Tôi gọi cho G và cho cậu biết chuyện đã xảy ra, cậu bảo sẽ đến gặp tôi. Chúng tôi ngồi trên ghế băng gần ga tàu điện ngầm Lăng Công Chúa. Trời như sắp mưa, không khí trở lên mát mẻ và G bảo mình đang bị cảm lạnh. Tôi bảo tôi không về nhà với La Hy là vì tôi với cậu ta đã có ràng buộc. Sự thực thì tôi bắt đầu thấy tiếc vì cam kết với G. Tôi không muốn bị ràng buộc. G không hiểu cái lô gích của tôi, cho rằng tôi không biết đến tình yêu thực sự. Nhưng với tôi, tự do là điều quan trọng, chẳng thế nào khước từ và bỏ qua. Con người sinh ra đã tự do. Tôi không biết đã ai đã đặt cái tư tưởng đó vào đầu tôi, nhưng nó hợp với tôi dù chẳng biết diễn đạt thành lời. Tôi chỉ có thể diễn tả thế nào là một sự kìm nén.
“Hồi còn nhỏ, ấn tượng của tôi về bầu trời trắng nhợt là những gì tôi còn nhớ được. Tôi muốn nói lúc tôi gần bốn tuổi, bấy giờ còn rất nhỏ, còn chưa đến trường. Buổi chiều, bố mẹ đi ngủ một giấc và mặc cho tôi chơi một mình ở phòng bên. Tôi ghét những buổi chiều như thế, ngột ngạt như trong địa ngục, xung quanh là tĩnh lặng, chỉ còn tiếng gù của chim câu, căn phòng ẩm ướt tối tăm gợi cảm giác lạnh lẽo, tuyệt vọng, và đơn điệu. Vào lúc đó tôi còn chưa biết gì về cái chết, tất cả những gì tôi cảm thấy là sự ngột ngạt.”
Mọi người cùng lao về một hướng, giống như thủy triều, họ chạy cho kịp chuyến tàu điện cuối cùng. G, bằng cái giọng để lộ vẻ xúc động, bảo tôi, “Lúc bấy giờ thì, một bát mì ăn liền là ngon nhất, cộng với chai nước ngọt giá năm mươi xu.”
Sự nhẹ nhàng của tuổi thơ cậu khiến tôi cảm động. Tôi vòng tay ôm lấy G. “Mình sẽ không làm gì ngốc nghếch với ai nữa.”
Cậu ra về, hài lòng.