Có lẽ tôi đã hiểu lầm gì đó, lúc tôi khăng khăng quyết định nhận nhiệm vụ kia, khuyên can nơi đáy mắt Ryan lại giống khẩn cầu hơn. Nhưng thầy ấy khôi phục lại thái độ bình thường rất nhanh, lại trở về là một người thầy giáo tác phong nhẹ nhàng, khiến người ta không thể bới móc ra sai lầm, nói cho tôi những điều cần chú ý trong chuyến đi này, sau đó đứng dậy tiễn tôi.
“Tính mạng của chiến sĩ là quan trọng nhất” Thầy nói “Nếu em thấy mình không đủ khả năng, thầy sẽ không lấy lý do nhiệm vụ thất bại để trách em”
Tôi nói với thầy: “Em hiểu. Đất nước sẽ không để chiến sĩ của mình chết uổng, đúng không thầy?”
Ryan không trả lời câu hỏi này của tôi, dặn dò thêm tôi đi tìm tài liệu có liên quan đến Phổ Quốc.
Về Phổ Quốc, thật ra tôi đã lật xem không ít sách trong thư viện trường. Ở đó, khả năng tôi có thể tiếp xúc tài liệu thực tế của Phổ Quốc vô cùng ít ỏi, dẫu nó là một trong những nước láng giềng của Gerundnan, gút mắc có liên quan giữa hai nước cũng chỉ là vài nét bút trên sách sử. Thời đại hoàng kim kéo dài đến bảy mươi năm, trong thời gian đó lửa đạn chưa từng chấm dứt, bản đồ các quốc gia trên thế giới đều có biến hóa ít nhiều. Nếu như nói vào lúc ấy Gerundnan từng xảy ra lục đục với Phổ Quốc, vậy cũng chẳng thể coi là chuyện hãn hữu. Gần đây tôi tra được ghi chép còn lại của các chiến dịch, vào Thời đại hoàng kim, tức trong khoảng thời gian từ tân lịch đến , Phổ Quốc cùng Gerundnan đã xảy ra chiến sự ——có điều so với tình hình hỗn chiến của các quốc gia vào lúc đó, đoạn ghi chép này trên sử sách rất ngắn gọn, so ra thì sóng gió phẳng lặng hơn nhiều.
Sau khi được thầy Ryan dặn dò tôi mới nhớ ra mình phải sớm học bổ túc một vài kiến thức của xã hội hiện đại Phổ Quốc. Nhưng thư viện trường lúc này tạm thời đóng cửa vì kỳ nghỉ, tôi lập tức nghĩ tới một địa điểm lưu trữ sách phong phú khác.
Khi móng trước của ngựa bay đáp xuống mảnh đất bằng quen thuộc kia, lòng tôi ít nhiều cũng có chút xúc động. Đã rất nhiều năm rồi tôi chưa từng trở lại chốn này. Sau khi tôi rời đi năm mười ba tuổi, tôi đã từng lặng lẽ trở về mấy lần, nhìn nó từ xa——chỉ nhìn mỗi trang viên này. Chờ tới khi tôi vào học Hoftas thì không còn trở về nữa.
Thời tiết rất tốt, tôi bước từ trên ngựa bay xuống, nhảy tới trước mặt cái người chờ bên ngoài trang viên. Hắn cao lớn không ít so với lần trước tôi thấy, giờ đã cao gần bằng tôi.
“Dạo này em thế nào Redmonton?”
Tôi nhìn hắn hỏi. Hắn ăn mặc rất chỉnh tề, áo sơ mi màu sợi đay, áo gi-lê và gậy ba-tong, mái tóc quăn xoắn lọn trong gió. Hắn nhìn tôi đầy căm hờn, đột nhiên đi tới cho tôi một cái ôm.
“Bao năm anh không về rồi đấy!” Hắn nói, cũng đập lưng tôi mấy cái, gậy ba-tong có lúc gõ lên đầu tôi “Lúc em nhận được thư anh còn tưởng có kẻ giả mạo chứ”
Tôi giãy ra khỏi ngực hắn, chỉ vào con ngựa bay ngủ gà gật, “Không được mang ngựa vào trang viên à?”
“Không được,” Hắn nhận ra tôi làm khó dễ, vậy nên giọng nói cũng chẳng ngại mà rằng, “Em đã điều động hết tất cả người rảnh rỗi bên này rồi. Nhưng thân ngựa rõ ràng quá, em kiến nghị anh cứ để cho nó ở đây ăn cỏ đi”
Tôi làm theo cách của hắn buộc ngựa lại, con ngựa nhắm mắt, bắt đầu chậm rì gặm cỏ được cắt sửa bằng phẳng trên đất. Redmonton dẫn tôi vào trong, miệng nói không ngừng: “Em tất nhiên là tốt rồi. Năm nay em sẽ vào học viện, em tính vào Hoftas. Không phải Bowei——mặc dù mẹ muốn em vào Bowei học”
Tôi liếc mắt nhìn sườn mặt hắn, chợt cảm thấy thời gian chảy ngược, hơi thẫn thờ.
“Tiếc là em nhỏ hơn anh sáu tuổi,” Tôi nói, “Nếu không anh trai yêu dấu của em nhất định sẽ đặt em bên người để dạy dỗ”
“Anh sẽ không làm thế đâu,” Hắn dở khóc dở cười lên án, “Hồi bé anh chỉ toàn xúi em làm mấy chuyện xấu thôi, lớn lên rồi cũng chẳng thèm về nhà. Mẹ vẫn luôn không chịu cho em vào thư viện, em phải nhõng nhẽo đòi hỏi mới miễn cưỡng khiến mẹ đồng ý cho em dùng chìa khóa một ngày đấy. Anh phải cảm ơn em đó nha Vicente, nếu không mẹ chắc chắn ——”
“À này, phu nhân Shawn,” Tôi cúi đầu, bắt cây gậy ba-tong của hắn tạo dáng, “Bà ấy vẫn đẹp như trước kia chứ?”
Hắn ngừng một chốc, lấy gậy khỏi tay tôi, nói: “Vẫn đẹp lắm”
Sau đó hắn lại im lặng, dẫn tôi tới trước một tòa lầu gác quen thuộc, dùng chìa khóa mở cổng. Hắn đứng ở phía trước, chỉ bước nửa bước chân vào bên trong, đột nhiên quay đầu lại hỏi tôi, “Trước kia mẹ như thế nào?”
Tôi ôm cánh tay, đứng cùng hắn ở cửa. Bụi bặm trong lầu không dày, có thể thấy gần đây được quét dọn, song bên trong vẫn bí mùi sách cũ, chúng tôi lẳng lặng chờ không khí mới mẻ tràn vào.
“Là trước lúc em hai tuổi ấy hả?” Tôi hỏi.
“Em không nhỡ rõ lúc ấy xảy ra chuyện gì,” Cằm dưới của hắn nhẹ nhàng nhướn về phía cổ áo, “Chỉ có thể nghe từ anh. Mẹ——hẳn không phải kiểu người sẽ kể về quá khứ”
“Được rồi” Tôi nói “Nhân lúc rảnh rỗi”
Thật sự thì chúng tôi chưa bao giờ tán gẫu về chủ đề này, hoặc là có lúc nào đứng sóng vai như hôm nay, tâm bình khí tĩnh nói chuyện gì đó. Trước đây hắn còn quá nhỏ, mà trong khoảng thời gian sau khi cha qua đời, tất cả mọi thứ dường như quá vội vàng.
“Hồi đó bà ấy đẹp danh bất hư truyền” Tôi nói, “Lúc cha còn sống, phu nhân Shawn rất hoạt bát, cũng giống như bất cứ mỹ nhân thâm tình lại vô ưu nào. Khi cha bận công chuyện bên ngoài, bà ấy lại ngóng trông ở trang viên, chăm hoa cỏ, làm bánh, thi thoảng cũng vào phòng thăm anh. Bà ấy là một Ma pháp sĩ không đủ tư cách lắm, nhưng đao pháp của cha rất tốt, có lẽ bà rất sùng bái ông——cũng yêu ông vô cùng. Bà ấy không quan tâm đến thứ khác. Bà chưa từng áp đặt anh điều gì không phù hợp với tuổi thơ ấu, đại khái mỗi ngày bọn anh chỉ gặp mặt một lần, rồi bà ấy tới kiểm tra anh làm bài tập đao pháp”
“Bà ấy lúc nào cũng nhắc nhở anh, mai sau anh nhất định phải trưởng thành người như cha. Anh cảm thấy lời của bà có lý ——mãi đến khi cha hi sinh vì nhiệm vụ, những dịu dàng giữa anh và bà vốn do cha duy trì, đều bị sự u ám dài đằng đẵng do cái chết của cha mang đến làm hao mòn không còn chút gì. Khi ấy em chỉ mới hai tuổi, chắc cũng chẳng cảm giác được. Năm ấy tính tình của bà thay đổi lớn, đột nhiên giáng trọng tâm duy nhất lên người anh. Bà ấy ra lệnh cho anh hướng tới tầm cao của cha, bắt anh nuôi thói quen và sở thích của ông ấy, tuân thủ pháp tắc ông hết lòng tin theo, bắt anh học một bộ đao pháp đạt tới phong độ của ông. Anh đánh đàn, vẽ tranh, chơi cờ, ném xúc xắc, luyện đao nhiều hơn——khi đó kỳ thực anh rất hâm mộ em có thể nói những lời ngây thơ, tự do đi tới đi lui dưới căn nhà này. Phu nhân Shawn dốc hết tất cả tâm huyết của mình lên người anh, chỉ mong tạo ra một cái bóng hoàn mỹ, còn sống. Chuyện xảy ra sau đó em cũng biết rồi đấy…anh được mười tuổi”
Redmonton mấp máy môi, bên dưới lớp da mỏng dường như đang kìm nén lời gì đó. Hắn kéo tay tôi lại, nói: “Vicente——”
Tôi đã từng tranh cãi rất trẻ con với Redmonton. Hồi đó do chịu ảnh hưởng bởi người lớn nên hắn cũng không thích tôi mấy, nhưng vẫn không nhịn được sán lại chơi với tôi. Cái chứng nghĩ một đằng nói một nẻo này của hắn sau năm mười tuổi thì hết, bọn tôi tự nhiên có thể trò chuyện tử tế, nhưng khi ấy tôi đã chuyển ra ngoài mấy năm.
“Biểu cảm của bà ấy lúc phát hiện ra anh là Ma pháp sĩ có thể nói là tuyệt vọng” Tôi nhớ lại sắc mặt tái nhợt của phu nhân Shawn, “Bà ấy không hiểu được tâm trạng của anh cũng giống bà, chỉ dùng lời nói chối tai nhất phát tiết sự bi thương của mình, xé mấy quyển sách ma pháp mà anh vất vả lắm mới chịu động đến. Từ đó trở đi bà không còn dành cho anh bất kỳ sự quan tâm nào của mẹ nữa mà quay sang em. Cũng chính khi ấy anh mới hiểu, hóa ra bà chưa từng yêu con trai mình——người bà yêu mãi mãi chỉ có cha anh thôi”
“Có thể mẹ đã thay đổi…” Redmonton nói.
“Em có biết trước kia tên em không phải là Redmonton không?” Tôi nói, “Trước hai tuổi em vốn là Scott Shawn”
“Em không để bụng——em tự hào vì có thể kế thừa tên cha” Hắn thấp giọng nói, “Hơn nữa sau này mẹ không truyền vào đầu em bất kỳ tư tưởng ‘trở thành cha’ nào cả. Con đường trở thành Đao giả sau này là do em chọn”
Tôi ngắm nhìn tên nhóc to lớn đứng bên cạnh, bỗng nhiên trong lòng dâng trào rất nhiều cảm xúc.
“Xem ra bà ấy cũng yêu em lắm,” Tôi nói, “Vậy là tốt rồi”
Vành mắt Redmonton hơi ửng hồng.
Hắn há miệng, chợt kiên định mà nói ngắn gọn: “Anh trở về đi Vicente”
Tầm mắt tôi dừng lại ở mũi giày hắn, rồi chuyển lên đỉnh đầu, duỗi tay sờ tóc hắn. Đây là hành động hồi bé tôi hay làm, tuy nói khi ấy thường chọc cho hắn tức.
“Anh đã xóa tên khỏi gia phả rồi Redmonton,” Tôi bảo, “Năm ấy khi ông nội mất anh đã đoạn tuyệt hoàn toàn với phu nhân Shawn, lúc đó em còn ở bên nhìn vui vẻ lắm”
Tôi nhìn nước mắt sắp chảy ra ngay khi tôi nói xong của quý ngài này, tức thì thầm luống cuống tay chân, không trêu hắn nữa: “Em không phải sợ anh chết đói bên ngoài đâu, ông nội để lại cho anh không ít di sản, cái thư viện này cũng được tính vào đó——đáng tiếc là thư viện xây trong trang viên của phu nhân Shawn, bà ấy không cho anh về thăm. Chẳng phải anh vẫn có thể tới thăm em thường xuyên đấy ư?” Tôi không nhịn được lắm mồm thêm một câu, “Với cả em cũng mười bảy tuổi rồi còn gì”
Hắn tức giận xoay người đi, vừa vặn mùi lâu năm trong lầu gác cũng tiêu tan kha khá, hắn liền giẫm chân cộp cộp lên trên cầu thang. Tôi tự biết đuối lý, yên lặng theo phía sau, chờ tới lúc hắn quay đầu lại, tôi cũng chẳng thể nhìn ra được dáng vẻ của người suýt chảy nước mắt.
Hắn chỉ về phía trước, nói với tôi: “Anh xem”
Ký ức về khung cảnh trong phòng vẫn còn mới mẻ với tôi: chừng hai mươi giá sách xếp thành đường chéo, hai cánh cửa sổ lớn, một cửa sổ mái, một cái bàn tròn nhỏ bằng gỗ sơn mài, hai chiếc ghế kê đối diện. Tôi cẩn thận vuốt ve mặt ngoài của chúng, phát hiện mặt trên còn mang theo nhiệt độ được chiếu sáng.
“Em không vào à?” Tôi hô lên với Redmonton ở cửa.
“Em ở đây chờ anh” Hắn nói.
“Không cần phải kiêng kỵ di chúc đâu,” Tôi nói, “Nhanh coi, mau tới giúp anh tìm thứ liên quan tới Phổ Quốc——tốt nhất là phong thổ, cơ cấu xã hội ấy”
Hắn nhẫn nhịn chịu khó lên xuống cùng tôi, mặt xám mày tro. Chỉ trong chốc lát bàn nhỏ đã xếp một chồng sách, tôi nhanh chóng sao chép vào vở, hắn ngồi đối diện nhìn tôi viết chữ.
“Anh có biết nguyên nhân cái chết của cha năm đó không?” Hắn nhân lúc tôi lật sách thì hỏi.
“Chỉ biết là hy sinh vì nhiệm vụ” Tôi nói, “Ngay cả chức vụ cụ thể của ông ấy anh cũng không rõ lắm, phu nhân Shawn cũng chưa từng đề cập những thứ này với anh”
“Di vật của cha đến nay vẫn chưa tìm lại được” Giọng điệu của Redmonton nghe có hơi chán nản, “Em không biết đó là cái gì, mẹ không chịu nói cho em——có thể có di vật nào đó được để lại trong thư phòng không?”
“Anh cũng không đoán ra được” Tôi nói, “Nó lại không giống tủ trang điểm của phu nhân Shawn”
Tôi rút một quyển sách khác ra xem, nghe thấy Redmonton lại hỏi: “Anh có biết tên trộm đó về sau như thế nào không?”
“Cô ta bị bên Shawn tóm được, rồi vào tù,” Tôi vừa viết vừa đáp, “Về sau chết rồi”
“Không nói ra hướng đi của di vật à?”
“Ừ” Tôi nói.
Có lẽ Redmonton ý thức được gì đó nên không truy hỏi vấn đề liên quan đến người kia nữa. Nhưng cho dù thế, gương mặt của Rosalind vẫn không thể ngăn cản hiện lên trước mắt tôi.
Phải lâu lắm rồi tôi không nhớ tới cô ta. Đó là người gần như trải qua cùng tôi cả thời thơ ấu——lúc tôi sinh ra, cô ta cũng phải mười chín tuổi rồi, đầu óc lanh lợi, hiểu chút ma pháp, làm người hầu bên người và một người bạn, lấp đầy tất cả khoảng trống của từ “mẹ” còn thiếu trong tôi. Cô ta chăm sóc tôi chu đáo tỉ mỉ, gọi tôi rời giường, bện vài món đồ chơi nhỏ thú vị cho tôi, chạy tới nhà bếp làm cơm lúc tôi đói, trước khi ngủ đọc cho tôi những câu chuyện đầy ảo tưởng, thậm chí còn dùng tiền công của mình lén mua cho tôi kẹo. Trong một khoảng thời gian sau khi cha qua đời, tia sáng duy nhất trong cuộc sống của tôi chính là những câu chuyện cô ta đọc trước khi ngủ. Khi đó cô ta không xa lánh tôi vì thái độ của phu nhân Shawn như đại đa số người, vẫn đối xử tốt với tôi như trước đây.
Lúc tôi tám tuổi thì cô ta hai mươi bảy. Chúng tôi khi ấy đã có tình cảm rất sâu đậm, tôi ỷ lại cô ta còn hơn ỷ lại mẹ ruột——nếu như lúc đó tôi có thể nói là ỷ lại.
Tôi nói với cô ta: “Sau này cô đừng kết hôn được không cô?”
Cô ta cười hỏi tôi: “Vì sao vậy?”
Tôi rất ngây thơ mà rằng: “Nếu như ngày nào đó cô có con trai mình rồi thì sẽ không còn yêu con như bây giờ nữa đâu”
Cô ta vẫn giữ nụ cười trước mặt tôi, nhưng trong hốc mắt lóng lánh, tựa như ngấn lệ.
“Được,” Cô ta nói “Cô cam đoan với con, con là đứa con duy nhất của cô”
Thực tế, khi ấy phu nhân Shawn đang thay máu người làm trong trang viên, có không ít người già làm việc rất nhiều năm bị thuyên chuyển ra ngoài. Tôi chỉ lo Rosalind cũng sẽ rời đi, thường xuyên nói với cô ta về sự lo lắng của mình.
“Con đừng lo,” Khi ấy Rosalind nói với tôi, “Nhỡ mà cô có bị điều đi hoặc bị đuổi ra ngoài, con vẫn có thể dùng điệp thư liên lạc với cô mà. Con chỉ cần nhớ hình dáng điệp thư của cô, đừng nhầm với của người khác là được”
Tôi lúc ấy đang lo lắng, làm như có thật vẽ hơn trăm bức hồ điệp của cô ta, như thế mười năm hai mươi năm sau tôi vẫn có thể nhớ như in từng chi tiết nhỏ của hồ điệp. Nó có màu xanh nhạt, cuối cánh điểm vàng nhạt, mỗi bên có ba đường tua rua.
Chuyện còn lại tôi không muốn nhớ lại lắm. Ví dụ như cô ta làm thế nào cầm chìa khóa cùng một túi đồ từ thư phòng của cha tôi, vẻ mặt kinh hoàng hạ bùa chú mất trí nhớ lên tôi ở ngoài cửa. Hành động này của cô ta vẫn kinh động đến một số người, khiến cô ta không thể không nhanh chóng bỏ chạy ra ngoài. Ký ức của tôi khoảng thời gian đó rất lộn xộn, sự tồn tại của cô ta cùng những gì có liên quan biến mất hoàn toàn. Tôi phối hợp với sự điều trị của thầy thuốc, cưỡng ép mọi ký ức thoát khỏi áp chế của ma chú. Người thầy thuốc kia tóc hoa râm, trán điểm mấy vệt lốm đốm màu nâu, lúc nào cũng thương tiếc mà rằng: “Nhưng vầy cũng tốt, sau lần này, cháu có thể thuộc làu cách giải bùa chú mất trí nhớ…”
“Vicente? Vicente!” Tôi bị một giọng nói gần ngay bên kéo ra khỏi hồi ức.
Vẻ mặt căng thẳng của Redmonton lúc này mới hơi dịu đi, dựa vào lưng ghế: “Em thấy anh tự nhiên bất động”
Tôi ra hiệu không có việc gì to tát, khôi phục tâm trạng, tiếp tục ghi chép. Lúc tà dương lặn về tây, chúng tôi đi tới lui lui cất sách, lần lượt trả chúng về chỗ cũ. Nhưng vào lúc này, tôi lại bất ngờ liếc thấy một cái gáy sách trước đó mình đã bỏ qua, trái tim lộp bộp rơi xuống.
Tôi cố gắng không biến sắc ra hiệu với Redmonton chờ tôi bên ngoài, dự định quét mắt lại xem có cá lọt lưới hay không. Thế là hắn dựa vào cửa tầng hai, buồn chán nhắm mắt lại.
Tôi ngừng thở sờ cái gáy sách đó, từng chút một ra rút nó khỏi chồng sách. Gáy sách thuần màu đen, chỉ có hai chữ “Dung hợp” to thiếp vàng ở bìa sách dần dần lộ ra ngoài.
Tôi nhìn chằm chằm vào khoảng trống trên cái giá phía sau nó, bắt đầu lục lọi trí nhớ mơ hồ nhiều năm trước của mình——tôi gần như có thể xác định, lần cuối tôi vào thư viện này lúc mười ba tuổi, trên giá sách của ông nội tuyệt đối không có quyển《Dung hợp》 này.
Nội dung của nó giống y hệt quyển sách cấm tôi từng thấy ở năm ba.
Tôi đang muốn gập nó nhét về chỗ cũ, lại thấy giữa trang cuối với bìa rớt xuống một tờ giấy gấp, màu vàng, mực nước lúc ẩn lúc hiện thấm qua mặt sau giấy, trông khá lâu đời.
“Anh không sao chứ Vicente?” Redmonton ở cửa giục tôi, “Cẩn thận mẹ tra ra đấy”
“Tới đây” Tôi nói, lập tức chỉnh lại quyển sách cuối cùng này, qua quýt nhét tờ giấy kia vào trong túi. Tôi có một linh cảm, có lẽ nó không phải một tờ giấy bình thường——nếu nó được kẹp trong quyển sách này, có thể sẽ viết một vài thứ không đơn giản.
Redmonton đi với tôi một lúc, chúng tôi đội tà dương đi ra ngoài trang viên, hắn cởi ngựa bay ra cho tôi. Mảng cỏ gần nó trụi lủi không ra hình thù gì, bọn tôi đều ngoảnh mặt làm ngơ.
“Mẹ bảo Phổ Quốc không phải nơi tốt đẹp” Redmonton nói, một tay đưa tôi dây cương, “Em nghe mẹ vô tình nhắc đến. Tóm lại, Vicente, anh phải cẩn thận đấy”
Tôi kéo dây cương, dùng một tay khác ôm vai hắn.
“Lúc nào cũng ‘Vicente’, ‘Vicente’,” Tôi chọc hắn, “Chẳng phải em nên gọi anh là anh trai yêu dấu sao?”
Hắn hất tay tôi, ra vẻ muốn dùng gậy oánh tôi, nhưng thay vào đó lại cho tôi một cái ôm ấm áp.
“Rồi, anh trai yêu dấu,” Hắn nói, “Em lại chúc anh lên đường bình an”