Hôm nay chúng tôi sẽ được chèo ghe vượt thác nhân lễ hội nước. Tôi đã chờ rất lâu để đợi đến ngày hôm nay, mặc dù tôi hoàn toàn không biết bơi. Ngày còn nhỏ, mẹ tôi không thích cho tôi đi tắm biển bởi vì theo quan điểm phương Đoông, mạng tôi là mạng hỏa nên khắc thủy, xuống nước sẽ có tai nạn xảy ra.
Trời nắng trong xanh, mây lửng lờ, lửng lờ. Thời tiết rất hợp cho buổi đi vượt thác hôm nay. Sau khi mặc xong áo phao, và những thứ bảo hộ linh tinh, chúng tôi chia đội rồi leo lên thuyền. Mỗi chiếc thuyền sẽ có sức chứa bốn hoặc năm người. Thuyền màu xanh, trông giống như một cái bong bóng được bơm căng đầy hơi. Tôi, Ellen, John và James, người bếp trưởng khó tính mà tôi đã kể ở trên, thuộc một đội. Tôi là người duy nhất không biết bơi, nên mọi người trấn an rằng “Sẽ không sao đâu. Rất vui và không hề nguy hiểm. Nếu cô rớt xuống nước thì chúng tôi sẽ kéo cô lên.” Điều đó làm tôi thấy yên tâm. Chúng tôi thả thuyền trôi theo dòng nước. Những gợn sóng mạnh trắng xóa cứ đẩy thuyền đi một cách mạnh mẽ mà không cưỡng lại được. Chúng tôi phải cố gắng để thuyền không bị lạc hướng, và không va phải những mõm đá trên đường. Hai bên đường là những lùm cây xanh, xum xuê, mọc giữa những vách đá đứng sừng sững như những ông thần trấn giữ vùng nước. Nước chảy khá mạnh, gây lên một cảm giác vừa phấn khích vừa lo sợ. Chúng tôi hét lên phấn khích và có phần sợ hãi mỗi lần suýt bị va phải những hòn đá sừng sững trước mặt.
Lance ở trên thuyền cùng Nelson, Eric, anh chàng hầu phòng, Jess và Michael, anh chàng tiếp tân. Nói một chút về Eric và Michael, Eric, như các bạn đã biết là một anh hầu phòng. Anh ta thực ra đã tốt nghiệp đại học, nhưng trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế, anh ta không thể kiếm được việc làm. Chinh vì vậy, anh ta nộp đơn xin làm việc ở đây, chờ kinh tế phục hồi. Còn Michael, người đàn ông đến từ Texas, anh ta cỡ khoảng hai lăm tuổi, và nói một cách chính xác là anh ta không có gì đặc biệt.
Hầu hết chúng tôi đều không thích Lance. Thuyền tôi và thuyền của Lance cạnh tranh nhau xem thử ai sẽ đến đích trước. Cùng một lúc, cả bốn chúng tôi té nước vào thuyền Lance, và ở thuyền bên kia, Eric vô tình đẩy Lance xuống nước. Lance hậm hực trèo lại lên thuyền. Cả đám chúng tôi cùng cười ồ lên. Lance vẫn giữ gương mặt đỏ tía và tức tối. Anh ta lừa lúc Eric không để ý, đẩy Eric xuống nước. Eric chới với, nắm lấy thuyền chúng tôi, làm thuyền chồng chềnh. Tôi sơ ý bị lọt xuống nước trong lúc loay hoay cố giữ thuyền cân bằng. Nước sặc vào mũi tôi. Tôi trôi tuột theo dòng nước chảy. Tôi cảm giác tay mình chới với, muốn ngoi lên nhưng không được, cứ cố gắng đẩy người lên một cách vô vọng. Bỗng một bàn tay nắm lấy tôi vững chắc. Tôi chẳng còn biết đó là ai, cứ bám vào người đó, như người sắp chết đuối vớ phải một cái cọc. Người đó đưa tôi vào bờ. Là Nelson. Lại là Nelson. Nelson lúc nào cũng xuất hiện lúc tôi gặp nạn, khiến tôi không thể không nghĩ đến anh. Nước lạnh làm tôi run lên. Giữa trời tháng bảy nhưng nhiệt độ trên núi cao nên nước vẫn khá lạnh.
Khi vào tới bờ thì các thuyền cũng vừa cập vào bờ. Mọi người lộ vẻ hoảng hốt, lo lắng. Tôi không sao, chỉ là sợ hãi một chút. Tôi bỗng nhớ đến ngày bé đi biển, tôi lọt thõm xuống dưới cái phao. Lúc ấy, tôi cũng chới với như bây giờ, nhưng may mắn là bố đã kịp chụp lấy cánh tay tôi lôi lên. Từ đó tôi rất sợ nước. Đúng hơn là tôi sợ lọt xuống nước.
Nelson đem lại cho tôi một chiếc khăn màu vàng và bảo tôi lau mặt. Nước lạnh làm ướt sũng áo quần, và gương mặt, tóc tai tôi trông giống như một con bé lọ lem. Khi về đến nhà thì tôi thấy lạnh run người, cứ hắt xì liên tục. Tôi biết mình đã bị ốm, vội chạy ngay đến vali lấy thuốc, và nhận ra mình thật đoảng khi quên thuốc cảm. Tôi lấy một ít nước cam uống, rồi leo lên giường đắp thật nhiều lớp chăn mà vẫn cảm thấy lạnh. Và không biết từ lúc nào tôi mê man, không còn biết gì nữa. Chỉ thỉnh thoảng cảm giác thấy có một chiếc khăn ấm trên trán. Đôi lúc mơ màng cảm giác có một cánh tay ôm tôi thật chặt. Tôi không còn đủ tỉnh táo để nhận biết điều gì xảy ra. Tôi cảm thấy khô khan ở miệng và nói một cách vô thức “Nước”, rồi có một người nào đó đã đỡ tôi dậy, đổ vào miệng tôi những ngụm nước. Đó là tất cả những gì tôi có thể cảm giác được
Tôi ngủ mê mệt và li bì suốt đêm hôm ấy cho đến tận sáng hôm sau. Khi mở mắt ra, tôi cảm thấy người đã khỏe hơn nhiều so với hôm qua. Tôi ngồi dậy, mở cửa đón ánh nắng ban mai. Cửa vừa hé mở thì một chú sóc con nhảy vào, chạy nhảy tung tăng khắp nhà. Thường thì tôi không thích sóc cho lắm, bởi vì sóc rất hiếu động, sẽ gặm hết những bịch bánh hay bất kì thức ăn nào mà nó nhìn thấy trên bàn, nhưng giờ tôi thấy có chú sóc làm bạn cũng hay. Sóc nhảy lên bàn, qườ qườ một cái hộp. Chắc là hộp thức ăn của Jess. Tôi đi lại bàn, định bắt chú sóc thì thấy trên bàn có một tấm giấy chằn dưới hộp thức ăn ở trên bàn:
“Lúc nào cô dậy thì hãy ăn cho lại sức. Tôi cũng đã xin dùm cho cô nghỉ làm ngày hôm nay. Nelson. “
Tôi lấy bát súp bỏ vào lò vì ba hâm lại. Bát súp làm tôi nhớ đến bát cháo thịt bò nấu hành băm nhuyễn ngày xưa bà ngoại vẫn nấu cho tôi mỗi lần tôi bị cảm. Tôi tự nhiên thấy nhớ bà ghê gớm. Bà đã không còn có thể được nhìn thấy ngày tôi làm cô dâu xinh đẹp mặc váy trắng muốt trong lễ cưới, cũng không còn được thấy chắt của bà được sinh ra bụ bẫm và đáng yêu. Một dòng nước mắt từ từ lăn xuống má lúc nào mà tôi không hay biết. Tôi vốn không phải là người hay khóc, thậm chí có lúc bố đánh tôi bằng roi mây, tôi vẫn cắn răng không khóc, nhưng tôi lại rất ủy mị trước tình cảm.
Một chiếc khăn chìa ra trước mặt tôi. Tôi cầm lấy và lau vội những giọt nước mắt.
- Cô đã khỏe hơn chưa? – Nelson hỏi.
- Cám ơn anh. Tôi khỏe hơn nhiều rồi. Có thể đi lại khắp nơi rồi. – Tôi gượng cười.
- Hôm qua cô sốt cao quá làm tôi rất lo lắng. Cô mê man suốt cả đêm.
- Vậy hôm qua anh đã ở đây suốt đêm à? – Tôi hỏi, không giấu vẻ xúc động.
- Có lẽ. – Nelson cười – Bởi vì cô cũng không có ai thân thiết ở đây nên tôi sợ cô có việc gì.
- Anh ngủ ở đâu? – Tôi thắc mắc – Còn Jess nữa?
- Jess vẫn ngủ trên giường cô ấy. Tôi ngủ trên ghế. – Nelson gãi đầu – Ngủ trên ghế cũng thú vị lắm.
- Cám ơn anh nhiều. Nếu không có anh thì tôi không biết làm thế nào. – Tôi bối rối. Tự nhiên tôi cảm thấy thương Nelson kì lạ. Cả đêm qua hẳn anh ta đã không thể chợp mắt được chút nào, bởi vì tôi có thể cảm nhận được cứ chốc chốc lại có một bàn tay đặt lên trán tôi. – Tại sao anh lại tốt với tôi như vậy? – Tôi hỏi.
- Tôi nói rồi – Nelson cười – Bởi vì cô giống như một cô em gái bé nhỏ cần sự giúp đỡ.
Tôi, một lần nữa, thấy thất vọng với câu trả lời của Nelson. Trái tim vô hình rơi xuống một hố đen thăm thẳm.
- Nếu chiều nay cô khỏe rồi thì chúng ta có thể đi dạo loanh quanh hít gió trời. Hôm nay tôi cũng xin nghỉ một buổi rồi. – Nelson nói.
- Anh xin nghỉ vì tôi à? – Tôi hỏi một cách khiêu khích.
- Tôi sợ cô vẫn chưa hết bệnh thì không có ai chăm sóc. – Nelson đáp một cách thành thật.
Tôi chẳng biết nói gì. Tôi thật sự cảm động vì những điều Nelson đã làm cho tôi. Nó đem lại cho tôi một cảm giác ấm áp và thân quen. Tôi nghĩ rằng nếu ai là người thân của Nelson thì chắc hẳn người ấy sẽ được chăm sóc chu đáo lắm.
- Tôi rất thích cưỡi ngựa – Tôi nói – Hôm kia tôi thấy một đoàn khách đi ngựa dọc theo con đường mòn. Đó có phải là ngựa của khu nghỉ mát này nuôi không?
- Đúng vậy. Những con ngựa đó rất thuần bởi vì đã được huấn luyện từ nhỏ. Cô sẽ không phải sợ hãi gì khi ngồi trên chúng.
- Vậy chiều nay chúng ta đi cưỡi ngựa nhé. Tôi nghĩ đến chiều thì tôi khỏe lắm rồi. – Tôi năn nỉ.
- Được thôi. Chiều tôi sẽ đến đón cô, và chúng ta sẽ ra bãi huấn luyện ngựa.
Tôi ăn xong chén súp buổi chiều do Nelson đem đến, và chúng tôi đi dọc đường đến cánh đồng nuôi ngựa. Cánh đồng này thật rộng lớn. Tất cả làm tôi nhớ đến cánh đồng lúa ở Việt Nam. Một màu xanh bạt ngàn trải dài ngun ngút. Điểm lên giữa màu xanh ấy là những chú ngựa nâu nâu, đuôi vẩy vẩy. Nelson nói gì đấy với người chăn ngựa và tôi thấy ông ta gật đầu cười. Đó là một người đàn ông trung niên, gương mặt có phần khắc khổ, các gân bàn tay nổi lên gân guốc. Ông chọn cho chúng tôi con ngựa hiền lành nhất. Nelson bế tôi lên rồi anh nhảy lên sau đó. Chúng tôi cùng cưỡi một con ngựa bởi vì Nelson sợ tôi mới ốm dậy, người vẫn còn chưa khỏe. Dưới bàn tay của Nelson, con ngựa nhảy lên những cái hàng rào tre trông rất điệu nghệ.
- Tôi không biết là anh biết cưỡi ngựa đấy – Tôi nói.
- Ồ, tôi được sinh ra ở nơi này mà. – Nelson cười.
Nelson kể cho tôi nghe về cách người ta luyện ngựa. Nuôi ngựa không ngoài ba việc: phối giống, thuần ngựa, luyện ngựa. Và điều cần thiết khi luyện ngựa là tình yêu đối với nó, chứ không phải dùng roi vọt. Nelson hướng ngựa phi dọc con đường vào rừng. Phong cảnh trong rừng vẫn đem lại cho tôi một cảm giác mới lạ như khi tôi vừa đặt chân đến đây. Dọc hai bên đường, thỉnh thoảng có những chú nai ngơ ngác chạy ngang qua, hay những chú sóc lanh láu vội vàng lẩn giữa những lùm cây. Gío mát thổi lướt qua, mơn trớn khuôn mặt tôi một cách nhẹ nhàng. Tôi thậm chí có thể nghe được tiếng thở của Nelson. Vòng tay của Nelson để trước mặt tôi, cầm chắc yên ngựa. Bất giác tôi cảm thấy một cảm giác tin tưởng. Tôi chỉ muốn ngả đầu vào vai anh, giữa gió mát, giữa hoàng hôn yên lặng, như trong những câu chuyện của dân cao bồi miền viễn Tây. Tôi cảm thấy như có một làn gió mới đã thổi mát qua cuộc sống vốn quá chán ngán của tôi.
Càng ngày tôi càng yêu Nelson mất rồi.
Chính tôi cũng đang sợ hãi thứ tình yêu đang lớn dần lên trong tim tôi, một thứ tình cảm lẽ ra không nên có.
Tôi tự nhủ, ngày mai, tôi sẽ cố gắng để không yêu anh. Nhất định tôi sẽ làm được.