Triệu Quang Nghĩa bây giờ đã có cảm giác của thiên triều thượng quốc, sự trắc trở hắn gặp phải ở Hắc Xà lĩnh Hoành Sơn sớm đã bị hắn vứt lên chín tầng mây. Việc tổn thất mấy vạn sĩ tốt đối với hắn mà nói chỉ ít ỏi như lông tơ, nhưng hắn vội vã bãi chiến là vì chiến thuật đánh nhanh thất bại, Liêu Quốc đã có phản ứng, có Liêu Quốc ở đó, không thể để hắn dễ dàng đoạt được lợi, ung dung tiến vào chiếm Hà Tây.
Đồng thời, Ba Thục là hậu phượng lớn của hắn, hậu phương không ổn định, hơn nữa Ba Thục lại là các vùng lãnh thổ của mấy quốc gia vừa mới bị diệt quốc không lâu, Triệu Quang Nghĩa lo lắng hậu phương xảy ra vấn đề, cũng không dám chuyên tâm tiến công Hà Tây. Bây giờ thì khác rồi, triều đình vừa ra tay thì loạn đảng ở bên Ba Thục đã lập tức bị hất cẳng ra ngoài, Triệu Quang Nghĩa thậm chí còn nghĩ rằng phải chăng có thể không tiêu diệt bọn họ, mà đuổi bọn họ đến Lũng Hữu. Lũng Hữu càng loạn thì sự phụ thuộc của các thế lực bên đó vào triều đình càng cao, rõ ràng là rất có lợi cho đế quốc.
Vì loạn phỉ Ba Thục đã vào Quan Trung, Trường An lưu thủ, Tề Vương Triệu Quang Mỹ tạm thời tấn phong lên làm quan chỉ huy chiến khu, trong tay có quyền chỉ huy người, tài vật nhất định, có điều Triệu Quang Nghĩa đối với việc này không lấy làm lo lắng, cấm quân đang liên tục vào Quan Trung, mà cấm quân lại là nhân mã Triệu Quang Mỹ không thể chỉ huy được.
Triệu Quang Nghĩa từ trước đến nay không hề lo lắng người huynh đệ này sẽ tạo phản, người tam đệ này không có được sự văn trị võ lược như đại ca, so với hắn cũng kém mười vạn tám nghìn dặm. Triệu Quang Nghĩa kiêng kỵ hắn chẳng qua là lo lắng với quyền kế thừa thuận vị của hắn mà thôi.
Dương Hạo ở Hạ Quốc bây giờ đã ôn thuận nhiều rồi, đây cũng là điều hắn đã dự liệu, cho dù là một tên vô lại, một khi đã trở thành hoàng đế thì cũng không thể lại tiếp tục cái thói vô lại ngày trước. Hà Tây đã trở thành bá nghiệp của Dương Hạo, nhưng cũng sẽ biến thành sợi dây trói buộc hắn, trên người mang theo một cái vò lớn như vậy, đi cũng không thể đi được, hắn cho dù có ngu ngốc đến mức nào cũng sẽ không dùng cái thái độ trước kia để đối mặt với Tống Quốc.
Sự thật đúng là như vậy, Triệu Quang Nghĩa bây giờ đã chú ý thấy việc nắm bắt tình báo của triều đình đối với ngoại bộ thiếu sót nghiêm trọng, hắn đã tăng thêm trinh sát lực độ đối với những nơi như Liêu, Hạ và Lũng Hữu, trong đó thậm chí còn có người đã nhập được vào hẳn trung khu Hạ Quốc. Từ những tin tình báo mà hắn nắm được, có thể thấy giữa Tống, Liêu, Hạ Quốc rõ ràng đã chọn Tống Quốc làm chỗ dựa, còn Liêu Quốc đang ở giai đoạn tích sức, trước mắt hoàn toàn đã mất đi dũng khí mở rộng thế lực ra bên ngoài.
Nhóm chiến mã đầu tiên của Hạ Quốc đã được đưa đến rồi, năm trăm con là cống phẩm, bốn nghìn năm trăm con là giao dịch. Nhưng cho dù là năm nghìn con cống mã thì giá trị ban thưởng lại của triều đình cũng cao hơn nhiều so với nó. Tống Quốc thực lực hùng hậu, một chút tài vật này không đáng là gì. Điều mà thiên triều thượng quốc cần, chỉ là sự thần phục của tứ di, không cần phải giành được nhiều lợi ích từ bọn chúng, mà từ chỗ bọn chúng thì có thể có được lợi ích gì chứ?
Tống Quốc rất ít khi một lần mà nhập nhiều chiến mã đến như vậy, thêm hai, ba lần giao dịch tạm thời cũng đủ dùng rồi. Tào Bân nói rất đúng, Tống Quốc không phải là mảnh đất dưỡng mã, đưa quá nhiều chiến mã vào sẽ trở thành gánh nặng, nếu như thật sự muốn cải tạo quân đội thành kỵ binh làm chủ thì chính là giao quốc khí vào tay kẻ khác. Đợi khi Tống Quốc tạm thời không dùng nhiều ngựa đến như vậy thì Tây Hạ còn có thể lấy cái gì ra giao dịch với Tống quốc? Nghĩ tới Dương Hạo tương lai đành phải thấp giọng thỉnh cầu gia tăng mậu dịch với Tống Quốc, Triệu Quang Nghĩa không khỏi mỉm cười...
Bên ngoài trước mắt đã không còn uy hiếp gì, tiếp theo hắn cần phải giải quyết hai việc, một là Triệu Quang Mỹ, phải tìm cách để phế bỏ triệt để hắn, để hắn mất đi quyền kế thừa hoàng vị, việc này cũng cần phải mất ba năm, cũng có thể là năm năm, dù sao cũng phải tìm một cơ hội. Một việc khác chính là xóa bỏ sạch lão thần tiền triều. Hắn biết rõ đế quốc mà mình kế thừa có thực lực to lớn đến đâu, nhưng hắn lại chưa có cảm giác muốn gì được nấy. Khi mới kế vị, hắn cần phải làm ra vẻ để cho thiên hạ xem, chỉ có thể làm theo quy củ, đi từng bước dựa theo chính sách tiền triều.
Bây giờ hoàng vị đã ổn định, nhưng đám lão thần tiền triều lại không thể dùng tùy ý, một mặt là vì những lão thần này trước mặt tân quân sẽ tự nhiên lập thành hội bảo vệ nhau, mặt khắc là vì những lão thần tiền triều này lúc đầu đứng ngồi ngang hàng với hắn, trong đó có rất nhiều người hắn đã từng bí mật tặng quà riêng, hết sức nịnh bợ họ, bây giờ lại đối mặt với họ, luôn có cảm giác không được ngẩng cao đầu lắm. Hắn tin rằng, nếu như cái đế quốc này hoàn toàn làm theo ý chí của hắn, để hắn hoàn toàn khống chế thì hắn nhất định có thể giành được thành tựu lớn hơn nhiều so với vị hoàng huynh của hắn. Nhưng trong triều có rất nhiều lão thần vẫn ở tuổi sung sức, cho dù hắn có là hoàng đế thì cũng không thể vô cớ bãi miễn chức của họ. Thay đổi lượng lớn quan viên trong triều, việc này có rất nhiều điều phiền phức, có lẽ phải dùng tới khoảng mười năm mới có thể hoàn thành một lần đại hoán huyết.
Lúc này, Trương Ký đã trình báo tin tức Triệu Quang Mỹ và Triệu Phổ liên hệ quá mật thiết. Triệu Quang Nghĩa đã từng làm phủ doãn phủ Khai Phong, hiểu rất rõ việc qua lại giao tiếp trong quan trường. Tuy vì thân phận đặc biệt của Triệu Phổ và Triệu Quang Mỹ làm cho hắn có chút cảnh giác với việc này, nhưng cũng không cho rằng hai nhân vật đã mất đại quyền này có thể tạo thành uy hiếp gì đối với mình, hắn ngược lại còn rất vui mừng, muốn lợi dùng chuyện này để làm lớn lên, đánh đổ hắn tên Triệu Quang Mỹ đó, để cho hắn vĩnh viễn không thể tạo thành uy hiếp gì với mình. Bạn đang đọc chuyện tại TruyệnFULL.vn
Nhưng kết quả điều tra của hoàng thành ti trình lên lại làm cho Triệu Quang Nghĩa vô cùng kinh ngạc. Những hành động của Triệu Quang Mỹ ở Trường An hắn sớm đã biết, nhưng dưới sự điều tra toàn lực của hoàng thành ti mới phát hiện ra cử động của Triệu Quang Mỹ không chỉ có như vậy, hắn đã ngầm tích trữ lượng lớn lương thảo, giả Ba Thục loạn phỉ đánh vào Quan Trung để huấn luyện được một đội vệ binh ba nghìn người, đội vệ binh này là kỳ hiệu của sương quân, nhưng những trang bị mà chúng dùng còn tinh xảo và tốt hơn nhiều so với cấm quân. Hắn còn thường hội kiến quan viên, tướng lĩnh là Quan Trung, rồi ban thưởng cho họ...
Những chuyện này đương nhiên đều là tuyệt đối cơ mật, muốn giấu diếm người khác cũng rất dễ, nhưng muốn giấu người đã có tai mắt bên trong thì vô cùng khó, thêm nữa người của Thôi Đại Lang cố tình tiết lộ, cho nên những tin tình báo kèm chứng cứ thực đều đã được trình lên án thư của Triệu Quang Nghĩa.
Tin tức Lô Đa Tốn và Triệu Phổ qua lại mật thiết cũng nằm trong điều tra đối với Triệu Quang Mỹ. Lô Đa Tốn đã là tể tướng dưới một người, trên vạn người, Triệu Quang Nghĩa hoàn toàn không nghĩ ra được lý do gì để hắn làm phản mình. Mưu phản ư? Việc này vô cùng nguy hiểm, một khi thất bại, những gì giành được và mất đi hoàn toàn không tỷ lệ với nhau, ai sẽ lại tạo phản cơ chứ? Nhưng, Vương Kế Ân thì sao chứ, những thứ mà hắn giành được thật sự không nhiều bằng một nội thị đô tri, nhưng hắn vẫn tham dự vào mật mưu của mình, có lẽ Lô Đa Tốn đã bị Triệu Quang Mỹ nắm lấy điểm yếu gì đó? Có lẽ hắn muốn cầu một tước vị nào đó? Có lẽ...
Triệu Quang Nghĩa không muốn nghĩ sâu xa thêm nữa, những tin tình báo hắn nhận được đã thể hiện rất rõ ràng: Tam đệ Quang Mỹ đã có ý tạo phản! Dựa vào những chứng cứ trong tay, có thể bãi vương tức của hắn, cầm tù hắn ở kinh thành. Còn Lô Đa Tốn có lẽ không phải là thật sự đầu quân cho Triệu Quang Mỹ, giống như Triệu Phổ làm tể tướng, mình làm phủ doãn phủ Khai Phong, hai người bọn họ qua lại với Tiền Tiêu ở Ngô Việt Quốc cũng rất mật thiết, nhận vô số tiền bạc của cải từ Việt quốc, nhưng bọn họ tuyệt đối không có ý nghĩ làm phản Đại Tống mà đầu quân cho Ngô Việt.
Có lẽ, Triệu Quang Mỹ kết giao với Lô Đa Tốn, Lô Đa Tốn kết giao với Triệu Quang Mỹ cũng như mình năm đó. Nhưng, chân tướng như thế nào đã không cần đi điều tra nữa, nếu như tra rõ ra Lô Đa Tốn không có đại tội, ngược lại còn làm cho chuyện trở nên không hay. Triệu Quang Nghĩa quyết định lợi dụng chuyện này để giải quyết triệt để mầm họa ẩn nấp trong triều. Vì thế hy sinh một Lô Đa Tốn thì có đáng là gì chứ?
Triệu Quang Nghĩa nghĩ lại thấy phấn chấn, hắn dứt khoát rời khỏi chỗ ngồi, mở cửa ra cho gió thổi vào, những tấu sớ trên thư án mở ra lại đóng vào. Giờ đã là đầu hạ, gió không còn lạnh nữa, nhưng lại mang theo chút mùi vị ẩm ướt, một trận mưa sắp đến rồi.
Triệu Quang Nghĩa đứng nghênh gió, nhiệt huyết sôi sùng sục, hắn lâu lắm rồi không có cảm giác vui vẻ như vậy. Đặc biệt là binh mã chưa động mà thắng lợi đã vào tay, cảm giác này, hắn rất thích.
Đầu tháng, ở Linh Châu có một đoàn thương đội rất kỳ quặc mới đến, bọn họ mang rất nhiều xe, chờ đầy đồ đạc, nhưng sau khi đến Linh Châu thì lại không bán đồ, cũng chẳng vào khách điếm ở, mà vào một đại trạch viện ở thành đông. Đầu năm nay, trạch viện này đã mọc lên, có điều người ở thành này đều không biết ai đã mua mảnh đất đó, là ai đã cho xây một trạch viện lớn như vậy.
Sau khi những người này chuyển vào đó, lại thêm một nửa tháng nữa mới treo một tấm biển có tên "phường dệt Tế Vân", sau đó bắt đầu thu nhận nhân công.
Nữ nhân địa khu Tây Bắc cũng gánh trách nhiệm gia đình quan trọng, vốn bọn họ đã là lượng lao động lớn trong xã hội. Sau khi Dương Hạo vào Tây Bắc đã cổ vũ phụ nữ làm việc, làm cho tập khí Tây Bắc trở nên lạc quan hơn. Phường dệt trả tiền công theo ngày, tiền công lại cũng khá nhiều, hơn nữa công việc dệt may không phải là công việc nặng nhọc, tuổi nhỏ một chút hay lớn một chút đều có thể làm được, Đông gia lại nói rằng chỉ cần ký kết khế ước là có thể miễn phí dạy nghề, vì thế liên tục có rất nhiều nữ nhân chạy tới báo danh.
Nghe nói, phường dệt may Đông gia này là chuyển từ Giang Nam tới, liên tục sẽ còn có rất nhiều người đến. Bọn họ mang đến máy dệt máy xe sợi, máy kéo tơ, vòng quay tơ, máy dệt nổi, máy in hoa văn, còn mang đến rất nhiều thầy thợ thủ công. Ở Tây Bắc nghề trồng dâu nuôi tằm không được phát đạt cho lắm, nhưng cây dâu và tằm không phải không thể sinh trưởng ở đây. Nếu như muốn phát triển nghề dệt may thì có thể lợi dụng những dãy núi liên miên không dứt ở Hạ Lan Sơn để trồng dâu nuôi tằm, mà trừ khi nghề trống dâu nuôi tằm chưa hình thành được quy mô thì phường dệt cũng không phải là không có đất dụng võ.
Tây Bắc bây giờ nghề trồng dâu nuôi tằm không còn, nhưng nghề trồng bông lại đang dần dần trở thành xu thế. Dương Hạo từ sau khi chiếm lấy Hạ Châu, ngành này cũng đã phát triển hơn, hình thành được quy mô cực đại, tơ lụa tạm thời không dệt ra được, nhưng có thể dệt vải, hơn nữa vùng Tây Bắc bò, dê, lạc đà và cừu cũng rất nhiều, có thể mở rộng dệt may lông súc vật, giá trị sinh sản của những thứ đó không hề thấp hơn tơ lụa.
Sau khi đã hình thành được quy mô, vùng Tây Bắc sẽ không cần phải dựa vào việc bán ra lông da và chế phẩm thịt để đổi lại những nhu yếu phẩm hàng ngày nữa. Bọn họ hoàn toàn có thể tự mình gia công những chất liệu vải y phục có giá trị cao, kiếm về lượng lớn kim ngân.
Không ai biết được chủ nhân của phường dệt này chính là thái tử tiền Nam Đường Lý Trọng Ngụ. Việc Nữ Anh gả cho Dương Hạo hắn biết rất rõ, nhưng hắn cũng không còn cách nào khác, người của vong quốc còn có thể đưa ra điều kiện gì chứ, huống hồ Dương Hạo đối với hắn quả thật không tồi, ít nhất cũng không cần phải giống như khi ở Biện Lương, lúc nào cũng lo lắng mình bị "bạo bệnh mà chết". Tiêu Chu hậu lớn hơn hắn mấy tuổi, là dì nhỏ của hắn, nàng gả cho Dương Hạo, Lý Trọng Ngụ cũng thêm mấy phần bảo đảm.
Hắn không muốn làm quan, mà đã chọn một con đường khác, triệt để vứt bỏ thân phận cũ, thông qua hành động của Dương Hạo mà trở thành đứa cháu bà con xa của Lý Nhất Đức ở Ngân Châu, sau đó mở ra một phường dệt. Có Dương Hạo và Lý Nhất Đức nâng đỡ, thêm vào sự báo đáp thâm hậu của sản nghiệp này. Sau mấy mươi năm, có lẽ hắn sẽ trở thành một đại phú hào ở Hà Tây. Còn tung tích của thái tử Nam Đường Lý Trọng Ngụ trước đây có lẽ sẽ trở thành câu đố mãi mãi không có lời giải đáp trong lịch sử.
Những chuyện tương tự như thế ở cả Hà Tây này đều đang diễn ra. Lưu ly, nung gốm sứ, tinh luyện kim loại, đúc, làm muối, đào mỏ than, chế tạo giấy, chế tạo các đồ bằng da, may áo lông cừu, khắc ấn thư tịch, sự phát triển và nhu cầu của những sản nghiệp này lại kéo theo sự phát triển của ngành trồng trọt, chăn nuôi, khai thác... Khi chúng đã hình thành được quy mô nhất định, mở ra cả một thương đạo thì sẽ nhanh chóng đem những sản phẩm này đi bán, đổi lấy lượng lớn vàng bạc.
Tuy bách nghiệp đều đã mở ra xu thế đều hưng vượng, nhưng sự đầu tư tiền kỳ cũng lớn, cả triều đình bây giờ đều sống những ngày rất chật vật, mà lúc này tri phủ Cam Châu A Cổ Lệ lại thỉnh lương của triều đình.
Cam Châu là nơi bị tổn thất nhiều nhất trong cả cuộc tây chinh của Dương Hạo, vì lượng lớn tinh binh đã tử vong, thêm nữa bị Dạ Lạc Hột mang đi rất nhiều, tạo nên đả kích rất trầm trọng với Hồi Hột Cam Châu. Mùa đông năm trước chính là nhờ sự trợ giúp của Dương Hạo mới có thể miễn cưỡng qua được, bây giờ vừa vào thời tiết đầu hạ, thu hoạch vẫn chưa có, cuộc sống bên Cam Châu thật sự rất khó khăn.
Dân chúng thành Cam Châu chủ yếu làm nghề thủ công, ví dụ như xử lý, gia công phân loại da, lông, thịt, sừng, gân, xương... Của động vật và chế tạo cung nỏ, chế tạo y phục bằng lông, thịt khô. Còn về tộc người du mục may mắn còn tồn tại nhưng chất lượng sống cũng rất kém. Đây cũng là nguyên nhân vì sao Dạ Lạc Hột không ngừng mở rộng sang hai bên cánh đông tây, vì chỉ một tòa thành Cam Châu chẳng thể nuôi nổi tộc người có gần ba vạn trâu bò.
Bây giờ tuy vì nguyên nhân chiến tranh mà lượng người đã giảm đi, nhưng đa phần số người bị giảm đi là thanh niên trai tráng, như vậy đối với ngành chăn nuôi của họ ngược lại lại trở thành một đả kích nghiêm trọng, vì thế A Cổ Lệ chỉ có thể tiếp tục cầu lương của Dương Hạo.
Nghe Phạm Tư Kỳ hồi báo, sắc mặt Dương Hạo lập tức trầm xuống: "Lương thực mà triều đình cung cấp cho bọn họ đã không phải là nhỏ. Lương thực của triều đình cũng có hạn, bây giờ đã cầu lương triều đình thì mùa đông năm nay phải làm sao? Năm sau phải làm sao? Thuế chẳng nộp được bao nhiêu, nhưng bọn họ lại như một cái động không đáy, không có cách nào lấp đầy được".
Phạm Tư Kỳ liên tục đáp phái, lại lo lắng nói: "Đại vương, chỗ khó của triều đình thần đương nhiên biết, nhưng hai mươi vạn bách tính Cam Châu thì sao. Trước đây không có đủ lương thực, Dạ Lạc Hột liền đưa bọn họ đi cướp, cướp ở Tiêu Châu, Lương Châu, dùng nhân mạng để đổi lấy lương thực, còn bây giờ trái phải Cam Châu đều là đất của triều đình, hướng về phía nam là núi cao, phía bắc là đại mạc, nếu như bọn họ không thể tiếp tục chống đỡ được, phải chăng sẽ...".
Dương Hạo cười lạnh: "Bọn họ dám? Khi Dạ Lạc Hột binh vượng nhất cũng không phải là đối thủ của ta, bây giờ chỉ còn lại một mình A Cổ Lệ, nàng ta lấy cái gì ra để phản đây?".
"Vâng vâng vâng, có điều... Nếu như bước vào đường cùng...".
Dương Hạo nhíu mày, trầm ngâm một hồi, mỉm cười nói: "Bây giờ ở ven bờ Hoàng Hà đang khai hoang mở đất, thiếu lượng lớn người, một mẫu đất đấy có thể chống đỡ được bằng một trăm mẫu đồng cỏ của bọn họ. Nói với A Cổ Lệ, nếu nàng ta không nuôi được con dân bộ lạc mình thì ta sẽ nuôi hộ nàng ta. Có thể đưa bộ lạc không thể sống tiếp chuyển đến đó, ta sẽ sắp xếp cho họ". Phạm Tư Kỳ do dự nói: "Sợ là... A Cổ Lệ đại nhân sẽ không đồng ý...".
Dương Hạo cười giảo hoạt: "Nha môn tri phủ Cam Châu đâu phải đều là người của nàng ta, bảo bên đó gây ít trắc trở, nếu như A Cổ Lệ không thả người thì người chết đói chính là việc của một mình A Cổ Lệ, không liên quan gì đến ta. Nàng ta không gánh vác nổi trách nhiệm này, nhất định sẽ thả người".
Mục Xá Nhân ngồi ở trong góc như đang nghĩ tới điều gì đó, hắn vẫn còn nhớ, lần trước khi vương phi A Cổ Lệ bái kiến đại vương, đại vương đã lễ ngộ như thế nào với nàng, như là một sự che chở, cầu gì được nấy, trong mắt một kẻ có đủ sự tham lam như hắn thì hắn nhìn thấy rất rõ. Có điều, có một lần nghe nói vương hậu mời vương phi A Cổ Lệ vào hậu cung, không lâu sau thì nàng ta mặt mày đỏ rực, tức giận xông ra ngoài. Từ hôm đó, thái độ của đại vương đối với nàng hoàn toàn thay đổi. Có lẽ...
Mục Xá Nhân đang trầm tư thì Dương Hạo quay mặt lại nhìn hắn, hỏi: "Mục Xá Nhân, đang nghĩ gì vậy?".
"À!". Mục Xá Nhân giật mình nói: "Thần... Đang nghĩ, người Hồi Hột luôn không phục giáo hóa, trong mắt không có vương pháp. Đại vương bây giờ cho bọn họ đất đai, để cho bọn họ an cư lạc nghiệp, đây cũng một biện pháp tốt. Có điều, nếu như bọn họ thực sự chuyển cả bộ lạc tới đây, vì bọn họ đã thành một thể nên quan phủ địa phương sẽ rất khó can thiệp vào, có lẽ... Phải phân tách ra mới dễ quản lý được".
Dương Hạo cười nói: "Đây là điều đương nhiên, đợi khi bộ lạc Cam Châu đến, ta sẽ chuyển rời toàn bộ bộ lạc của họ ra, phân cách tới ngũ châu Định, Hoài, Tĩnh, Thuận, Hưng, ngũ châu sẽ tiếp tục phân tách bọn họ, lần lượt bố trí vào các phủ trong châu, phủ huyện lại phân tách tiếp, dựa theo hộ mà phân vào các thôn, như vậy có thể loại bỏ được sự khống chế vốn có của thủ lĩnh đối với các tộc nhân, để cho bọn họ hoàn toàn nằm trong tay triều đình.
Ha ha ha, điểm này ta sớm đã nghĩ đến rồi, khi ta vẫn còn làm quan ở Tống, dẫn năm vạn bách tính Hán Quốc đồng hành về Tống, nhận được ý chỉ cũng là như vậy, đây quả thật là một cách bố trí di dân ngoại lai rất tốt".
Nói đến đây, hắn liền cảm khái nói: "Đáng tiếc, người Khiết Đan quá hấp tấp, chặn trước mặt ta, vì bất đắc dĩ ta phải đổi hướng Tây Bắc, cũng vì như vậy mà ta mới có ngày hôm nay".
Mục Xá Nhân cười bồi nói: "Vậy sao có thể nói là đáng tiếc chứ, nên là may mắn mới đúng, may người Khiết Đan nhúng tay vào nên Hà Tây ta mới có được một vị anh chủ, thống trị vùng đất mười tám châu".
Dương Hạo ngẩng mặt lên trời cười lớn nói: "Ha ha ha, đúng vậy, đối với ta mà nói đích thực là may mắn, lúc đó ta bất luận như thế nào cũng không nghĩ rằng có ngày hôm nay. Bây giờ ta đã có mười tám châu, đồng ruộng đất đai màu mỡ, khoáng sản dồi dào, rừng vàng biển bạc... Những gì cần có đều đã có, lúc đầu quả là có nằm mơ cũng không nghĩ tới".