Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.
Chuyển ngữ: Andrew Pastel
Tuy trấn Trung Đô cũng gần huyện Bình Dao, nhưng thấy trời cũng gần tối, nên Đàm Trình và Ngô Hải ở lại Bình Dao tìm chỗ ở, ăn uống linh tinh chờ sáng mai rồi mới lên đường luôn.
Trung Đô tuy chỉ là trấn nhỏ, nhưng vì gần Bình Dao nên phát triển kinh tế cũng rất khá. Đàm Trình cầm bản đồ địa hình Bình Dao, cẩn thận đối chiếu lại bản vẽ của Túc Cảnh Mặc cho cậu trong ký ức, rất nhanh khoanh vùng được một dãy núi cạnh Trung Đô km về phía Bắc.
Tuy rằng dãy núi này không trùng trùng điệp điệp như Túc Cảnh Mặc vẽ, nhưng nó ắt là cũng đã bị san bằng vài núi con để lấy đất xây thôn xóm.
Học khảo cổ dĩ nhiên sẽ học luôn kiến thức phong thuỷ kinh điển cổ. Trong thuật ngữ của Phong thủy, người xưa thường có câu: “Nhập sơn tầm Thuỷ Khẩu – Đăng cục khán Minh Đường.” (tạm dịch: Vào núi tìm mạch nước chảy, leo lên đỉnh hang nhìn bao quát phong cảnh trước mặt) Câu trên đều cập đến chuyện thầy phong thủy vào núi tìm mạch nước để đặt mộ, đầu tiên phải tìm được nguồn nước, rồi xác định nó đi đâu về đâu, đồng thời phải chú ý khung cảnh trước nơi đặt mộ (Minh Đường) như thế nào. Tuy quốc gia giờ đang định hướng theo chế độ xã hội chủ nghĩa vô thần, nhưng phong thuỷ đến tận bây giờ người ta luôn rất coi trọng, chứ đừng nói chi người xưa tôn thờ thần linh và số trời.
Câu cửa miệng nói “Sơn quản nhân đinh, thủy quản tài”, là ý chỉ khi chọn nơi đặt lăng tẩm, thế của dòng nước xung quanh có ‘cát’ hay không cũng ảnh hưởng đến sự thịnh vượng của thế hệ sau này. Nếu nguồn nước chảy đến nơi thông thoáng rộng rãi sẽ biểu thị đời sau tài vận tốt. Dòng nước bị chặn bởi nhưng ngọn núi biểu thị cho sự tránh thất thoát, con cháu giữ được lộc. Thủy khẩu cũng giống như cổng lớn một căn nhà. Nếu hướng nước có hai ngọn núi cao hai bên, nước chảy ở giữa, là thế ‘lưỡng sơn giáp nhất thủy’. Thủy quản tài, là vận may. Hai ngọn núi kẹp lấy nước tượng trưng cho việc giữ được tiền tài, biểu thị con cháu đời sau có vận tốt, tránh hao tài.
“Long thật, huyệt mới thật. Tàng phong nạp thủy, sơn thủy hữu tình, mới có thể trợ giúp tài vận cho chúng ta. Sơn long và thủy long cần phải giao nhau, vậy thì Minh Đường mới tốt, mà minh đường tốt, huyệt mới tốt.”
() Ko hiểu gì hết, mà túm lại vị trí nó na ná thế này =]]
Cái Đàm Trình và Ngô Hải cần tìm được là chỗ giao nhau giữa sơn long và thủy long, mà từ chỗ giao nhìn lại, đường nước chảy phải có núi non ngăn cản. Nhưng để tìm được giữa cả dãy núi trùng trùng điệp điệp này thì thật quá khó.
Vừa phải nhìn bao quát vừa leo núi, Đàm Trình thở hổn hển nói: “Mấy phong thủy này tôi chỉ biết sơ sơ thôi, thêm mấy cái chiêm tinh nữa thì tôi cũng không hiểu gì.”
Ngô Hải đi phía sau Đàm Trình ba bốn tiếng liên tục cũng hết sức, cậu ta gào lên: “Hay nghỉ một lát đi, tôi mệt muốn xỉu.”
Đường núi không thường có người đi, nên cỏ dại mọc thành cụm. Vừa dứt lời Ngô Hải liền tìm một phiến đá bằng phẳng rồi ngồi phịch xuống, túm chiếc mũ trên đầu ra hồng hộc quạt gió.
Nhìn qua khe hở giữa những tán lá, Đàm Trình đoán chắc cũng bữa trưa rồi, mặt trời chiếu thẳng đỉnh đầu, thỉnh thoảng gió nhẹ thổi qua, lá cây úa vàng rung lên xào xạc rồi rơi rụng lả tả.
Ngô Hải nheo mắt nhíu mày, “Tháng mười rồi mà còn nóng thế này.”
Đàm Trình cũng đổ mồ hôi đầy đầu, ngồi xuống gốc cây lấy bình nước ra tu ừng ực mấy hớp liền.
“Haaaa….” Nước lạnh vào bụng làm Đàm Trình cảm thấy cả người thoải mái hơn rất nhiều, “Nghỉ ngơi một lúc rồi lên đỉnh núi nhìn bao quát tình hình cái đã, sau đó thì xuống núi đi. Chúng ta không có kế hoạch gì cụ thể, cũng không nắm rõ khu này, tôi nghĩ nên nhờ một dân bản xứ dẫn đường.”
Ngô Hải gật đầu, “Hợp lý, lạ nước lạ cái mà một mình xông lên núi, nhỡ lạc đường thì không biết làm sao.”
“Tìm dân bản xứ nào mà thạo đường một chút, chứ cả khu núi lớn thế này, biết tìm từ đâu?” Tuy chưa đến đỉnh nhưng bọn cậu cũng đang ở giữa lưng chừng, tầm nhìn cũng bắt đầu bao quát. Ngô Hải phóng tầm mắt nhìn mấy ngọn núi đằng xa, “Lúc trước có nghe mấy báo chí đưa tin tổ chức trộm mộ Cát Lâm bị bắt giữ, nói là thủ lĩnh bọn chúng không cần la bàn, chỉ căn cứ vào dòng nước, dãy núi, với vị trí ngôi sao là có thể xác định được vị trí cổ mộ. Giờ ngẫm lại thấy mình chẳng bằng % bọn chúng, không có thiết bị đúng là không biết làm sao.”
“Đúng thật, mỗi lần đi khảo cổ toàn là người khác phát hiện khu mộ rồi chúng ta khai quật, giờ cũng là lần đầu tiên tự mình tìm cổ mộ,” Đàm Trình lắc đầu cười cười, “Sau khi trải nghiệm tự mình đi kiếm cổ mộ thì mới phát hiện thấy mình giống mình học quản lý cổ vật hơn là khảo cổ.”
Nếu không phải nhờ Túc Cảnh Mặc nói cho cậu vị trí, cậu chỉ sợ cũng không tìm thấy dãy núi này. Khẽ cảm ơn trong lòng, Đàm Trình lấy ra giấy bút vẽ lại vị trí núi non trước mặt.
Ngô Hải nhìn nhìn bao quát những ngọn núi một lúc, bỗng nói: “Nếu dựa theo thuyết phong thuỷ, thì tôi thấy ngọn núi bên kia có vẻ tốt.”
Nghe Ngô Hải nói thế, Đàm Trình vội gấp giấy bút lại đến bên cạnh cậu ta: “Núi nào thế?”
“Bên kia,” Ngô Hải chỉ ngón tay qua bên phải, “Hướng hai giờ. Long thủy hướng hợp xứng, mà bên kia núi trống trải, tầm nhìn rộng lớn, bên kia dòng nước hướng lại cũng có dãy núi trùng điệp ngăn trở.”
Đàm Trình cẩn thận quan sát một lát, cũng gật gật đầu, “Cậu có mang theo la bàn không?”
“Tôi không phải thầy phong thủy, sao nhớ phải mang theo la bàn.”
Đàm Trình nhớ Túc Cảnh Mặc có nói qua, đối diện lăng mộ phụ thân của Túc Cảnh Mặc có một ngọn núi rất lớn, trông giống như một hang hổ, theo cách nói lúc đó, tuy nơi đặt lăng mộ phụ thân Túc Cảnh Mặc phong thủy rất tối, nhưng lại có một ngọn núi giống một cái hang hổ hướng bên trái, trùng hợp lúc ấy lại có tộc Man nhân lớn mạnh phía bắc đang chiến tranh với Đại Tự, thế này biểu thị Đại Tự đưa lưng về phía hang hùm, thật sự là điềm xấu. Nhưng khi uần thần phát hiện vấn đề này thì phụ thân Túc Cảnh Mặc đã băng hà rồi, đế lăng đã xây xong lại không biết nên táng hạ hay không. Lúc ấy đăng cơ Túc Cảnh Mặc chỉ nói một câu: “Lăng mộ của trẫm xây ở ngọn núi phía bắc lăng của phụ hoàng đi.”
Núi hang hùm ở phía bắc không còn là Man tộc mà trở thanh nhi tử của tiên hoàng, đại thần hiểu ý tứ này, cũng liền táng hạ cho tiên hoàng.
Nhưng sau đó tại sao Túc Cảnh Mặc lại bị an táng ở thôn Ninh Hóa Tây An, thì không ai biết.
Nghĩ đến đây, Đàm Trình nhìn Ngô Hải nói: “Tôi nghĩ trước mắt mình cứ xuống núi tìm dân bản xứ nhờ dẫn đường cái đã.”
“Cũng được.” Ngô Hải chỉ chỉ một thôn làng nhỏ dưới chân núi, “Hay tới đó hỏi xem, làng này gần núi nhất, chắc họ biết rõ.”
Đàm Trình gật đầu, “Ok.”
Nhưng mà chân núi nhìn gần, cũng chỉ khoảng km thôi nhưng đường núi không dễ đi, bọn cậu mất cũng đến mấy tiếng mới đến nơi.
Thôn làng không lớn, giao thông cũng không tốt, càng không có gì để khai phá du lịch, làng này hẳn là làng nghèo nhất trấn Trung Đô, vì trong làng tính ra cũng có hai ba mươi hộ dân, mà hơn một nửa nhà cửa là nhà gạch ngói và cửa gỗ từ mấy chục năm về trước, rất ít hộ dân có nhà trệt.
Có lẽ mọi hôm cũng chẳng có ai ghé thăm, nên thấy Đàm Trình và Ngô Hải mang ba lô du lịch to tướng, mang giày và trang phục leo núi, cầm dụng cụ camera đến, không ít người dân ra hỏi thăm bọn cậu, trông rất hiếu khách.
“A, tụi em là sinh viên, tranh thủ nghỉ lễ lên đây du lịch.”
“Tới ngắm cảnh à? Mà ngắm cảnh sao lại mang nhiều đồ thế kia?”
Cậu và Ngô Hải tới đây vì mục đích không đơn thuần, nếu để họ phát hiện là khảo cổ thì rất phiền, nên Đàm Trình trả lời: “À, tụi em là sinh viên địa lý, định lên đây thăm dò xem có mỏ than đá hay không.”
“Xem thử thôn này có than đá không à?” Một người đàn ông khoảng tuổi, khá thấp bé, mặc một chiếc áo ngả màu cháo lòng, nhằn một sợi rơm trong miệng nói: “Nếu chỗ tụi tui có than đá thì tốt rồi! Thành mỏ vàng đen Đại Đồng thứ hai ở Sơn Tây, chẳng mấy chốc mà giàu!”
Ngô Hải đánh mắt sang Đàm Trình đang nói dối, rồi quay đầu lại cười với người đàn ông, đưa đẩy theo: “Đúng vậy, mỏ than ở Sơn Tây rất phong phú.”
Ba người chào hỏi trò chuyện một lúc, thì bên kia có tiếng người nhà gọi người đàn ông về ăn cơm
Người đàn ông vẫy vẫy tay với vợ rồi quay đầu lại, rất nhiệt tình nói: “Tui thấy mấy cậu là người nơi khác, giờ cũng giữa trưa rồi, nếu không chê, mấy cậu ghé nhà tui ăn bữa cơm quê nha, chỗ này vắng vẻ, không có tiệm cơm giống trong trấn đâu.”
Đàm Trình cà Ngô Hải liếc nhau, gật đầu cười nói: “Vậy phiền anh rồi.”
“Ha ha, phiền gì mà phiền! Thôn tụi tui luôn hiếu khách mà! Tui họ Đường, tên Đường Kiệt, không biết hai cậu đây tên gì?”
“Em tên Đàm Trình, đây là bạn cùng lớp với em, tên Ngô Hải.”
Nhà của người đàn ông họ Đường này cũng là kể nhà mấy chục năm trước, trong nhà cũng có vài đồ điện nhưng cũng đã rất cũ.
Dân quê luôn hiếu khách, có khách đến là ra sân bắt gà làm tiệc ngay, ba người uống chút rượu, vừa ăn cơm vừa trò chuyện.
“Thôn tụi tui ít người quá, mấy đứa trẻ trẻ nó lên Chiết Giang làm công hết rồi, ở lại đây toàn mấy người trên ba mươi thôi à.”
“Anh Đường, thôn này là người nhà họ Đường hết phải không anh?”
“Làm gì có!” Người đàn ông hớp một ngụm rượu trắng, cười nói: “Phía bên kia sông có hơn mười nhà họ Nhạc, còn bên này thì rải rác ba nhà họ Đường, ba nhà họ Lưu, còn có nhà Tề, Trương, La, Chu. Họ Nhạc vẫn nhiều nhất. Lần nào bầu thôn trưởng cũng toàn họ Nhạc! Hừm, bọn họ chèn ép mấy họ nhà khác đó!”
“Vậy nhà Đường các anh là từ nơi khác à?” Thôn nhiều họ Nhạc như vậy, hẳn là trước kia cũng chỉ có họ Nhạc sống ở đây.
“Không không không.” Nói đến đây, Đường Kiệt cả giận nói: “Nhà Đường tụi tui mới là nhà nhiều nhất ở thôn này đó, rất nhiều năm! Nhưng mà nhà Đường không đồng lòng, cứ dần dọn đi hết, chẳng có mấy ai chịu ở lại cái nơi thâm sơn cùng cốc này cả……. Haizz…… Nếu mà chịu đồng lòng chút, thì tụi tui cũng đâu có bị chèn ép như bây giờ đâu.”
“Rất nhiều năm?” Đàm Trình chú ý chi tiết này: “Các anh ở đây khoảng bao nhiêu năm rồi?”
Đường Kiệt uống rượu trắng đã ngà say, mặt đỏ lựng, “Cũng không biết nữa, ông bà chắc biết ……”
—
note: Dân thôn này nói giọng Sơn Tây nên mình có hơi sửa thành giọng…. tây nam bộ VN