Lai giả bất thiện, thiện giả bất lai.
Từ Tử Lăng nói nhỏ với Âm Hiển Hạc:
- Có bốn người.
Cửa phòng và hai thanh chắn đồng thời vỡ vụn.
Âm Hiển Hạc xuất trường kiếm, tựa như một con báo bắn mình khỏi ghế hướng phía địch nhân đang phá cửa xông vào.
Từ Tử Lăng ung dung từ trên ghế đứng lên, hai tay đồng thời phất tới, hai luồng Bảo Bình Kình khí tập trung cao độ, nóng bỏng bức người ập tới hai kẻ địch đang phóng vào.
Người đến toàn thân mặc đồ dạ hành, đội mũ trùm đầu, chỉ chừa hai mắt, song vẫn không qua mắt được Từ Tử Lăng.
Kẻ phá cửa chính xông vào chính là Hứa Khai Sơn của Đại Minh Tôn Giáo. Từ cửa sổ tấn công chính là Đoạn Ngọc Thành và Tân Na Á. Người duy nhất mà gã đoán không ra là người tiến vào phòng bên cạnh vì tưởng Âm Hiển Hạc vẫn ở bên đó. Người này võ công không dưới Hứa Khai Sơn.
Xung đột chính diện với Thạch Chi Hiên đã khiến Đại Minh Tôn Giáo tổn binh chiết tướng, nguyên khí thương tổn, song những kẻ đến ai ai cũng là cao thủ đã trải qua huấn luyện nghiêm khắc, tuyệt không thể xem thường.
Đến lúc này gã đã bắt đầu hiểu rõ, Mỹ Diễm phu nhân chính là muốn trốn tránh Đại Minh Tôn Giáo. Ngũ Thải thạch mà mụ đem theo từ Tái ngoại là do Quang Minh sứ giả Lạp Ma từ Ba Tư đem từ Ba Tư đến đại thảo nguyên, kiến lập Đại Minh Tôn Giáo. Ngũ Thải Thạch chính là thánh vật chí cao vô thượng của Đại Minh Tôn Giáo, thế nên bọn Hứa Khai Sơn tuyệt không để nó lọt vào tay người ngoài.
Tiếng hừ lạnh và tiếng la hét đồng thời vang lên, Đoạn Ngọc Thành và Tân Na Á chưa có cơ hội vượt qua bệ cửa sổ đã bị Bảo Bình khí của Từ Tử Lăng chấn bay ngược trở ra.
Kinh nghiệm thực chiến của Từ Tử Lăng phong phú thế nào, làm sao để địch nhân kềm chân trong phòng, huống hồ địch nhân ở phòng bên cạnh cao thâm khó dò, Hứa Khai Sơn lại thuộc hàng cao thủ xấp xỉ với Thạch Chi Hiên.
Gã liền phóng về phía trước.
Tiếng kình khí giao kích không ngừng vang lên, trong chớp mắt Âm Hiển Hạc thi triển hết bản lãnh vẫn bị Hứa Khai Sơn kềm chế, bức đến phải liên tiếp lùi lại trở về phía chính giữa phòng.
Từ Tử Lăng khẽ hô lên một tiếng, đầu vai lướt qua Âm Hiển Hạc, không khí phía trước dường như cô đặc lại, biến thành thực chất. Nếu đổi lại là một Từ Tử Lăng trước khi giao thủ với Hứa Khai Sơn ở U Lâm tiểu cốc, nhất định sẽ như Âm Hiển Hạc có lực mà không thi triển được. Lúc này gã đã nắm chắc phần thắng, một chỉ điểm ra nhắm về hướng song chưởng của Hứa Khai Sơn đang đưa xéo tới.
- Tường bên phải!
Âm Hiển Hạc hiểu ý bước qua, trường kiếm của hắn xuất ra đóa đóa kiếm hoa, đúng lúc bức tường bên phải bị xẻ ra thành nhiều mảnh, địch nhân thần bí phá tường xông vào, trường kiếm trên tay hợp với hàn khí dày đặc nhanh như thiểm điện chính diện đâm tới, vừa độc ác vừa lăng lệ.
Đoạn Ngọc Thành và Tân Na Á chấn chỉnh trận cước, xuyên qua cửa sổ xông vào lần thứ hai, khiến cho tình thế của hai người Từ, Âm lại càng thêm nguy cấp.
“Xoẹt” một tiếng, chỉ kình tập trung cao độ, lấy cường công nhược của Từ Tử Lăng đã xuyên qua bức tường khí từ song chưởng của Hứa Khai Sơn, tấn công hắn không gì ngăn nổi.
Bên dưới, chân gã tung ra một cước, nhắm vào chỗ yếu hại ở bụng dưới của Hứa Khai Sơn. Hai chiêu này lăng lệ chuẩn xác, với khả năng của Hứa Khai Sơn cũng không thể lùi về phía sau mà tránh được.
“Keng!”
Kiếm của Âm Hiển Hạc chạm vào kiếm địch, phát ra tiếng va chạm như long ngâm, song hắn rõ ràng là nội kình kém đối phương một bậc, không chịu nổi lực đạo, ngã vào Từ Tử Lăng ở phía sau.
Từ Tử Lăng bỏ qua Hứa Khai Sơn, thi triển bản lĩnh giữ nhà chân khí nghịch chuyển, đột ngột đem công thế chuyển sang kẻ địch đáng sợ công đến từ phòng bên, miệng cười ha hả:
- Liệt Hà huynh không phải cùng với Thượng tiểu thư sang Cao ly sao?
Địch nhân toàn thân hắc y nghe thế giật mình, kiếm thế hơi chậm lại, bị chỉ của Từ Tử Lăng điểm trúng kiếm phong, hoảng hốt thối lui.
Đoản kiếm của Tân Na Á, trường kiếm của Đoạn Ngọc Thành kết hợp thành khí thế như bài sơn đảo hải tấn công hai người.
Từ Tử Lăng không dám luyến chiến, đưa tay nắm lấy Âm Hiển Hạc vẫn còn đang thối lui, phóng mình vọt lên, phá vỡ mái nhà, ngang nhiên bỏ đi.
oo
Khấu Trọng hỏi:
- Phiệt chủ đã dùng đến thi từ ca phú, nhất định có thể khiến cho bất kỳ nữ nhân nào cũng phải điên đảo, tiểu tử chính là còn khiếm khuyết về phương diện này.
Trên mặt Tống Khuyết chợt hiện ra một nét cười ôn nhu, mắt nhìn các bông tuyết lớn rơi xuống, tan vào nước sông, tựa như đang nhớ lại tình cảnh năm xưa, cất giọng ngâm:
Thủy để hữu minh nguyệt
Thủy thượng minh nguyệt phù,
Thủy lưu nguyệt bất khứ
Nguyệt khứ thủy hoàn lưu.
(Tạm dịch: Đáy nước có bóng trăng - Trăng nổi trên mặt nước, Nước chảy trăng còn đó - Trăng tàn nước vẫn trôi.)
Khấu Trọng nghe thấy mà quên cả quyết chiến, cất tiếng khen tuyệt:
- Vì cảnh sinh tình, vì tình tả cảnh, tình cảnh giao hòa, phía sau lại còn có thâm ý về thế sự biến đổi, quả thật là không còn bài thơ nào hợp với tình huống hơn nữa!
Tống Khuyết nhìn về phía gã, song mục kỳ quang đại thịnh, nói:
- Nói ra có thể ngươi không tin, ta lần đầu tiên nhìn thấy nàng đã biết nàng là đệ tử của Từ Hàng Tịnh Trai, đang tiến hành nhập thế tu hành theo sư môn chỉ định. Lúc đó Trần triều chưa bị Dương Kiên tiêu diệt, Thanh Huệ biết được ta là đời sau của Tống gia Lĩnh Nam, nên mới hỏi về tình huống thịnh suy của Nam Bắc Triều.
Khấu Trọng lần nữa lại bị Tống Khuyết làm cho hứng thú, liền hỏi:
- Lúc đó Dương Kiên ngồi trên bảo tọa hoàng đế của Bắc Triều sao?
Tống Khuyết gật đầu nói:
- Lúc đó Dương Kiên trên danh nghĩa dùng cái gọi là “nhường ngôi” trở thành chủ của Bắc Triều. Người này về mặt quân sự là một nhân tài hiếm thấy. Từ khi đăng lên đế vị đến khi Nam chinh chỉ cách có chín năm đã chuẩn bị sung túc, kế hoạch chu toàn. Vô luận về mặt chính trị hay quân sự, đều vượt trên tên hôn quân Trần Thúc Bảo của Trần triều. Thế nhưng người đó lại có một khuyết điểm rất lớn chính là độc đoán đa nghi, không chịu tin người, cuối cùng lại để cho Ma Môn có thể thừa cơ, đưa Dương Quảng lên ngôi, làm hỏng cả gia nghiệp.
Hiện nay Lý Uyên lại theo vết xe đổ của Dương Kiên, xem ra lại còn nghiêm trọng hơn.
Khấu Trọng cảm thấy được cùng Tống Khuyết trò chuyện không những là một loại hưởng thụ mà còn có thể mở rộng tấm lòng, hiểu được sự hưng suy của của các triều đại và đạo lý làm người.
Tống Khuyết ẩn phục Lĩnh Nam, cũng như giống Dương Kiên định sẵn kế mưu, chờ cho cơ hội thắng lợi xuất hiện mới hành động. Tống Khuyết điềm đạm nói:
- Ta đã phân tích với nàng rằng điều quan trọng trong Nam yếu Bắc mạnh chính là sự phồn thịnh sung túc. Miền nam có thể yên ổn trong thời gian dài là vì nam phương tài nguyên phong phú, song người trị vì lại vô năng, giàu nghèo không quân bình tới mức nghiêm trọng. Ruộng đất đều tập trung trong tay thổ hào quyền quý, tham ô hủ bại, quan lại câu kết, hại dân hại nước, khiến bách tính lưu lạc hoang dã, dân chúng lầm than. Trái lại Dương Kiên lại không ngừng tự cường, mạnh yếu nhìn vào là biết.
Khấu Trọng gật đầu nói:
- Đây đúng là một lời trúng đích, Thanh Huệ Trai chủ không lẽ…
Tống Khuyết bình tĩnh nói:
- Nàng trở lại vấn đề dung hòa dân tộc. Vào lúc Dương Kiên đăng cơ ở phương bắc, các dân tộc làm loạn Trung Thổ ta vốn đã bị đồng hóa, hợp lại thành một dân tộc mới, mặc dù có dòng máu ngoại tộc phương bắc nhưng lại cũng không rời nền văn hóa có nguồn gốc lâu bền, quảng bác ưu mỹ của người Hán. Ngoài ra, Hán tộc do phải trường kỳ đối kháng với các dân tộc Tái ngoại đã dưỡng thành tập quán khắc khổ dũng mãnh.
Con người thường sống được trong khó khăn nhưng lại chết vì an nhàn, cho dù Dương Kiên thất bại, phương nam phương bắc, lấy Bắc trị Nam, đó chính là đường lối phát triển tất yếu của lịch sử
Khấu Trọng hỏi:
- Phiệt chủ đồng ý không?
Tống Khuyết mỉm cười đáp:
- Ta thân là người phương nam, dù nghe thấy không được thuận tai, nhưng cũng không thể không thừa nhận nàng quả là nhìn xa trông rộng, nhận định sâu sắc chí lý. Song ta lại cho rằng, giả như hiện thời xuất hiện ở phương Bắc không phải Dương Kiên, còn người kế vị ở phương Nam không phải là Trần hậu chủ hủ bại đến cùng cực, lịch sử liệu có thay đổi không? Nói đến cùng, ai thống trị ai trước sau vẫn là vấn đề ai thịnh ai suy mà thôi. Tống Khuyết ta trước giờ chưa từng chấp nhận rằng sự phát triển của lịch sử có tính tất nhiên không thể cải biến. Chính trị, võ công và thủ đoạn chính là những nhân tố trực tiếp quyết định lịch sử. Tình hình nam bắc đối lập hiện nay trong một mức độ nào đó đã tái hiện lại tình thế năm xưa. Ta muốn dùng sự thật chứng minh cho mọi người thấy, lịch sử là do con người tạo ra.
Khấu Trọng càng lúc càng hiểu rõ sự bất đồng trong tư tưởng của Tống Khuyết và Phạm Thanh Huệ, đó chính là vì góc độ lập trường khác nhau. Nếu như Tống Khuyết là người phương bắc thì đã không có chỗ cho tranh luận rồi.
Với tài năng và chí khí của Tống Khuyết, tuyệt không chịu phục dưới trướng của người Hán đã bị Hồ hóa, ông càng không tin tưởng vào người phương Bắc vì cho rằng bọn họ khó mà phân định rõ giới tuyến với người Hồ. Hành vi của bọn người Lưu Vũ Chu, Lương Sư Đô lại càng làm tăng thêm định kiến của ông. Nói cho cùng Lý Uyên khởi binh từng mượn lực lượng của người Đột Quyết, đến hiện tại vẫn có quan hệ mật thiết với người Đột Quyết. Quân Đột Quyết của Khả Đạt Chí lại là cốt cán trong Trường Lâm quân của Lý Kiến Thành. Với những tình huống như vậy, việc Tống Khuyết khởi binh bắc thượng là việc đương nhiên.
Triệu Đức Ngôn trở thành quốc sư của Đông Đột Quyết cũng là vì khuếch trương môn phái mà mượn lực lượng của ngoại tộc. Bất luận Ma Môn hay Từ Hàng Tĩnh Trai đều thuộc hệ thống văn hóa phương Bắc, song Tống gia Tống Khuyết chính là cột trụ của văn hóa phương Nam, giương cao ngọn cờ giữ gìn huyết thống người Hán. Tống Khuyết và Lý phiệt không ngừng tranh chấp, thậm chí chính diện giao phong, chính là thể hiện sự tranh chấp vì khác biệt bắc nam.
Tống Khuyết nói đúng, lịch sử là do người tạo ra. Nếu như không có Tống Khuyết, Khấu Trọng thì ai thắng, ai bại? Có thể nói không nói cũng biết hoặc cũng có thể dự kiến.
Khấu Trọng nói:
- Phiệt chủ đã biết Trần Hậu chủ vô năng, sao lúc đó không giành lấy vương vị, đối kháng Dương Kiên?
Tống Khuyết bật cười:
- Ta lúc đó vẫn là hàng vô danh tiểu tốt, cho đến khi đánh bại người được xưng là Thiên Hạ Đệ nhất đao – Bá Đao Nhạc Sơn, thanh danh mới nổi lên, đăng lên chức vị phiệt chủ. Lúc đó ta lập tức chỉnh đốn Lĩnh Nam, trước tiên bình định mối lo dị tộc, liên kết với chư hùng phương nam. Khi đó Dương Kiên dùng thế gió mạnh quét lá để bình định phương nam, muốn tiến quân Lĩnh Nam, bị Tống Khuyết ta dùng một vạn tinh binh chống đỡ hơn mười vạn đại quân. Tống Khuyết ta đánh đâu thắng đó, khiến Dương Kiên không tiến được bước nào đành phải cầu hòa. Ta biết thời gian còn chưa thích hợp nên đã thụ phong làm Trấn Nam Công. Hai bên nước sông không phạm nước giếng, ta chưa từng hành lễ gì với Dương Kiên. Thế nên Dương Kiên trước khi băng hà vẫn còn vì việc chưa thu phục được Tống Khuyết ta mà canh cánh trong lòng.
Tiếp đó lạnh giọng nói:
- Người phương bắc thống trị phương nam thì sao chứ. Chỉ cần sinh ra một tên Dương Quảng, thiên hạ lại rơi vào loạn cục tứ phân ngũ liệt. Nguyên nhân bên trong không những vì Dương Quảng hà khắc nhiễu dân, thích việc lớn hám công to, làm quốc lực hao tổn, mà còn chứng minh ta không xem trọng người Hán bị Hồ hóa là đúng. Dung hòa dân tộc không phải việc một sớm một chiều, giết Dương Quảng lại chính là Vũ Văn Hóa Cập, một người Hồ không hơn không kém. Muốn chấn hưng Trung Thổ, cho bách tính có được những ngày tháng an nhàn tất phải kiên trì Hán thống mới có hi vọng. Thiếu Soái cần phải nhớ kỹ những lời này của ta.
Khấu Trọng gật đầu đồng ý, cảm thấy gánh nặng trên vai càng nặng thêm, lại càng thấy việc Tống Khuyết dặn dò từng bước như vậy có chút không ổn.
Gã nhịn không được nói:
- Lấy Nam trị Bắc chính là mục tiêu tối cao của Phiệt chủ, mọi thứ còn lại đều là thứ yếu. Nếu đã là vậy Phiệt chủ cứ cự tuyệt khiêu chiến của Ninh Đạo Kỳ, dứt khoát để tiểu tử đi nói với ông ta người trong thời gian này đang bế quan, còn phiệt chủ thì quay lại chủ trì đại kế công đả Giang Đô.
Hai mắt Tống Khuyết lộ ra thần sắc luyến tiếc, nhẹ nhàng nói:
- Ta không muốn gạt ngươi. Đề nghị này của ngươi thật có sức hấp dẫn kinh người với ta. Thế nhưng người đến hạ chiến thư lại là ái đồ của Thanh Huệ, mà trên người Phi Huyên ta lại nhìn thấy Thanh Huệ, tựa như hóa thân của nàng, hoàn toàn khiến ta không thể nào từ chối được. Nếu đã quyết định, Tống Khuyết không khi nào nuốt lời. Thanh Huệ hiểu quá rõ tính cách của ta và tình cảm của ta với nàng, chiêu này quả thật đã đánh trúng chỗ yếu của ta. Nàng muốn ta tỏ rõ quyết tâm tương trợ ngươi giành thiên hạ, ta sẽ dùng hành động chứng minh một cách rõ ràng. Trên thiên hạ chuyện có thể làm ta động tâm không nhiều, Ninh Đạo Kỳ là một trong số đó, lại thêm Thanh Huệ, bảo ta làm sao từ chối.
Khấu Trọng nghẹn họng không nói tiếng nào.
Tống Khuyết mỉm cười nói:
- Chúng ta dùng cây đóng một chiếc bè được chứ?
Khấu Trọng ngạc nhiên hỏi:
- Chúng ta phải đi đường thủy sao?
Tống Khuyết đáp:
- Ninh Đạo Kỳ đang đợi ta ở Tịnh Niệm Thiền Viện, đi đường thủy thì có thể giảm chút sức lực, lại có Thiếu Soái đi cùng, ta có thể đỡ được sức chèo lái. Tĩnh tọa vài canh giờ, tối mai ta sẽ quyết chiến với Ninh Đạo Kỳ ở Tịnh Viện, xem thử ai là đệ nhất ở Trung Thổ.
oo
Từ Tử Lăng và Âm Hiển Hạc vượt tường thành rời Hán Trung ngay trong đêm. Đi xéo về hướng Bắc, tiến sâu vào dãy núi Tần Lĩnh, bắt đầu thể hội sâu sắc tình cảnh băng tuyết bao phủ.
Trên đường tuyết ngập đến đầu gối, tuyết trên cành cây đóng lại thành băng trong suốt, mỗi khi gió thổi qua những bông tuyết lả tả rơi xuống như là một thế giới khác.
Gió tuyết nổi lên, không thấy người đi trên đường.
Trên trời mây đen trĩu nặng, tuyết lớn sẽ đổ xuống bất kỳ lúc nào.
Âm Hiển Hạc quay đầu nhìn hai hàng dấu chân dài dằng dặc nói:
- Dù người của Đại Minh Tôn giáo không nản lòng đuổi theo bọn ta, nhất định cũng đuổi không được.
Từ Tử Lăng quan tâm hỏi:
- Huynh không bị thương chứ?
Âm Hiển Hạc đáp:
- Khỏi nhiều rồi! Chỉ là khí huyết vẫn chưa thông suốt! Công phu của Liệt Hà tựa hồ còn hơn cả Hứa Khai Sơn, thật là kì lạ.
Từ Tử Lăng nói:
- Vì Hứa Khai Sơn vẫn chưa hết nội thương, nếu không chúng ta muốn thoát thân cũng phải tốn nhiều công phu. Thật là kì quái!
Âm Hiển Hạc ngạc nhiên hỏi:
- Ngươi nói kỳ quái ở mặt nào?
Từ Tử Lăng đáp:
- Ngày đó lúc ở Long Tuyền, người của Đại Minh Tôn Giáo không coi trọng Ngũ Thải Thạch lắm, chí ít cũng không toàn lực tranh đoạt, bây giờ lại muốn lấy cho bằng được, khiến ta cảm thấy kỳ quái.
Âm Hiển Hạc gật đầu đồng ý:
- Trừ phi bọn chúng không muốn ở lại Trung Thổ, bằng không không nên chọc vào ngươi.
Từ Tử Lăng giật mình nói:
- Ta hiểu rồi!
Âm Hiển Hạc ngạc nhiên:
- Hai câu vừa rồi của ta lại gợi ý gì cho ngươi sao?
Từ Tử Lăng cười nói:
- Đúng là như vậy. Sự thật là bọn chúng không muốn ở lại Trung Nguyên, lại muốn rời khỏi Tái ngoại, đến một nơi có thể phát dương quang đại Đại Minh Tôn Giáo. Bất luận Tái ngoại hay Tái nội bọn chúng đều có kẻ thù đầy rẫy, chỉ mỗi Thạch Chi Hiên đã đủ cho bọn chúng thấp thỏm lo âu, Bồ Tát của Hồi Hột cũng không tha cho bọn chúng.
Âm Hiển Hạc không hiểu hỏi:
- Bọn chúng còn chỗ nào để đi nữa?
Lúc này hai người đã vượt qua một đỉnh núi, đang men theo quan đạo xuống núi.
Từ Tử Lăng nói:
- Đương nhiên là đi đến nơi phát sinh ra Đại Minh Tôn Giáo – Ba Tư. Chỉ có ở đó Ngũ Thải Thạch mới có giá trị và tác dụng lớn nhất. Bọn chúng chỉ cần bịa ra một câu chuyện dễ nghe, đem Ngũ Thải Thạch trả về chỗ cũ thì có thể có một cuộc sống khác, nếu không thì chỉ ngồi chờ chết mà thôi.
Âm Hiển Hạc vui vẻ nói:
- Tử Lăng suy đoán thật hợp tình hợp lý, ta không tìm được chỗ sơ hở nào.
Hắn lại tiếp:
- Nếu Ngũ Thải Thạch trở thành lối thoát duy nhất của bọn chúng và là thứ để bọn chúng có thể trùng chấn uy phong thì chúng nhất định không bỏ qua cho chúng ta.
Từ Tử Lăng nói:
- Cái đó thì thật không còn gì hơn, Hiển Hạc không phải muốn giành lại công đạo cho An Nhạc Bang chủ sao? Chúng ta sẽ kết thúc chuyện này trước khi đến Trường An.
Âm Hiển Hạc chau mày:
- Nếu Tử Lăng đã có ý này sao lúc nãy không đánh đến cùng với bọn chúng xem sự thật thế nào.
Từ Tử Lăng nói:
- Lúc trước quyền chủ động thuộc về bọn chúng, lão ca ngươi lại chưa tỉnh rượu, công lực đại giảm, đánh tiếp kẻ thiệt thòi chính là chúng ta. Hiện tại bọn ta dành sức chờ sẵn để đánh phủ đầu bọn chúng, lại có thể biến hóa về mặt chiến lược, cái đó chính là tình huống thay đổi lúc này lúc khác.
Âm Hiển Hạc bật cười:
- Chẳng trách Khấu Trọng và Từ Tử Lăng có thể danh chấn Tái nội Tái ngoại. Ở gần các người càng lâu, càng cảm thấy các người gan to bằng trời, hành động quỷ thần khó đoán, rất nhiều thứ người thường không bằng được.
Từ Tử Lăng nói:
- Tâm tình của huynh đã cải thiện nhiều rồi!
Âm Hiển Hạc gật đầu nói:
- Không biết có phải bị ngươi ảnh hưởng không ta đột nhiên cảm thấy hoàn cảnh trước mắt vô cùng lạc quan. Thật ra tình cảnh của ngươi không tốt hơn ta bao nhiêu. Cũng là một nút chết hầu như không giải quyết được, song ngươi vẫn dũng cảm đối diện. Vấn đề của ta đơn giản hơn ngươi, Kỉ Thiến hoặc là biết được chỗ ở của tiểu muội hoặc là không biết, đến Trường An tự nhiên sẽ rõ. Nếu lão Thiên gia không muốn cho huynh muội ta gặp nhau thì ta cũng chỉ còn cách nhận mạng. Sau đó ta sẽ tận lực hỗ trợ Tử Lăng hóa giải trường đại tai kiếp này của Trung Nguyên, hi vọng có thể tích chút phúc đức cho Tiểu Kỷ.
Từ Tử Lăng hiểu ra, nguyên nhân khiến Âm Hiển Hạc chuyển biến tích cực chính là do gã đã kích thích tính hiệp nghĩa trong lòng hắn, khiến hắn tìm được mục tiêu của cuộc sống.
Gã cảm thấy rất an ủi, nói:
- Yên tâm đi! Ta tin tưởng huynh có thể cùng lệnh muội trùng phùng. Ý! Mùi gì thơm vậy?
Âm Hiển Hạc ngước mũi ngửi ngửi:
- A! Là mùi hương rất quen thuộc! Nếu ta không lầm thì có người đang nướng thịt sói ở phía trước. Ta từng ăn qua vài lần thịt sói nướng ở tái ngoại. Vị thịt thật không tệ.
Hai người băng qua hiệp đạo, xa xa phía trước bên quan đạo lấp lánh ánh lửa, mùi hương chính là từ đó truyền tới.
Âm Hiển Hạc nói:
- Là một dịch trạm, thật không ngờ vào lúc trời rét như cắt thế này vẫn có người lưu trú.
Từ Tử Lăng nói:
- Cho dù có người lưu trú lẽ ra cũng đã sớm lên giường trùm chăn rồi, sao lại còn nổi lửa nướng thịt, lại là thịt ác lang.
Âm Hiển Hạc cười:
- Tử Lăng lúc nào cũng nghĩ xa hơn tiểu đệ, chúng ta nên đi thẳng bỏ qua chỗ đó hay là tiến vào dịch trạm chia một phần thịt.
Từ Tử Lăng nói:
- Qua cửa là khách, đương nhiên là vào xem thế nào, Hiển Hạc huynh nghĩ sao?
Âm Hiển Hạc vui vẻ nói:
- Mọi việc cứ theo ý của Tử Lăng.
Hai người cười cười nói nói đi về phía dịch trạm.
Tuyết vẫn đổ xuống càng lúc càng dày, cả vùng núi như chìm trong tuyết trắng mênh mông.
(