Vương Thế Sung ngồi trên giường, tinh thần rõ ràng đã khã hơn sáng sớm nay rất nhiều, nhưng nhãn thần vẫn còn mờ đục, sau khi đảo mắt nhìn chúng nhân đứng xung quanh một lượt, y chậm rãi nói: “Lần này xuất chinh, quan hệ đến thành bại của đại cục. Lão phu không thể đích thân tham dự quả là chuyện đáng tiếc nhất trong đời này”.
Dương Công Khanh vội nói: “Xin đại nhân yên tâm, thuộc hạ có Huyền Nộ công tử và Khấu huynh đệ trợ giúp, chuyến này nhất định sẽ không phụ lòng đại nhân, đánh cho Lý Mật bại không đường lui, vĩnh viễn cũng chẳng thể trở mình. Đợi sau khi đại nhân khang phục, sẽ lại suất lãnh chúng tướng nam chinh bắc thảo, nhất thống thiên hạ”.
Vương Thế Sung trầm ngâm: “Chúng ta và Lý Uyên thuy một ở Quan Tây, một ở Quan Đông, nhưng tình hình thì tương tự như nhau. Chúng ta bị Lý Mật kềm chế, vô phương Tây tiến, còn Lý phiệt thì lúc nào cũng phải đề phòng ứng phó với phụ tử Tiết Cử. Vì thế hiện giờ song phương đều phải tranh thủ thời gian, xem xem bên nào củng cố đựơc thực lực, bình định những mối hoạ bên mình trước, thì bên ấy mới hòng thành đại nghiệp vĩnh thế thiên thu”.
Đây là lần đầu tiên Khấu Trọng được nghe Vương Thế Sung bàn luận về tình cnảh hiện tại của mình, trong lòng biết rõ giờ đay họ Vương đã không thể không coi trọng gã, nên mới để gã nghe những chuyện cơ mật thế này.
Lúc này bên cạnh giường ngoại trừ gã ra, chỉ có Vương Huyền Ứng, Vương Huyền Nộ, Dương Công Khanh, Lang Phụng, Tống Mông Thu năm người, nội điểm này đã có thể thấy đây không phải là một hội nghị thông thường rồi.
Vương Thế Sung thở dài: “Tiết Cử là kẻ xuất thân trong nhà phú quý, xưa nay luôn thích kết giao bằng hữu, vung tiền như rác. Loại người này trừ phi luôn luôn thuận buồm xuôi gió thì mới đứng vững được, còn nếu chẳng may gặp phải thất bại, thì sẽ khó mà tiếp tục kiên trì. Một khi họ Tiết đầu hàng, thực lực của Lý Phiệt sẽ tăng lên rất nhiều, vì vậy chúng ta phải gấp rút tranh thủ trước khi chuyện này xảy ra, đánh vao Quan Trung. Cũng vì thế mà trận chiến với Lý Mật buộc phải tốc chiến tốc thắng, bằng không thì thắng cũng chẳng khác bại là bao”.
Khấu Trọng lần đầu tiên cảm thấy mình phải đánh giá lại con người Vương Thế Sung này, từ những phân tích này, có thể thấy y đích thực là một đại tuớng tinh thông binh pháp, thâm mưu viễn lự.
Vương Huyền Ứng nói: “Nhưng nhi tử Tiết Nhân Quả của Tiết Cử hào dũng thiện chiến, dường như không phải là loại người chịu đầu hàng nhận thua”.
Vương Thế Sung thở gấp hai hơi, Khấu Trọng vội vàng đẩy thêm một đạo chân khí vào nội thể y, tinh thần mới khôi phục lại mấy phần. Chỉ nghe y trầm giọng nói: “Đáng tiếc đối thủ của y lại là Lý Thế Dân trí dũng song toàn, trừ phi Lý Thế Dân chết, bằng không phụ tử nhà họ Tiết khó mà thoát được vận mệnh binh bại đầu hàng”.
Dương Công Khanh gật đầu tán thưởng: “Tiết Cử khởi binh chẳng qua chỉ là gặp thời mà lên thôi, không giống như đại nhân hay Lý Uyên bản thân đã là đại tướng, trước khi khởi nghĩa đrrù đã chinh chiến khắp thiên hạ, hoặ như Lý Mật, Đỗ Phục Uy, Đậu Kiến Đức tự mình giành lấy địa bàn. Năm đó, y dựa vào tiền tài của gia tộc, mà mua một chức hiệu uý nhỏ ở Kim Thành. Năm Đại Nghiệp thứ mưòi ba, Lũng Sơn có tặc phỉ, Kim Thành lệnh Hách Viện mộ được mấy nghìn binh mã, giao cho y thống lĩnh đi tiễu trừ khấu tặc, không ngờ y lại dùng quân đội đó đánh vào kho lương để cứu tế dân nghèo, rồi tự lập làm vương. Một điều nữa là ở Tây Cương không có đối thủ nào xứng tầm, chứ nếu y khởi binh ở Quan Đông thì chỉ sợ sớm đã bị người ta thu thập từ lâu rồi, bởi thế mà lời đại nhân vừa phân tích rất phải”.
Vương Thế Sung nói: “Đêm nay các người đến Yển Sư, ngàn vạn lần không được phô trương. Công Khanh phụ trách chấp chưởng hổ phù soái ấn, thống lĩnh toàn quân, Huyền Nộ làm phó tướng, Tiểu Trọng làm quân sư, ba người phỉa hợp tác chặt chẽ, lợi dụng sự khinh địch của Lý Mật, cho hắn một đòn phủ đầu. Nếu có thắng lợi thì nhất định phải truy kích đến cùng, nếu đoạt được thêm Lạc Khẩu, Hổ Lao nữa thì Lý Mật đại thế đã tiêu, chỉ còn lại hai đường một là chiến tử hai là đầu hàng, thiên hạ sẽ là vậy trong túi Vương Thế Sung này”.
Y càng nói càng hưng phấn, lại ho lên mấy tiếng.
Lang Phụng vội Khuyên: “Chỉ thị của đại nhân, bọn thuộc hạ sẽ nhất nhất chấp hành. Chi bằng đại nhân hãy đi nghỉ ngơi một lát đã!”.
Vương Thế Sung vất vả nói: “Chuyện Thục Ni gả vào Quan Tây, các ngươi cứ theo kế hoạch đã định mà làm, Tiểu Trọng ngươi có đề nghị gì khác không?”.
Khấu Trọng thấy mọi người đều nhìn mình, lấy làm lúng túng, vội nói: “Tất cả đầu nghe theo phân phó của Vương công”.
oo
Lúc Khấu Trọng trở về đại sảnh thì Từ Tử Lăng và Trần Trường Lâm đang nói chuyện phiếm, thấy Khấu Trọng đến, Từ Tử Lăng liền vui vẻ nói: “Thì ra Trường Lâm huynh là người ở Nam Hải quận, gia tộc nhiều đời kinh doanh trên biển, nói chuyện với huynh ấy một buổi, thật còn hơn đi cả vạn dặm đường. Trường Lâm huynh biết rất nhiều kỳ phong dị tục ở các nơi, đảm bảo ngươi chưa được nghe bao giờ”.
Khấu Trọng thầm cảm thấy hổ thẹn, từ khi quen biết đến giờ, gã và Trần Trường Lâm còn chưa nói chuyện với nhau quá mười câu, nên vội vàng nói: “Trần huynh không phải thân thích của lão Hoảng đấy chứ! Đều là người Nam Hải cả mà?”.
Trần Trường Lâm rõ ràng không phải là người thích đùa, chỉ nghiêm mặt giải thích: “Khấu huynh hiểu lầm rồi! Nam Hải ở đây chính là chỉ biển lớn ở phía Nam bản quốc, ven bờ có đến mười mấy quận, Nam Hải quận của chúng ta và Chu Nhai quận của Nam Hải Phái cách nhau hơn hai mươi ngày thuyền trình cơ”.
Khấu Trọng ngồi xuống bên cạnh Trần Trường Lâm: “Biển lớn rốt cuộc có những nơi nào kỳ thú? Năm xưa khi còn ở Dương Châu, ta thường thấy các thương thuyền ngoại quốc đến buôn bán, bọn họ ăn mặc rất là kỳ quái”.
Trần Trường Lâm nói: “Nhà Trần mỗ chính là buôn bán với người Ba Tư và Đại Thực đó”.
Khấu Trọng buột miệng hỏi: “Sao Trần huynh không ở lại Nam Hải quận mà phát tài, lại lặn lộn thiên sơn vạn thuỷ đến đây làm gì?”.
Song mục Trần Trường Lâm sáng rực lửa căm hờn, trầm giọng nói: “Nếu không phải bất đắc dĩ, có ai muốn sống cảnh tha hương đất khách quê người đâu chứ, chuyện này một lời khó mà nói hết, mong Khấu huynh lượng thứ”.
Khấu Trọng động tâm hỏi: “Có phải liên quan đến Trầm Pháp Hưng không?”.
Trần Trường Lâm giật mình chấn động: “Khấu huynh thật lợi hại, vừa đoán đã trúng ngay. Tuy không liên quan trực tiếp, nhưng Trầm Luân là nhi tử của y, thật sự không thể không tránh khỏi liên quan”.
Từ Tử Lăng và Khấu Trọng đưa mắt nhìn nhau, hạ thấp giọng hỏi: “Trầm Luân đã làm chuyện gì thương thiên hại lý với Trường Lâm huynh vậy”.
Trần Trường Lâm tở dài: “Trầm Luân hại ta nhà tan cửa nát, thù này không báo, ta có chết cũng không nhắm được mắt”.
Khấu Trọng đang định nói gì đó thì cận vệ chợt vào báo: “Tất cả đã chuẩn bị xong, xin hai vị đại gia động giá!”.
oo
Mười hai chiến thuyền cùng lúc rời khỏi Lạc Dương, dọc theo dòng Lạc Thuỷ thiến thẳng đến Yển Sư, do thuận dọng nước, nên thuyền đi rất nhanh, tựa hồ nhất tả thiên lý. Trên đoạn đường thuỷ từ Lạc Dương đến Yển Sư, hai bên bờ đều có đặt trạm canh gác ở chỗ cao, giám thị tình hình trên sông, về mặt an toàn có thể nói là tuyệt đối không có vấn đề gì.
Ngoài Dương Công Khanh, Vương Huyền Nộ, đồng hành chuyến này còn có Linh Lung Kiều, chuyên phụ trách nghe ngóng tin tức tình báo. Mỹ nữ Quy Tử này sau khi lên thuyền liền tránh vào phòng riêng, cả cơm tối cũng khôgn ra ngoài ăn với mọi người.
Từ Tử Lăng cũng không hứng thú xã giao với Dương Công Khanh, nên ở lại trong tịnh thất của mình điều tức.
Sau bữa cơm, Dương Công Khanh lo lắng nói: “Lý mật rất giỏi dùng kế trá nguỵ kẻ địch của hắn nhiều khi đến lúc khai chiến mới biết mình đã trúng kế. Không biết Khấu huynh có lương sách gì để ứng phó chưa?”.
Khấu Trọng mỉm cười: “Lần này để xem thuật nguỵ trá của ai cao minh hơn. Việc quan trọng nhất trước mắt là phải tìm được địa điểm chính xác nơi đóng quân của Lý Mật, sau đó mới bắt đầu định kế. Ta đã hẹn với bọn Trác Kiều hội ngộ tại Yển Sư, đến lúc ấy bọn ta sẽ nắm được hư thực của hắn. kẻ giết chết Lý Mật, chính là nhi nữ của Trác Nhượng này đây”.
Vương Huyền Nộ không hiểu hỏi: “Khả Phong yêu đạo đã biết chuyện của Trác Kiều, tự nhiên sẽ nhắc nhở Lý Mật, chỉ e chúng ta sẽ trúng phải gian kế của hắn mất”.
Dương Công Khanh cũng gật đầu đồng ý.
Khấu Trọng cười ha hả: “Vấn đề là cả lão tử cũng không biết trong đám cựu bộ hạ của Trác Nhượng đó, ai là người thân tại Tào doanh tâm tại Hán. Tốt nhất là Lý Mật cứ hoài nghi tất cả đám cựu tướng đó, làm cho người người đều cảm thấy mình đang nguy hiểm, bất cứ lúc nào cũng bị chính chủ tử của mình sát hại, lúc ấy thì chỉ cần Lý Mật bại một trận, đảm bảo lòng quân sẽ tan rã. Quân Ngoã Cương chia năm sẻ bảy, khiến Lý Mật có muốn đông sơn tái khởi cũng chẳng còn binh tướng”. Ngưng một chút rồi gã gằn giọng nói từng chữ một: “Vì vậy chúng ta chỉ cần đại thắng một trận, Lý Mật sẽ vĩnh viễn không thể trở mình”.
Song mục Vương Huyền Nộ lộ ra thần sắc ngưỡng mộ: “Khấu đại ca đối với chuyện gì cũng có cách nhìn hết sức độc đáo và cao minh”.
Dương Công Khanh vẫn chưa thấy yên tâm, trầm ngâm nói: “Tổng binh lực của chúng ta chỉ có hai vạn người, tuy nói đều là tinh binh đã chinh chiến lâu năm, nhưng so với đại quân mười vạn của Lý Mật, bất luận là y có tổn thất thế nào sau trận Đồng Sơn với Vũ Văn Hoá Cập, cũng vẫn hơn xa chúng ta. Có lẽ hắn không thể thua trận này, nhưng chúng ta thì còn cần thắng lợi hơn gấp bội hắn, vì vậy phải tìm cách khiến hắn không thể dùng ngụy kế gian mưu, thì may ra mới có cơ hội đại thắng được”.
Khấu Trọng thong dong đáp: “Về mặt này đại tướng quân có thể tuyệt đối yên tâm. Thủ hạ của Trác Kiều có một người tên là Tuyên Vĩnh, người này tinh thông binh pháp, do trước đây đã từng theo Trác Nhượng Nam chinh Bắc chiến, bây giờ lại luôn giữ liên lạc với các tướng sĩ trung thành với họ Trác trong quân Ngoã Cương, bởi vậy mọi động tĩnh của quân Ngoã Cương y đều nắm rõ như lòng bàn tay, đảm bảo là Lý Mật có đặt mông xuống đâu, quay tả quay hữu thế nào chúng ta cũng biết được hết. Hà! Hai ngày nay mọi người đã bận rộn lắm rồi, chi bằng nhân lúc này về phòng nghỉ ngơi cho sớm, bởi vì sau khi đến Yển Sư, e là ngay cả thời gian để ngủ cũng không có nữa đâu!”.
oo
Khấu Trọng đẩy cửa bước vào, chán nản nằm vật xuống bên cạnh Từ Tử Lăng đang đả toạ, hai chân vẫn chạm đất, thở hắt ra một hơi nói: “Trước đây không phải ngươi hay nằm luyện công à? Bây giờ sao lại học người ta ngồi xếp bằng đả toạ vậy, lẽ nào ngồi vậy thoải mái hơn vừa ngủ vừa luyện hay sao?”.
Từ Tử Lăng từ từ mở mắt: “Ngươi lai làm sao rồi, làm gì mà tức khí đầy bụng thế?”.
Khấu Trọng cười khổ: “Làm sao thì không sao, chỉ có điều hơi lo lắng một chút thôi! Đến giờ ta mới biết dù là Lý Mật tổn hao rất lớn sau trận Đồng Sơn nhưng binh lực vẫn ở trên chúng ta một bậc. Trận chiến này rất có thể sẽ lặp lại tình cảnh ở Cảnh Lăng! Mà ta còn phải tìm đủ mọi cách tỏ ra quân ta sẽ tất thắng để an ủi người khác, cái chức quân sư này thật không dễ làm!”.
Từ Tử Lăng mỉm cười: “Binh thư không phải đã nói binh quý hồ tinh bất quý hồ đa hay sao? Sau khi kịch chiến, tinh binh mãnh tướng của Lý Mật hẳn đã tử thương không ít, sĩ khí mết mỏi. Còn quân ta thì ai ai nấy nấy đều quyết ý tử chiến, bởi vậy, chỉ cần có sách lược ổn thoả, né mạnh đánh yếu, tất sẽ đại thắng thôi”.
Khấu Trọng cười khổ: “Đây cũng chính là điểm mà ta lo lắng nhất, lần trước khi ứng phó thích khách, tưởng chừng như đã chắc chín phần mười, nào ngờ đến cuối cùng vẫn đi sai một nước cờ, bị Lý Mật lợi dụng sơ hở, kế giả yếu dụ địch suýt chút nữa thì hỏng bét, nếu không phải có diệu kế của Hư Hành Chi, trận này chắc không cần phải đánh nữa rồi”.
Từ Tử Lăng chợt mở to mắt, trầm giọng nói: “Trận này chúng ta nhất định sẽ thắng, bởi Lý Mật nhất định cho rằng Vương Thế Sung trọng thương khó mà dậy nổi, lòng quân tản mạn, sĩ tốt không còn đấu chí, thế nên sẽ có ý khinh thị. Tình thế hiện nay, Đỗ Phục Uy và Trầm Pháp Hưng bất cứ lúc nào cũng có thể đánh tới Giang Đô, rồi dọc theo đường cũ của Vũ Văn Hoá Cập đánh lên phía Bắc, Đậu Kiến Đức thì đang có ý đồ Nam hạ, Lý phiết cũng phải ứng phó đại quân của phụ tử Tiết Cử ở mặt Tây, Lý Mật có thể kịp thời lấy được Lạc Dương hay không, thực sự có ảnh hưởng rất lớn đến bá nghiệp tranh thiên hạ của hắn. Vì vậy Lý Mật giờ đây còn nôn nóng lấy được Lạc Dương còn hơn chúng ta nôn nóng muốn giết hắn nhiều. Ngươi hiểu không?”.
Khấu Trọng ngồi thẳng người dậy, tinh thần phấn chấn: “Ngươi nói hay lắm! Nhưng nếu Lý Mật chặn đường trở lại Đông Đô của bọn ta, rồi dùng tinh binh đi theo đường thuỷ tiến công Lạc Dương từ phía Tây thì chúng ta phải làm sao?”.
Từ Tử Lăng thản nhiên nói: “Lý Mật còn nhẫn nại được như vậy sao? Lúc ấy chỉ cần chúng ta thủ vững Yển Sư, kéo chân sau của Lý Mật, đồng thời chặt đứt đường tiếp tế của hắn, Lạc Dương lại là thành kiên cố nổi tiếng trong thiên hạ, dễ thủ khó công, càng kéo dài, đại quân của hắn càng vô tâm luyến chiến. Bởi vậy cho nên ta có thể khẳng định trừ phi hắn không đến, bằng không nhất định sẽ dùng sách lược thắng một trận để lập uy và làm phấn chấn sĩ khí, rồi mới thừa kế đoạt lấy Đông Đô”.
Khấu Trọng vỗ giường khen: “Kiến giải hay lắm!”. Kế đó gã lại trầm ngâm nói: “Hi vọng Trác Kiều không làm ta thất vọng, để kỳ binh của Lý Mật biến thành phàm binh, vậy thì chúng ta có thể né mạnh đánh yếu, đại phá quân Ngoã Cương bách chiến bách thắng của hắn rồi”. Nói đoạn liền vỗ mạnh vai Từ Tử Lăng, khen ngợi: “Huynh đệ! Ngươi giỏi lắm!”.
Từ Tử Lăng thản nhiên nói: “Ngươi căn bản không có thời gian rảnh rỗi để suy nghĩ, có sơ sót cũng là chuyện đương nhiên thôi!”.
Khấu Trọng ngây người ra giây lát, rồi khẽ gật đầu: “Câu này của ngươi rất đáng để người ta phải chiêm nghiệm. Còn nhớ khi ở Cảnh Lăng, chúng ta phải đối diện với đại quân công thành của lão gia, ta đã ngộ ra tâm pháp coi cả chiến trường như một bàn cờ, siêu thoát khỏi sinh tử thành bại hay không? Kỳ thủ nếu như muốn chiến thắng, tất phải định mưu trước rồi mới hành động, mỗi nước đều có thể dắt mũi đối phương. Hiện giờ Lý Mật đã đi trước một nước, nhưng cục thế là do chúng ta bày bố, để xem hắn sẽ nhập cuộc thế nào”.
Từ Tử Lăng trầm giọng nói: “Trầm Lạc Nhạn rất giỏi dò la quân tình, đừng quên cuốn sổ bọn ta đã đánh cắp ở nhà ả đó”.
Khấu Trọng biến sắc thốt: “Vậy phải làm sao mới được đây?”.
Từ Tử Lăng chậm rãi nói từng chữ một: “Nếu ngươi muốn dùng kỳ binh đối phó kỳ binh, vậy thì ngàn vạn lần không được động dungj một binh một tốt nào của Vương Thế Sung, chỉ có Trác Kiều và người của nàng ta mới có thể trở thành kỳ binh được mà thôi”.
Khấu Trọng giật mình kêu lên: “Hảo tiểu tử! Ngươi giỏi thật! Có điều nghe khẩu khí của Trác Kiều, lúc này chịu theo nàng ta chỉ có Tuyên Vĩnh và mấy trăm thủ hạ thôi, làm sao đối phó được với đại quân vạn người của Lý Mật được”.
Từ Tử Lăng cười cười nói: “Tên tiểu tử nhà ngươi lúc nào cũng thích dụ ta nói ra cả. Ta không tin là ngươi không có đối sách đâu”.
Khấu Trọng ngượng ngùng đáp: “Ngươi nên biết là ta thích nhất là nghe ngươi phân tích mà. Binh phá có nói cần nhất là phải hư trương thanh thế, trên chiến trường lòng người đều hoảng loạn, cả tên cha mẹ là gì cũng có khi khẩn trương quá mà quên mất tiêu. Bởi vậy nếu như chính diện giao phong, mấy trăm người của Trác Kiều có khi chưa kịp đụng đến cọng lông đối phương có khi đã bị tiêu diệt toàn bộ rồi, nhưng nếu vòng ra phía sau doanh trại, đốt lương thảo địch thì lại thừa sức làm nổi. Bây giờ mọi sự đã chuẩn bị xong, chỉ còn thiếu gió đông nữa thôi. Trác Kiều à! Lần này ngươi có báo phụ cừu hay không thì phải xem ngươi có hăng hái hay không đó!”.
oo
Hôm sau thì thuyền đã đến bến cảng ngoài thành Yển Sư, Khấu Trọng và Từ Tử Lăng đeo mặt nạ lên, giả làm hai binh tốt tầm thường, trà trộn vào thành.
Bọn gã cởi bỏ quân phục, để lộ ra lớp quần áo lái thương bên dưới, rồi tìm đến địa điểm hẹn trước để kiếm ám ký bọn Trác Kiều lưu lại, nửa canh giờ sau thì đã gặp được Tuyên Vĩnh ở một khu dân cư phía Đông thành.
Khấu Trọng ngạc nhiên nói: “Không ngờ là Tuyên huynh đích thân đến chờ, tình thế ra sao rồi?”.
Tuyên Vĩnh dẫn bọn gã vào trong nhà, đợi mọi người ngồi xuống rồi nói: “Lý Mật hiện giờ đang không ngừng tập trung quân lực, xem ra bất cứ lúc nào cũng có thể tấn công Yển Sư, kế dụ địch của Khấu gia đã có tác dụng”.
Khấu Trọng mừng rỡ: “Lần này ta phải khiến tên lão tiểu tử này có đi mà không có về”.
Từ Tử Lăng trầm giọng nhắc nhở: “Đừng có vui mừng quá sớm như vậy”.
Tuyên Vĩnh gật đầu nói: “Từ gia nói rất đúng. Lý Mật hiển nhiên đã biết có tiểu thư đang ở đây, chẳng những phòng vệ thâm nghiêm, mà còn không cho thuộc hạ tuỳ tiện ra vào thành môn, đồng thời thiết lập các trạm canh ở khắp nơi, phòng ngừa thám tử đến dò la tin tức, khiến cho chúng ta và các tai mắt trong thành khó mà liên lạc với nhau được”.
Khấu Trọng chau mày nói: “Hiện nay tình hình Lý Mật thế nào rồi?”.
Tuyên Vĩnh đáp: “Sau khi đại phá Vũ Văn Hoá Cập, tinh binh hảo mã đã tử thương không ít, sĩ tốt mệt mỏi, chán ngán chiến tranh. Bởi vậy phải điều động thêm binh lính từ nơi khác đến bổ sung, thế nên tuy nói có mười vạn đại binh, song xấu tốt lẫn lỗn, ngoài mạnh trong yếu”.
Khấu Trọng hân hoan nói: “Nếu đã là vậy, nếu có thể nhân lúc quân Ngoã Cương còn đang mệt mỏi, trận cước chưa vững vàng đem quân tấn công, rồi dùng kỳ binh đột kích hậu phương của bọn chúng, khiến Lý Mật trước sau đều thọ địch, nhất định sẽ khiến đại quân ô hợp đó không đánh tự tan, bại không còn một manh giáp”.
Tuyên Vĩnh thở dài than: “Vấn đề là Lý Mật giỏi dùng kế trá nguỵ, nếu bọn ta không nắm được chính xác lộ tuyến hành quân của hắn, bỏ chủ lực mà đánh phải cánh quân phụ, ngược lại sẽ rơi vào cạm bẫy do đối phương bố trí sẵn, lúc ấy thì đến lượt chúng ta bại không dư địa đó”.
Từ Tử Lăng thắc mắc: “Hình như Tuyên huynh không nắm chắc có thể thăm dò được quân tình của Lý Mật thì phải?”.
Tuyên Vĩnh nói: “Sau khi Lý Mật biết được chuyện tiểu thư đã đến đây, đã hoài nghi tất cả những tướng lĩnh trước đây từng có quan hệ mật thiết với đại long đầu, không để bọn họ tham dự đại chiến lần này, đồng thời điều động đi trấn thủ những nơi khác. Hiện giờ chỉ có Trầm Lạc Nhạn, Từ Thế Tích, Nguỵ Trưng, Bùi Cơ Nhân, Vương Bá Đương, Đơn Hùng Tín, Trình Tri Tiết, Trần Chí Lược, Phàn Văn Siêu là được Lý Mật tin tưởng mà thôi, thế nên bọn ta cũng không thể làm gì được”.
Khấu Trọng tức giận mắng: “Ta thật muốn giết chết tên yêu đạo Khả Phong đó quá!”.
Từ Tử Lăng chau mày: “Lẽ nào không có cách gì hay sao?”.
Tuyên Vĩnh mỉm cười nói: “Hắn có kế Trương Lương thì ta có mưu Hàn Tín. Lý Mật chỉ có thể đề phòng mấy đại tướng có quan hệ với đại long đầu, chứ khó mà trừ được hết các bộ thuộc cũ của đại long đầu trong quân. Bọn họ tuy không có tư cách tham dự các hội nghị bí mật, nhưng cũng có thể dựa vào sự điều động binh lính mà cung cấp cho bọn ta những tin tức quý giá”.
Từ Tử Lăng thắc mắc: “Không phải Tuyên huynh vừa nói rất khó liên lạc với người trong thành hay sao?”.
Tuyên Vĩnh gật đầu: “Đích thực là vậy. Trước giờ chúng tôi luôn dùng phi cáp truyền thư hoặc nhét thư vào trong bình ném xuống kênh ngầm cho chảy ra ngoài, nhưng do Từ Thế Tích đã phái người giám thị cẩn mật, nên không thể dùng lại cách này được nữa. Có điều thế nào cũng vẫn phải có người ra thành làm việc, rồi giấu thư tín vào nơi đã chỉ định sẵn, sau đó chúng tôi sẽ đến lấy”.
Khấu Trọng vỗ đùi tán thưởng: “Tuyên huynh ắt hẳn đã tốn không ít tinh thần và tâm lực vào chuyện này rồi”.
Tuyên Vĩnh nở một nụ cười khiêm tốn, chậm rãi nói: “Đầu tiên chúng ta đã biết đại quân của Lý Mật chia thành bốn đạo, ba đạo phân biệt đóng trong ba trại lớn ở ngoài thành, mỗi sư có hai vạn người, đa phần đều là tân binh chưa huấn luyện hoặc các sĩ tốt già yếu. Chỉ có bốn vạn quân đóng trong thành mới là tinh binh đã từng theo Lý Mật đánh khắp thiên hạ, do Trình Tri Tiết, Từ Thế Tích, Bùi Cơ Nhân chỉ huy”.
Khấu Trọng và Từ Tử Lăng cùng lúc phấn chấn tinh thần.
Song mục gã họ Khấu sáng rực lên: “Hà hà! Lý Mật lại muốn diễn lại kế cũ rồi,sáu vạn quân kia chỉ có thể làm bình phong, ta có thể khẳng định chỉ có đạo tinh binh bốn vạn người kia là chân chính đánh đến Yển Sư mà thôi”.
Tuyên Vĩnh gật đầu nói: “Hiện giờ vấn đề quan trọng nhất là có thể nắm được hành tung của bốn vạn người này hay không. Trước đây mỗi lần Lý Mật hành binh giao chiến với người khác, đều dựa vào tin tức tình báo chính xác, dùng kỳ binh đột kích vào lúc địch nhân không ngờ đến nhất, hoặc giả dùng kế dụ địch, trá bại sau dó dùng phục binh phản kích, quay ngược lại dồn đối thue vào chỗ chết, Trương Tu Đà chính vì vậy mà bị hắn đánh cho thảm bại”.
Khấu Trọng nghiêm mặt nói: “Chuyện này phải nhờ đến tiểu thư và Tuyên huynh, có điều phải hết sức cẩn thận, Trầm Lạc Nhạn bà nương quỷ kế đa đoan, tuyệt đối không dễ đụng đến đâu”.
Tuyên Vĩnh gật đầu đáp ứng, rồi lại cười gượng nói: “Một vấn đề khác là Trầm Lạc Nhạn đối với cử động của các vị đều rõ như lòng bàn tay, khiến các vị khó mà trá nguỵ được, đến khi chính diện giao phong, cũng không biết thắng bại sẽ thế nào”.
Khấu Trọng và Từ Tử Lăng đưa mắt nhìn nhau, rồi hạ thấp giọng nói: “Việc này lại phải nhờ tiểu thư và Tuyên huynh rồi. Chỉ có cánh nhân mã của các vị mới trở thành kỳ binh mà Lý Mật không thể nắm được mà thôi. Nếu có thể khiến Lý Mật hiểu lầm đây là một cánh quân bí mật khác của Vương Thế Sung, làm dao động lòng quân của hắn thì càng tốt hơn nữa”.
Tuyên Vĩnh ngẩn người giây lát: “Nhưng chúng tôi chỉ có hai trăm người…à! Tại hạ hiểu rồi! Hai vị quả thật là người gan lớn hơn trời, Tuyên Vĩnh bội phục, bội phục!”.
Khấu Trọng tổng kết lại nói: “Hiện giờ điều quan trọng nhất là phải nắm được tin tức chính xác, chúng ta xin được đợi giai âm của Tuyên huynh!”.
Tuyên Vĩnh nói: “Khấu gia có thể làm cho tại hạ một giấy thông thành không, như vậy ra vào thành sẽ tiện hơn”.
Khấu Trọng nhổm người đứng dậy nói: “Không những ta cho huynh giấy thông thành, mà còn dẫn huynh đi chào hỏi với các binh thường thủ thành, khi cấn thiết có thể trực tiếp đến gặp ta, tránh để đại sự bị lỡ”.