng có thể toàn tâm toàn ý trung thành với ta.
Vì đều nghĩ những điều này nên khi Triệu Quang Nghĩa tức giận lộ ra ý muốn phế thái tử, chúng đại thần tâm phúc không có ai lên tiếng tán thành.
Triệu Quang Nghĩa thực ra không phải chỉ nói miệng như thế, mấy năm nay không ngừng giao ác với con trai, sự phẫn nộ trong lòng hắn càng ngày càng sâu, lúc này thật sự có ý muốn phế nó, hắn thở hồng hộc, ngồi sau ngự án, nhìn một lượt đám đại thần tâm phúc, trầm giọng nói: "Các khanh sao lại không nói gì vậy? Nguyên Tá điên cuồng vô thiên vô pháp, còn giống một thái tử không? Quân vương tương lai của một nước là căn bản xã tắc, sao có thể không thận trọng, trẫm muốn phế thái tử, chúng khanh thấy thế nào?".
Hoàng đế đã hỏi đến cùng rồi, không thể im lặng được. Trình Vũ bước lên một bước, đắn đo nói: "Quan gia, thái tử Nguyên Tá dù sao vẫn là trưởng tử đích hệ của quan gia, hoàng thất chính tông, nhân phẩm đoan chính, chưa từng có sai lầm gì lớn, không thể dễ dàng phế lập, như vậy sẽ làm loạn xã tắc, thần vẫn mong quan gia thu hồi thánh mệnh".
Giả Diễm cũng nói: "Thái tử là căn cơ của một nước, là chuyện kế tục, liên quan đến thiên hạ, thỉnh quan gia suy nghĩ kỹ".
Triệu Quang Nghĩa lạnh lùng lướt mắt nhìn Tống Kỳ, Tống Kỳ nói: "Quan gia, thái tử phế lập, quan hệ đến tông miếu xã tắc. Tuy quan hệ đến gia sự bệ hạ, nhưng thực sự là đại sự quốc gia, không thể dễ dàng thay đổi được. Từ cổ đến nay đều lập trưởng tử đích hệ làm hoàng đế, thái tử Nguyên Tá lại ở đông cung, thiên hạ đều biết, hơn nữa nhân phẩm được lòng người. Bây giờ thái tử và bệ hạ xung đột với nhau, lại đột nhiên phế thái tử, sợ rằng sẽ gây bất lợi cho trị vì lâu dài, Quan gia không thấy cái họa từ việc tiền triều Tùy Văn đế phế lập thái tử sao?".
Trình Vũ đưa mắt nhìn hai vị đồng liêu đồng ý với ý kiến của mình, gan liền lớn hơn một chút, vội nói: "Theo như thần thấy, vị trí thái tử không thể khinh xuất thay đổi, nhưng có thể giam lỏng thái tử trong cung, để thái tử có thời gian đóng cửa tự suy nghĩ, sẽ thay đổi suy nghĩ cũng không chừng".
Triệu Quang Nghĩa vẫn chưa hết tức, cười lạnh nói: "Đóng cửa suy nghĩ sao? Trẫm rất nhiều lần đã nhân nhượng, mấy năm nay luôn bắt nó đóng cửa suy nghĩ, nhưng nó đã từng có một chút hối hận nào chưa, ngược lại còn càng ngông cuồng hơn với trẫm, trẫm không thể nhẫn nhịn tiếp nữa".
Giả Diễm nói: "Việc xung đột này quả thật không nên để người ngoài biết, nếu như phế thái tử thì phải dùng lý do gì để công khai cho thiên hạ? Hơn nữa, quan gia đăng cơ đại bảo, vốn là huynh chết đệ kế vị, bây giờ trong đám hoàng tử, ngoài thái tử ra thì Đức Phương là lớn nhất, quan gia nếu như phế thái tử thì lúc đó phải lập ai làm thái tử đây?".
Triệu Quang Nghĩa hơi rùng mình, tức giận lập tức biến mất, liền nói: "Đức Phương sao... Đức Phương hắn...". Hắn lẩm bẩm đi lẩm bẩm lại mấy chữ, mắt lóe lên, mang theo một tia lãnh ý...
Bên ngoài Đông Hoa Môn, một vị hòa thượng anh tuấn trẻ tuổi đang đứng trong đám dân chúng, nhìn về phía cung thái tử đang nghi ngút khói, lại nhìn về đại môn hoàng cung canh gác nghiêm ngặt, cười lạnh lùng rồi quay người đi về phía Đại Tướng Quốc tự...