Nhà tạm giam là ngôi nhà tù duy nhất tại Longbury, và chỉ cần xuyên cách một công trường lát đá ngay bên cạnh phố High. Những tên tội phạm trọng hình đều bị chuyển tới thành Brighton, nơi có một ngục tù với thiết bị thích hợp để giam giữ họ và có những anh lính gác tù để trấn áp chúng nếu cần thiết. Những phạm nhân bị nhốt trong nhà tạm giam hiếm khi nào bị nhốt lâu hơn một đêm. Hành vi phạm tội của họ chỉ là những điều vặt vãnh, và những người canh gác bọn họ lại chẳng hơn gì những anh gác gian.
Đều như nhau, một đêm bị nhốt trong tù không phải là một kinh nghiệm mà có ai đó muốn phải đối mặt lại, như Brand có thể nhớ rất rõ ràng.
Jennings, ông lính gác chào Brand, thật quá quen thuộc với Brand. Ông ấy cũng khá đứng tuổi rồi, đỉnh đầu cũng đã nhẳn thín, nhưng ông vẫn sở hữu vóc dáng của một lực sĩ đô vật, một loại thiên phú luôn khiến những tên phạm tội cứng đầu cứng cổ lánh né không muốn đọ sức với ông.
Jennings nói: “Ơ, Ông Hamilton, thưa cậu, thời buổi đã thay đổi, phải không nào, giờ thì cậu đến để bảo lãnh cho ngài công tước chứ không phải ngược lại?”
Brand không lãng phí thời gian với những mẩu chuyện xa xưa. “Đúng thế, Jennings. Tiểu thư Emily đâu?”
“Ồ, không phải trong phòng giam, thưa cậu, nhất là một tiểu thư gia giáo như thế. Cô nàng đang ở cùng với bà nhà tôi trong nhà của chúng tôi. Tôi không thể để cho cô ấy rời đi, cậu thấy không, bởi vì cô ấy đã chống lại cảnh sát khi bị bắt giữ, và Cảnh sát viên Hinchley muốn tôi dạy cho cô bé một bài học. Không bị tố tụng gì cả, thưa cậu, nhưng cô nàng nên biết tốt hơn là can thiệp chuyện của một cảnh sát viên khi người ấy chỉ thi hành nhiệm vụ của mình.”
Trời thần ạ! Chuyện này còn tồi tệ hơn là chàng tưởng. “Kể cho tôi biết những gì đã xảy ra.”
“Một cuộc đua cỗ xe hai bánh là cội nguồn của vụ rắc rối”, Jennings nói: “ngay tại giữa phố High.” Ông quơ tay một cách mơ hồ. “Cậu có thể tin được không? Những người dân hiền lành đều cảm thấy tánh mạng bị đe dọa. Bọn họ nhờ Cảnh sát viên Hinchley truy theo những thanh nhiên bất trị mà đã gây ra vấn đề rắc rối ấy. Ông ta đuổi kịp theo bọn họ ngay bên ngoài quán Rose và Crown, Andrew của cậu và con trai của Ngài Giles Malvern và một đám bạn bè xôi thịt của họ. Chuyện khởi đầu là một cuộc chúc mừng được kết thúc bằng một hồi ẩu đả. Andrew của cậu đã đánh cậu bé Malvern đến xịt khói, và khi Cảnh sát viên Hinchley cố bắt giữ cậu ấy, Tiểu thư Emily đã đứng giữa ngăn cản.”
“Cô ấy có phải được thả tự do không?”
Jennings nhìn sửng sốt. “Đương nhiên là vậy, một vị tiểu thư gia giáo như thế! Bà nhà của tôi rất là thích cô bé. Nhưng cô ta nên được dạy một bài học đích đáng, cậu hiểu không?”
Brand hiểu, và chàng bày tỏ lòng biết ơn của mình với Jennings bằng những lời bôi mở trơn tru hơn là thường lệ. Chuyện luôn tốt đẹp hơn khi mình đứng cùng phe với luật pháp, hoặc ít nhất là tạo ra vẻ như thế. Đây là một trong những quy tắc chính yếu chàng học hiểu với thân phận một nhà báo.
“Rồi, hãy kể tôi nghe về Andrew,” chàng nói.
Jennings gãi gãi cằm. “Trường hợp của cậu ấy thì lại khác,” ông nói. “Ngài Giles và cậu Malvern đang có mặt trong văn phòng của tôi, và Ngài Giles muốn kiện tụng Andrew. Ông ta đang đợi để gặp mặt cậu.”
“Thương thế cậu bé trầm trọng ra sao?”
“Cậu ta gào như một con mèo mắc mưa, nhưng tôi không hề thấy vết tích gì cả. Tôi nghĩ cậu ấy đang cố khiến cho sự kiện tồi tệ hơn cho cậu Andrew.”
Brand suy nghĩ một lúc. “Ông đã cho người mời bác sĩ chưa?”
“Chưa. Cha cậu ấy nói rằng ông ta sẽ lo liệu thương tích của cậu ấy sau khi họ về nhà.”
“Nếu ông ấy muốn kiện tụng, tôi sẽ muốn vị bác sĩ tư nhân của tôi kiểm tra cho cậu bé.” Brand nhá một nụ cười sắc bén. “Cho gọi Bác sĩ Hardcastle. Và báo danh của tôi với ông ấy. Vậy thì ông ấy sẽ xuất hành ngay.”
“Có một bác sĩ ở ngay đây trên phố High, chỉ cách đây một vài cánh cửa.”
“Nhất định phải là bác sĩ Hardcastle”, Brand nói. “Nếu tôi phải chi, tôi muốn sự hiện diện của bác sĩ riêng của mình. Ồ, và ông chắc chắn phải báo cho Ngài Giles biết.”
Jennings gật đầu. “Vậy còn Tiểu thư Emily?”
“Manley sẽ đưa cô ấy trở về. Cỗ xe của chúng tôi ở ngay bên ngoài. Ông nghĩ rằng mình có thể mau chóng mang cô bé rời khỏi đây mà thần không biết quỷ không hay chăng?”
“Cứ để đấy cho tôi.”
“Làm rất tốt. Giờ thì tôi sẽ gặp mặt Andrew.”
Các hạ nhân đang dập tắt những ngọn nến trong Đại Sảnh Đường khi Marion leo lên cầu thang hướng về phòng ngủ của mình. Tâm trí của nàng rối tung với toàn là phỏng đoán, nhưng nàng đã không quá lo lắng. Anh người hầu trao cho nàng ngọn nến soi đường đã thì thầm rằng chuyện ác quái của Andrew không có gì nghiêm trọng hơn là một cuộc đua cỗ xe hai bánh và rằng Tiểu thư Emily đang bầu bạn chung với Ginny Matthews và các bạn của cô ta. Ông cảnh sát viên chỉ là hù dọa bọn họ một chút, nhưng không gì hơn.
Trước khi vào phòng mình, nàng lách người vào buồng Flora để kiểm xoát hai cô bé. Căn phòng chìm trong bóng tối, vì vậy nàng phải giơ cao ngọn nến khi bước đến gần chiếc giường nóc to ấy [].
[] tester bed: loại giường có bốn trụ ở bốn góc và có nóc.
images
Tóc cô em gái nàng đã được cuộn lại trong giấy để cho nó có một ít nét cong, đây là một trò mới cô bé đã bắt đầu từ tuần trước trong nỗ lực để bắt chước những lọn tóc to phùng của Flora. Ngược lại thì Flora rất hâm mộ làn da không bị chút tàn nhang nào của Phoebe nên cũng đã thoa một ít nước chanh lên mặt mình hằng đêm trước khi đi ngủ để làm phai dần những dấu đốm kinh khủng kia. Marion có thể ngửi thấy hương nước chanh.
Tất cả điều này Marion đã được nghe từ cô gái hầu nho nhỏ mà đã trở thành thân tín của hai cô bé kiêm vai tòng phạm. Hằng đêm Mattie đã phải để những miếng giấy vào trong tóc Phoebe và tìm ra nước chanh để thoa lên làn da cho Flora.
Marion thở dài, thắc mắc, và cũng không phải lần đầu tiên, đến hai cô bé sẽ ứng xử ra sao khi đến lúc phải chia tay. Theo ý của nàng thì phương pháp dưỡng dục Flora bị phân phối
giữa hai người dì của cô bé thật là độc ác và ích kỷ. Chuyện ấy đã không mang đến Flora sự ổn định cần thiết. Theodora để cháu gái của mình dưới sự chăm sóc của những hạ nhân và người lạ. Cô bé ấy xứng đáng có những điều tốt hơn.
Nàng biết nàng nên tội nghiệp cho Theodora bởi bà là một người vợ bị lãng quên, nhưng nàng chưa bao giờ cảm thấy thân thiết với người phụ nữ ấy. Bà ta rất lạnh lùng và tự kiêu, và không có một chút dấu vết của một hiền mẫu, ngoại trừ khi nói đến đám ngựa của bà.
Còn về Ngài Robert, ông ta thật xa cách, nhưng không lạnh lùng. Mệt mõi, bại trận-điều gì lại khiến nàng cảm thấy khó chịu một cách lạ lùng thế? Có những làn sóng ngầm đâu đây mà ngay cả nàng cũng không hiểu nổi.
Gió từ cánh cửa sổ hé mở khiến một số giấy trên chiếc bàn con bị thổi bay lất phất, phân tán chúng lung tung trên sàn. Marion tiến đến để thu xếp chúng lại. Khi nàng nhìn thấy chiếc hộp nằm trên bàn, nàng đoán đấy nhất định là bảo vật của hai cô bé. Những bảo vật kỳ lạ, nàng vừa nghĩ vừa lật lại trang giấy trong tay mình. Trái tim nàng lỡ một nhịp khi nhìn thấy một số tờ giấy chính là những bức thư gửi cho dì Hannah, và chúng được viết bởi Ngài Robert.
Khi xem xét chúng kỹ lại thì càng nàng càng lờ mờ khó hiểu. Không có gì có vẻ như là của một đôi uyên ương. Một hóa đơn bán hàng, một bức thư cảm ơn, một công thức giúp chăm sóc cho một chú ngựa bị đau bụng, và những bức thư vô hại gửi đến những người khác trong một giọng điệu không chút gì khách sáo.
Giờ Marion chuyển sự chú ý của mình tới chiếc hộp. Đấy là một chiếc hộp được làm bằng tay điển hình mà có thể thấy được trong mọi hộ gia đình, đồ vật khảm và chiếc nắp thật khít. Trong phòng khách của nàng tại ngôi nhà làng, nàng cũng có một chiếc hộp tương tự mà nàng dùng để chứa các vật thêu thùa may vá.
Mặc dù ánh sáng thật èo uột, nhưng nàng vẫn nhìn ra được những chữ hoa được khắc trên nắp gỗ. H. G. Nó rất có nhiều nhiều khả năng là chiếc hộp của dì Hannah. Có một vài bức thư được gửi đến cho dì ấy, mặc dù không phải là mọi bức đều thế. Nàng mở nắp hộp và lục xoát những thứ bên trong. Món đồ duy nhất có sức hút là một chiếc khăn tay với tên viết tắt của Ngài Robert.
Nàng bắt đầu suy đoán, nhưng không có một giả định nào khiến nàng hài lòng. Thứ nàng muốn có được là những bức thư tình, một cái gì đó mà có thể cho thấy dì Hannah đã có kế hoạch trốn đi với tình yêu vĩ đại cả đời dì. Có khi nào có ai đó đã lấy đi những bức thư ấm áp hơn?
Nàng liếc sang chiếc giường. Phoebe và Flora sẽ phải giải thích không ít, nhưng không phải là bây giờ. Sáng mai, nàng sẽ hỏi cho ra lẽ làm sao mà hai cô bé lại có được chiếc hộp này, và còn có những gì trong đấy khi họ tìm thấy nó.
Kẹp gọn chiếc hộp dưới nách, nàng rón rén bước ra cửa và rời đi. Sẽ có một sự kinh ngạc vào buổi sáng khi họ phát hiện chiếc hộp báu vật của mình đã biến mất. Tốt. Những cô bé này đã trở nên quá độc lập để nàng cảm thấy ổn. Một chút kỷ luật sẽ không có hại gì.
Nàng đặt chiếc hộp trên đầu bàn trang điểm của mình, sau đó chuẩn bị đi ngủ. Không phải là nàng có ý định đi ngủ trước khi được nói chuyện với Brand cũng như hy vọng được nói với Emily luôn thể. Đang cố dằn xuống lòng thiếu kiên nhẫn của mình cho đến khi họ trở về, nàng ngồi xuống cùng chiếc hộp báu vật ấy, nhưng lần này, nàng cố tìm xem có ngăn ẩn nào không. Thật khiến nàng ê chề, bởi không có ngăn ẩn nào cả.
Bồn chồn cả người, nàng trả chiếc hộp trở lại trên mặt bàn trang điểm và bắt đầu đi tới đi lui trong phòng. Khi nàng nghe tiếng bánh xe lăn trên con đường bên ngoài, nàng mở hé cửa mình một chút và chờ đợi. Cuối cùng Emily cũng đã xuất hiện trong hành lang, tiến vào phòng riêng của cô ấy, và đóng cửa lại.
Marion nắm lấy cây nến từ bệ lò sưởi rồi theo gót Emily.
Emily quay người lại ngay tại cửa vào phòng mình và trao cho chị mình một nụ cười thật rộng. “Em tưởng chị đã ngủ,” cô nàng nói: “và em không muốn đánh thức chị. Hãy đặt ngọn nến xuống rồi em sẽ kể cho chị nghe tất cả mọi chuyện.”
Thái độ vui vẻ đầy tự tin này không phải là điều mà Marion dự tính, và nàng không biết cảm giác của mình là nhẹ nhõm hay bực bội. Dường như Flora và Phoebe không phải là những người duy nhất cần có một chút kỷ luật.
Nàng đặt ngọn nến xuống và ngồi lên giường cạnh Emily. “Thế nào?” Nàng nhắc.
“Đêm nay,” Emily tuyên bố như thể nàng đang thủ một vai trên sân khấu: “Andrew xử sự như một quý ông điển hình, chị ạ. Cậu ấy là một người hùng, chị Marion ơi, ô, không phải trong phong cách Hy Lạp, nhưng trong một phong cách mà người Anh chúng ta có thể ngưỡng mộ, chị biết đấy, khiêm tốn, cao thượng, và một người đàn ông biết hành động nếu cần thiết. Phải chi cậu ta được lớn hơn một vài tuổi,” cô nàng tiếp tục một cách vui vẻ: “em có thể đã bị cám dỗ để đặt để cuộc đời mình trong tay cậu ta.”
Sự báo động đang tăng trưởng trong lòng Marion dịu lại một chút. “Em không phải đang yêu cậu ta hay sao?”
Emily cau mày. “Đừng ngớ ngẩn chứ. Cậu ta chỉ là một cậu bé. Em là một người phụ nữ hoàn toàn trưởng thành.”
Marion thận trọng kiềm chế để khỏi đề cập đến cuộc trò chuyện giữa nàng với Bà Cutter. “Emily,” nàng kiên nhẫn nói: “đừng bắt cứ chị phải hồi hộp chứ. Kể cho chị biết chuyện gì đã xảy ra đêm nay.”
“Chị có thể đổ lỗi cho cái tên không thể chịu nổi, Victor Malvern kia,” Emily bắt đầu sôi sụt, sau đó lại mỉm cười. “Mặc dù, sau khi xem xét lại tất cả, có lẽ chúng ta nên cảm ơn hắn. Xét cho chùng, hắn đúng là kẻ tồi tệ nhất trong vụ này.”
“Emily!” Marion thiếu kiên nhẫn kêu lên. Emily gật đầu. “Có một cuộc đua xe [cỗ xe hai bánh được kéo bởi hai ngựa]”, nàng bắt đầu kể.
Khi Brand bước vào phòng giam Andrew, cậu bé ngồi lên từ chiếc ghế bố dành cho tù nhân và chăm chú nhìn Brand với ánh mắt nửa cảnh giác nửa phản loạn. “Bọn họ đã làm gì với Emily?” Cậu ta hỏi. Brand lấy làm vui khi thấy cậu bé biết sắp xếp chuyện gì quan trọng, chuyện gì không một cách đúng đắn. “Phu nhân của Jenning đã chăm sóc cô ấy, và Manley hiện đang đưa cô ấy về nhà. Không có bị kiệng tụng gì, nên cô ấy được tự do ra về.”
Sự nhẹ nhõm bừng lên trong mắt Andrew rồi nhanh chóng phai mờ. Khi Brand cẩn thận hạ mình ngồi xuống chiếc ghế bố, Andrew nhích sang một bên cho chàng được rộng chỗ. Họ ngồi vai kề vai.
Andrew u ám nói: “Đây là lúc anh giảng đạo cho em nghe về những tội lỗi của cha tôi?”
“Cha của chúng ta,” Brand chỉnh.
“Có phải em đã say rượu không?”
Andrew thẳng lưng. “Em chỉ vừa hớp một ngụm bia trước khi cuộc ẩu đả bắt đầu!”
Trong cùng một giọng điệu nhẹ nhàng, Brand tiếp tục truy vấn: “Em có đụng chạm gì với những cô bé ngây thơ nào không?”
Andrew trừng mắt. “Chuyện đó thật là đê hèn!”
“Em có thua một vố lớn tại sòng bạc nào chăng?”
“Em không có gia tài lớn nào để mất!”
“Chuyện đó chưa từng khiến cha chúng ta dừng tay. Không phải là anh nghĩ rằng em nên được thoát khỏi vụ này suôn sẻ. Anh muốn nghe hết mọi chuyện xảy ra trước khi anh quyết định về chuyện ấy. Điều anh muốn nói là, em không có chút gì giống cha của chúng ta.”
Andrew nói: “Anh nên nói với em rằng ông là một bợm rượu trước khi em được biết chuyện ấy từ đám con trai trong trường.”
Brand gật đầu. “Anh hiểu rồi. Thẳng thắn mà nói, anh thật sự hy vọng rằng em sẽ chẳng bao giờ biết được chuyệ ấy. Con người thường có trí nhớ thật lâu dài.”
Đôi vai của Andrew chùng xuống. “Em xin lỗi bởi em đã khiến anh thấy thất vọng.”
Quan sát chuyện ấy khiến Brand giật mình. “Em có thật đã khiến anh thấy thất vọng không?”
“Em đang bị nhốt ở đây, phải không nào?”
Brand chìm đắm vào một vài khoảnh khắc của hồi ức rồi đột nhiên đứng dậy. “Hãy đến đây, Andrew,” chàng nói: “và nói cho anh hay em nhìn thấy được gì.”
Chàng bước ra phía sau của căn phòng giam nơi mà ánh sáng từ các ngọn đèn treo tường chỉ yếu ớt chiếu sáng.
Andrew làm theo phận sự và nhìn chòng chọc vào vách tường gạch ấy. “Có mấy chữ hoa được khắc vào gạch.”
“Em thấy được gì?”
“H, và tôi nghĩ rằng đó là chữ C.”
“Ah, phải, đó là Harry Cornell, một người thường xuyên gây xự. Anh ta hiện đang ở trong hải quân, và rất là khá nữa là. Thử nhìn cao hơn một chút đi.”
Andrew có vẻ khó hiểu, nhưng cũng làm theo. Cậu ta tự lẩm bẩm một vài ký tự cho mình rồi ngừng lại. “Em thấy chữ B, chữ F, và chữ H.”
“Tên viết tắt của anh,” Brand nói.
“Em biết.” Andrew quay lại và nhìn vào Brand một cách dò đoán. “Chữ F là viết tắt của FitzAlan. Đó là tên thật của anh, phải không nào? Brand FitzAlan?
“Em biết quá nhiều rồi”, Brand nói, nhưng chàng vẫn mỉm cười.
Andrew cười. “Bà bà nói với em rằng anh nhất trí đòi thêm vào họ của ông ngoại anh để chọc tức cha.”
Nụ cười của Brand tắt dần. “Không. Là ông ngoại của anh đã làm điều ấy. Nhưng đấy không phải là lý do tại sao anh muốn em xem những tên viết tắt này. Em không phải là người gia tộc FitzAlan duy nhất đã phải qua thời gian trong ngôi nhà giam này. Anh sẽ nói vì cha mình mà nói sự thật này ra. Cha luôn luôn đến lãnh anh ra ngoài.”
Andrew tươi cười nhìn các chữ hoa trên tường, nhưng sự hài lòng của cậu ấy thật là ngắn ngủi. Khi cậu ấy nhìn Brand, ánh mắt thật lo lắng. “Ngài Giles nói rằng ngài ấy sẽ nhất định tố tụng em.”
“Xem ra chuyện đó sẽ phải tùy vào những gì đã xảy ra đêm nay. Sao em không kể anh nghe tất cả mọi việc trước khi anh giáp mặt với Ngài Giles.”
Sự việc khởi đầu một cách khá lành mạnh. Cậu trẻ Malvern thách thức Andrew với một cuộc đua cỗ xe hai bánh [kéo bởi hai ngựa]. Andrew thừa biết Malvern là một kẻ lừa đảo và luôn bắt nạt kẻ yếu nên cậu từ chối. Những lời khiêu khích, chế nhạo được trao đổi và Andrew cuối cùng cũng đồng ý.
“Không làm như thế đúng là tự nhận một cách ê chề rằng em chẳng là địch thủ của hắn,” cậu ta nói thêm một cách kể lể: “Em thật không muốn mất mặt trước bạn bè của Emily.”
Bạn bẹ của Emily, Brand lưu ý, không phải là bạn bè của em, và chàng cảm thấy nhói một cái trong lương tâm mình. Andrew có bạn bè của riêng mình chăng? Chàng hoàn toàn không biết. Chàng đã quá bận rộn với công việc của mình để trích thời gian ra với cậu bé, dù chỉ là một chút.
“Tiếp tục kể đi,” chàng từ tốn nói.
Andrew nhún vai. “Em thắng cuộc, và chúng em đều đi đến quán Rose và Crown để ăn mừng. Đương nhiên là các thiếu nữ đều ở lại bên trong những cỗ xe kín và uống rượu thuốc thôi, trong khi bồi bàn mang ra những ly cối bia cho những đám nam nhân. Đấy là lúc Malvern và bạn bè của hắn xuất hiện. Hắn thách thức em một lần nữa, nói rằng đấy chẳng phải là một cuộc đua công bằng, nhưng em nói với hắn chúng em phải trở về lại Nhà dòng Priori để tham dự đoạn kết của quả buổi dạ vũ.”
Cậu ta dừng lại, ánh mắt không chắc chắn nhìn Brand, sau đó dời ánh mắt của cậu ta đi. “Malvern đã thốt lời mà không một quý ông nào có thể chịu đựng được, và em cho hắn ăn quả đấm vào mặt.”
Brand cau mày. “Hắn đã ấy xúc phạm Emily?”
“Không.”
“Ah. Vậy thì lời xúc phạm được chỉa vào anh?”
Andrew không đáp. Cậu ta trút một hơi thở thật dài. “Rồi mọi người bắt đầu xô đẩy và trước khi em biết chuyện gì đã xảy ra, thì một cuộc ẩu đả đã nổ ra.”
“Và đó là khi cảnh sát việt xuất hiện?”
Andrew gật đầu. “Cảnh sát viên Hinchley ra lệnh cho tất cả mọi người trở về nhà ngoại trừ em và Malvern. Malvern thề rằng em đã tấn công hắn ta một cách vô cớ. Và em không muốn lặp lại lời xúc phạm Malvern đã nói, vì vậy em không có lời biện hộ.”
Thời gian trôi qua trong im lặng trong khi Brand suy tính lại việc này. Chàng không thể nghĩ ra bất cứ điều gì chàng đã làm để xứng đáng với lòng trung thành của em trai mình như thế.
“Kể cho anh nghe về Emily,” chàng khàn giọng nói.
Andrew cười toe toét. “Cô ấy đã nhảy xuống từ cỗ xe và bắt đầu tranh luận với ông cảnh sát viên, vì thế mà ông ta bắt cô ta về bót. Em thật không hề biết cô ấy lại có nóng tính như thế. Không gì có thể khiến cô ta ngậm miệng lại,, thậm chí là lời đe dọa sẽ bị bắt giữ.”
Khuôn mặt xuất hiện trong tâm trí của Brand không phải là của Emily mà là Marion.
Dòng suy tư của chàng bị gián đoạn bởi những lời to tiếng bên ngoài cánh cửa. Chàng tưởng mình nghe được giọng của bác sĩ Hardcastle. Cánh cửa vào phòng giam không bị khóa, vì thế chàng xuyên qua cánh cửa và tiến tới để xem xét. Sau một thoáng do dự, Andrew cũng theo chân Brand.
Hai anh em họ tìm thấy đám người của Ngài Giles, Malvern và Bác sĩ Hardcastle trong văn phòng. Bọn họ đang kình nhau thật ác liệt. Chàng Malvern trẻ tuổi đang ngồi trên băng ghế dài với một nụ cười quái ác trên khuôn mặt. Jennings thì đứng một bên khoanh tay trước ngực mình, niềm nở cười với cảnh tượng của hai thành viên có địa vị trong giới thượng lưu chuẩn bị ẩu đả nhau.
Khuôn mặt Ngài Giles giận tím. “Tôi nói rằng con trai của tôi đã bị đánh đập một cách ác độc, và nếu ông không viết nó trong bài báo cáo, tôi muốn có người kiểm chứng thứ hai.”
Hardcastle hất cằm mình một cách nguy hiểm. “Và tôi nói rằng cậu con trai của ông là một kẻ vờ vịt [giả ốm]. Tôi từng gặp cả tá người như thế trong thời chinh chiến, vì vậy tôi nhận ra ngay khi tôi gặp phải loại người như thế. Một vài vết trầy xước và bầm tím?”
Ông ta ghim chặt ánh mắt sắt bén của mình vào cậu trẻ Malvern. “Cậu nên tự cảm thấy xấu hổ với bản thân mình, bé trai ạ, đã chuyện bé xé cho to. Tôi biết cậu muốn đầu quân và lấy quân đội làm sự nghiệp của mình. Tôi muốn khuyên cậu nên suy nghĩ lại. Không có chỗ cho những kẻ hèn nhát trong quân đội đâu.”
Ngài Giles rít qua kẽ răng của mình. Ông ta quay người, thấy Brand, nở một nụ cười khinh bỉ, và chỉ một ngón tay run rẩy vào Brand. “Chính cậu đã suôi cho Hardcastle làm việc này! Được, cậu sẽ lãnh đủ những gì cậu đáng được trong lần tuyển cử này. Đừng nghĩ rằng hôn nhân với cô con gái của một vị bá tước sẽ nâng cao địa vị của cậu. Cậu sẽ mài mãi là một đứa con hoang.”
Hardcastle nói: “Bây giờ chúng tôi biết cậu bé có được cái thái độ ấy từ đâu.”
Brand trông có vẻ buồn chán. Andrew thì cau có. Còn Jennings thì gồng cánh cuồn cuộn với cơ bắp của mình và bước tới gần Ngài Giles một cách đe dọa. Jennings nói: “Thêm một lời như thế thì tôi sẽ tóm cổ ông với tội gây loạn.”
Ngài Giles cân nhắc nhìn đôi vai u bắp của Jennings rồi dẹt đôi môi nói: “Thôi nào, Victor. Chúng tôi sẽ được báo thù trong ngày bầu cử.”
Sự im lặng được kéo dài sau khi hai cha con Ngài Giles xông ra khỏi cửa, rồi bác sĩ Hardcastle mới chuyển ánh mắt săm soi sáng rực của mình đến Andrew. Bàn tay ông nắm lại thành nắm đấm và đấm vài cú nhanh như một võ sĩ chuyên nghiệp. “Cậu có đấm vào cú vào chỗ hiểm trên bụng như tôi đã chỉ cho cậu không?”
Andrew đỏ mặt và ném một ánh mắt của một kẻ phạm tội về hướng Brand, sau đó nhanh chóng chuyển mắt nhìn về ngược một cái nhìn tội ở Brand, sau đó nhanh chóng chuyển ánh mắt về hướng ông bác sĩ. “Yes, sir, y như là ông đã dạy cho cháu.”
“Và hắn xìu xuống như một ống thổi hụt hơi?”
Andrew cười toe toét. “Hắn đã phải ngáp ngáp hơn cả phút, như một con cá mắc cạn.”
Brand rất đôi kinh ngạc. Chàng nói với ông bác sĩ: “Ông vẫn luôn dạy em trai tôi đánh quyền à?”
“Chẳng sai, tôi đã làm thế, và cậu ấy là một thiên tài, cậu cũng nên biết. Tôi là một người theo dõi háo hức của môn thể thao nào. Không bao giờ bỏ lỡ một cuộc đấu nếu có thể.”
Brand nhìn Andrew. “Chuyển này xảy ra bao lâu nay rồi?”
Andrew di chuyển một cách bất an. “Kể từ đêm bác sĩ Hardcastle lấy viên đạn ra khỏi vết thương của anh. Sau chuyện ấy, ông ấy và em đã nói chuyện, rồi một chuyện dẫn đến một chuyện khác.”
Ông bác sĩ nói:” Đấy là một vết cắt kinh khủng cậu bị trên mặt, Andrew. Hãy để tôi xem cái nào.”
Sau khi rời nhà giam, họ cuộc bộ một đoạn đường ngắn đến quán Rose và Crown. Sự thiệt hại thật không là bao - chỉ là chi phí để sửa một cửa sổ bị vỡ và thay một vài chiếc ghế gỗ và băng ghế được để bên ngoài cho các khách hàng có thêm tiện nghi vào những tháng hè oi bức. Cỗ xe và những chú ngựa của Andrew vẫn còn ở đấy, được xếp đặt an toàn bên trong chuồng ngựa của quán, và Brand cũng phải trả lệ phí do dịch vụ ấy. Chắc chắn phải tin rằng một thành viên của gia tộc FitzAlan sẽ quan tâm đến những chú ngựa của mình trước! Brand suy tư một cách buồn bã.
Bởi Andrew đang lái xe, Brand đành phải ngồi ở vị trí phía sau và đã nhanh chóng chìm vào dòng suy tư tĩnh lặng. Chàng suy nghĩ thay thay vì đặt mình lên cương vị của một người thầy của Andrew, chàng nên thủ vai trò của một người bạn hơn, của một người anh hơn, nhất là khi hai anh em chỉ gặp nhau vào những dịp lễ lạc. Chàng không muốn em trai của mình giống như cha họ, vì thế chàng luôn khiến cậu bé bận rộn, trước là với chuyện học hay, sau là kinh doanh của gia đình. Nếu bảo rằng chàng đã bỏ bê Andrew thì cũng không đúng sự thật, chỉ là sự tập trung của chàng đã bị quá hẹp. Chàng phải nên là người đã dạy Andrew cách đánh quyền.
Brand nghĩ cho dù chàng có phần không thỏa đáng, nhưng Andrew vẫn được tốt đẹp. Chàng rất tự hào với cách cậu bé đã xử lý cá nhân của mình đêm nay. Không cần phải kể cho chàng nghe những lời khó nghe mà Malvern phun ra. Chàng đã quá quen thuộc với nó cả cuộc đời chàng. Những gì chàng không cảm thấy quen thuộc chính là cậu em của mình.
“Andrew,” chàng khởi đầu cuộc nói chuyện, và hắng giọng. “Anh hy vọng em sẽ đứng bên cạnh anh trong ngày cưới của anh, em biết đấy, làm rể phụ[] của anh.”
[] phong tục tây phương thì có nhiều rể phụ, nhưng groomsman là người rể phụ chính, còn những rể phụ kia thì lại là phụ, như là người thân cận nhất của chú rể, bên cô dâu cũng thế.
Có một âm thanh như tiếng hít hơi rít lên thật mạnh, sau đó Andrew nói: “Vậy còn anh Ash Denison thì sao? Bộ anh ấy không muốn đứng bên cạnh anh trong buổi lễ à?”
“Không. Ash sẽ bị phát ban nếu cậu ta đến quá gần bục thờ của giáo đường. Cậu ta không thể ngừng khóc lóc ĩ ôi. Cậu ấy sẽ làm gián đoạn buổi lễ.”
Andrew bật cười.
“Bên cạnh đó,” Brand tiếp tục nói: “em là em trai của anh. Điều đó rất có ý nghĩa với anh.”
Lần này, Andrew là người phải hắng giọng. “Em sẽ rất lấy làm vinh dự.”
Brand mỉm cười. “Quyết định như vậy đi.”
“Phải không? Ý em là mọi thứ đã được ổn thỏa? Em vẫn luôn cảm thấy thắc mắc, sau khi những gì Emily đã nói với em tối nay, nhưng bất cứ ai đi nữa cũng có thể thấy rằng anh và Marion thuộc về nhau.”
Đang ngáp, Brand khựng cả người, rồi đóng quai hàm lại. “Emily đã nói với em điều gì?”
Andrew bật cười. “Rằng một trong hai hoặc cả hai anh chị đều sợ hãi trước ngưỡng cửa hôn nhân và nếu anh chị không tự chủ được bản thân, có thể là sẽ không có cái đám cưới nào.”
“Thú vị thật,” Brand kéo chuyện. “Hãy kể cho anh nghe thêm đi.”