Một kỵ sĩ phó quan tên là Ca Lân đang đứng ở phía sau không xa lắm, tuy không nghe được hai người đã nói những gì, nhưng khi nhìn thấy tình cảnh trước mắt thì vội quát lên:
- Ngươi muốn làm gì?
Đáp án đã quá rõ ràng. Tiếu Ân chẳng buồn giải thích, mà gã chỉ ném thi thể của Phàm Địch Lạp sang một bên, còn bàn tay phải thì đã nhuộm đầy máu, khiến người ta nhìn thấy mà giật mình kinh sợ, đồng thời móng tay của gã vẫn không ngừng nhỏ máu ròng ròng xuống đất nữa.
Tiếp theo đó, Tiếu Ân vừa quát lên một tiếng quái dị, vừa nhảy tới trước, đồng thời cũng vươn móng tay ra chụp về phía Ca Lân.
Khi song phương thương thảo, thông thường kỵ sĩ đều xuống ngựa để tỏ lòng tôn trọng, bởi vậy mà lúc này Ca Lân không có chiến kỵ để hỗ trợ mình.
Tuy nhiên, sức phòng ngự của kỵ sĩ cũng rất mạnh. Việc đầu tiên của họ hầu như là giơ tấm thuẫn ở tay trái lên để bảo vệ lấy thân thể của mình.
Ngay lập tức có một tầng kim quang dầy đặc được tỏa ra từ tấm thuẫn, sau đó liền nhanh chóng kết thành tinh thể đã được thực vật hóa. Ca Lân là một cao thủ tu luyện Kim hệ, có thể dùng Kim đấu khí trứ danh để tăng cường sức phòng ngự của kỵ sĩ lên thêm một bậc.
Ca Lân rất tự tin với môn sở trường này của mình, nhưng không ngờ lúc này lại cảm thấy nơi ngực đau nhói lên.
Gã cúi đầu nhìn lại, thì ra là chỉ giáp (móng tay bọc sắt). Năm ngón tay của Tiếu Ân đã chụm lại thành một điểm, tạo thành hình dạng giống như chùy vậy, và chúng đã đâm xuyên qua tấm tháp thuẫn có tăng cường Kim hệ đấu khí của gã, sau đó lại đâm thẳng vào tim mình.
Bình!
Thân thể to lớn của Ca Lân đổ sầm lên mặt đất, ngay cả tấm tháp thuẫn đã theo làm bạn với gã hơn hai mươi năm cũng rơi xuống đất. Vì bị mất đi đấu khí chống đỡ, sau khi Kim tinh thể ở trên tấm tháp thuẫn đó va chạm với mặt đất thì liền vỡ tan ngay.
- Uuuuuuuuuuuu........
Liên tục giết hết hai người, một kẻ vẫn quen thấy máu như Tiếu Ân liền bộc phát dã tính của mình, gã ngửa cổ rú lên một tràng quái dị, biểu lộ niềm hưng phấn cực độ.
Tiếng gầm rú của gã vang lên trong màn đêm tĩnh mịch, khiến cho các quân Tây Bắc vừa nghe được thì đồng loạt rút hết vũ khí ra, và cũng ngửa cổ hú lên vang dội.
Thế rồi một truyền mười, mười truyền trăm, sau đó thì toàn bộ thành Mễ Kỳ Tư đều chìm ngập trong tiếng kêu hú vang dội của quân Tây Bắc.
Đó không phải là một phương thức phát tiết dã tính đơn thuần như vậy, mà là đại biểu cho một hàm nghĩa đặc biệt nào đó.
Cư dân của Mễ Kỳ Tư từ lúc đầu đã không ngủ được, cho đến khi bên ngoài không còn tiếng bước chân nữa thì họ những tưởng là mọi việc đều đã được tiến hành thuận lợi. Trong lúc yên lòng định chìm vào giấc ngủ thì ai nấy cũng đều bị choàng tỉnh bởi vì họ phát hiện được tình thế không tầm thường chút nào.
Những con tiểu sủng vật thì càng kinh hoàng hơn trước, chúng không còn nghe lời chủ nhân nữa mà bỏ chạy loạn xạ trong nhà, và làm đổ đồ vật rất nhiều. Trong nhất thời, khắp nơi đều loạn cào cà cả lên.
Một đội khinh kỵ tuần tra là những kẻ bị hại trước tiên. Họ đều bị quân nổi loạn của Tây Bắc băm thành thịt vụt.
Những còi lệnh và đạn tín hiệu lập tức được phát ra, báo hiệu cho mọi người trong thành biết đang có biến cố lớn xảy ra.
Các tháp chỉ huy thuộc cấp thấp nhất lập tức báo về cho cấp cao hơn, rồi những cấp đó lại báo tiếp cho cấp cao hơn đó nữa, cứ thế mà tin khẩn cứ báo đi liên tục.
Nhưng đến khi tháp phó tổng chỉ huy sắp báo lại cho tháp tổng chỉ huy thì người phụ trách ở đó chợt kinh hãi phát hiện ra, đại thống soái của họ đã biến đâu mất rồi.
Ưu điểm của loại phương thức truyền tin này là hiệu suất cực cao, nhưng khuyết điểm của nó cũng là quá ỷ lại vào tầng cao nhất.
Sau khi mất đi bóng dáng của Mộ Dung Thiên, những người bên dưới giống như là rắn mất đầu vậy, họ thúc thủ vô sách, không biết phải ứng phó thế nào mới phải.
Phải tiếp tục chờ đại thống soái, hay là tự mình chủ trương khống chế sự hỗn loạn tại khu vực của mình?
Trong lòng mọi người đều tràn ngập thắc mắc, vào lúc khẩn yếu thế này, rốt cuộc Mộ Dung Thiên đã đi đâu rồi?
Vì không có mệnh lệnh của cấp trên, các binh sĩ chấp hành nhiệm vụ giám sát chỉ biết thụ động và để mặc cho quân địch nhào đến tấn công ào ạt.
Tình cảnh hiện trường có thể nói là loạn tới cực điểm. Nó kéo dài chừng gần mười phút, mà quan chỉ huy đệ nhị cấp vẫn không thấy Mộ Dung Thiên đâu, y đã phái trinh sát binh đi tìm khắp nơi mà vẫn chẳng thấy gì, rốt cuộc chỉ có thể phát lệnh ứng phó theo tình hình đang xảy ra mà thôi.
Ban đầu, số lượng binh sĩ ngoại bang vốn đã quá lớn, muốn khống chế họ thật là khó, và phải cẩn thận tỉ mỉ lắm mới được. Hơn nữa, khi bạo động vừa nổi lên, bên quân đội của Mễ Kỳ Tư vẫn chưa có hành động ứng phó gì, vì vậy nên đã mất đi tiên cơ. Vả lại, không có Mộ Dung Thiên giám sát đại cuộc và điều phối chồng chéo lên nhau, do đó mà bọn họ chỉ có thể tự mình quản lý khu vực của mình, chứ không thể đoàn kết tất cả lại được.
Vô luận là tình hình của một khu vực nhỏ hay là tình huống của những khu vực khác, các quan chỉ huy đều không nắm rõ chi tiết các nơi, vì vậy mà điều duy nhất họ có thể làm là tự lo cho thân mình mà thôi.
Cho dù là tướng lĩnh hay tinh binh giỏi tới cỡ nào, sau khi đã mất đi sự điều động hữu hiệu thì cũng chỉ như một đống cát rời thôi.
Bất luận nhìn từ khía cạnh nào, tình thế của Mễ Kỳ Tư quả thật rất bất lợi.
Các binh sĩ đang đứng gác giống như quần long vô thủ vậy, họ chỉ đành bất lực để cho quân Tây Bắc vốn sớm đã có mưu đồ sẵn, từ từ chiếm lấy Mễ Kỳ Tư như tằm ăn dâu.
Kết quả không có gì bất ngờ cả, cán cân thắng lợi đang nghiêng dần về phía quân Tây Bắc.
Tiếng thét chém giết vang lên ngập trời, máu tươi nhuộm đỏ các đường lớn hẻm nhỏ của Mễ Kỳ Tư, ngay cả cơn mưa lớn cũng không thể rửa đi hết những dòng máu lênh láng đó.
Những tiếng hú cuồng dã của quân Tây Bắc cùng với những tiếng la hét thất thanh của quân canh thành đã tạo nên hai thứ tiếng trái ngược nhau. Những tiếng va chạm của vũ khí vang lên không ngớt, và thanh âm của đấu khí và ma pháp cũng liên tục nổi lên đùng đoàng, qua đó có thể thấy cuộc chiến thảm liệt tới chừng nào.
Những người dân của Mễ Kỳ Tư đang ẩn nấp trong nhà cũng ý thức được chuyện mà họ sợ hãi nhất rốt cuộc cũng xảy ra rồi, nhưng nếu bỏ chạy ra ngoài, không biết có bị các binh sĩ đang loạn chiến ở ngoài kia chém nát thành tương hay không?
Bọn họ vội vàng khóa kín cửa lại, chỉ dám ở trong nhà nơm nớp lo sợ, đồng thời cũng vỗ về an ủi những tiểu hài tử vì bị kinh sợ mà khóc thét lên, song song đó cũng không quên cầu cho thần linh phù hộ cho phe mình được chiến thắng.
Khu Thánh chúc là nơi tụ tập gia quyến của các đại quan và quý tộc của Mễ Kỳ Tư, nó là mảnh đất quan trọng nhất trong thành, mà người phụ trách nơi đây chính là Tạp Cách Nặc Phu, thống lĩnh của quân đoàn thứ .
Mặc dù đang chứng kiến rất nhiều, rất nhiều thuộc hạ bị ngã xuống trước sự tấn công của quân địch, nhưng Tạp Cách Nặc Phu vẫn hăng máu chiến đấu tới cùng, tuyệt không rút lui dù chỉ nửa bước, dù rằng từng tốp từng tốp chiến hữu của y ngã xuống đã làm cho y rất đau đớn tâm can.
Tình hình này quả thật không ổn chút nào. Địch nhân vẫn không ngừng ồ ạt tấn công đến khu Thánh chúc, điều đó cho thấy các vùng phụ cận cũng đã bị thất thủ rồi.
Nhưng y tuyệt đối không thể để mất đi khu Thánh chúc, bởi vì đây là trọng trách mà Đan Ni Tư đại nhân đã giao cho. Do đó, dù phải đối mặt với khốn cảnh, Tạp Cách Nạp Phu thân là thống lĩnh cũng nhất quyết làm gương cho các binh sĩ, đích thân xông lên hàng đầu để kích phát sĩ khí của thuộc hạ.
Sự nỗ lực của Tạp Cách Nặc Phu đã ra một cái giá không nhỏ, mình y mang đầy thương tích, máu huyết nhuộm đỏ khôi giáp, quả thật khiến người ta nhìn vào mà giật mình kinh hãi.
Việc Tạp Cách Nặc Phu thân chinh xuất chiến đã đề thăng sĩ khí của thuộc hạ rất nhiều, và giúp cho họ bộc phát tiềm năng lớn nhất của mình, thế nhưng chỉ có sự cổ vũ tinh thần cũng chưa đủ, vì địch nhân dường như cứ cuồn cuộn xông lên không ngừng, tựa như vô cùng vô tận vậy, giết bao nhiêu cũng không hết. Trong khi nhân thủ của phe mình thì càng lúc càng ít đi.
Đột nhiên Tạp Cách Nặc Phu cảm thấy đầu óc choáng váng, thân thể của y cũng lảo đảo suýt ngã, kế tiếp thì trên vai liền bị trúng phải một kiếm.
Tạp Cách Nặc Phu rùng mình một cái, căn cứ theo kinh nghiệm lâu ngày của y, vừa rồi đúng là dấu hiệu của việc mất máu quá nhiều, bởi vì Khôi phục đan tuy có thể khôi phục lại thể lực, nhưng không có cách nào trong một khoảng thời gian ngắn mà bổ sung đầy đủ một lượng máu thật nhiều được.
Cũng vì thần quan có sức phòng ngự rất yếu, nên hắn không thể theo sát Tạp Cách Nặc Phu được, bằng không thì sẽ bị kẻ địch giết đi rất nhanh, cho nên không có ai có thể giúp y cầm máu được.
Nếu cứ tiếp tục như vậy, chỉ e không bao lâu nữa thì y sẽ bị ngã gục trên chiến trường cho xem. Thế nhưng Tạp Cách Nặc Phu lại không vì vậy mà bắt đầu chán nản. Y biết, quân của mình có thể chống đỡ liệt thế cho đến tận bây giờ thì đại đa số là bởi vì tác dụng khích lệ sĩ khí của y.
Nếu như y rút lui về hậu phương, vậy thì nhuệ khí của các binh sĩ sẽ mất sạch, và sau đó, phòng tuyến sẽ bị tan vỡ rất nhanh.
Tạp Cách Nặc Phu nghĩ tới đây thì lập tức cắn môi, rồi nuốt luôn hai viên thuốc "Tân sinh". Hai viên đan dược này là đan dược cứu mạng do y đã cất kỹ từ lâu mà chưa dám dùng tới, bởi vì y muốn đợi tới thời khắc cực kỳ phi thường thì mới lấy ra dùng.
Ngoài việc cấp tốc khôi phục thể lực ra, Tân sinh hoàn còn có thể chế tạo máu giả trong một thời gian ngắn, khiến cho bản thân mình khôi phục lại trạng thái chiến đấu tốt nhất.
Công hiệu của linh đan quả thật không phải tầm thường. Sau khi nuốt chúng vào, lực lượng trong người Tạp Cách Nặc Phu liền nhanh chóng bùng dậy, đồng thời cũng thay đổi luôn cả tình trạng choáng váng vì thiếu máu.
Tinh thần của Tạp Cách Nặc Phu lập tức phấn chấn, sẵn tay chém luôn mấy tên ma võ sĩ đang xông tới tấn công mình. Sau đó, một chuyện khiến tinh thần của y càng phấn chấn hơn liền xảy ra.
Từ trong cuộc chiến hỗn loạn, bỗng có một người chậm rãi bước ra. Tạp Cách Nặc Phu tựa hồ không tin vào mắt mình, y khích động kêu lên:
- Thành chủ đại nhân!
Thành chủ đại nhân vốn đã thất tung ngay từ lúc cuộc chiến bắt đầu, vậy mà bây giờ lại xuất hiện ở đây.
Tuy trận chiến này có vẻ như đã nghiêng về phe địch, nhưng chỉ cần có thành chủ đại nhân ở đây thì không có gì là không thể xảy ra cả. Hắn vốn là thống soái Rạng Đông, rất giỏi sáng tạo kỳ tích, trước nay không hề sa sẩy chút nào.
Kẻ vừa xuất hiện đúng là Mộ Dung Thiên. Hắn không nói năng gì mà chỉ tiến thẳng về phía Tạp Cách Nặc Phu.
Tạp Cách Nạp Phu tựa như cảm thấy có điều không thỏa đáng, thế nhưng lúc này y đã nhìn thấy một thanh trường kiếm ở sau lưng Mộ Dung Thiên đang đâm tới nhanh như thiểm điện, còn bản thân của hắn thì dường như không hề cảm thấy được nguy hiểm đang ập đến chút nào.
Tạp Cách Nặc Phu cũng không kịp nghĩ nhiều, y liền dùng tốc độ nhanh nhất để xông tới đẩy Mộ Dung Thiên ra, nhưng đồng thời thanh kiếm kia cũng đã lướt qua sát người Mộ Dung Thiên và cắm phập vào ngực Tạp Cách Nặc Phu.
- Đan Ni Tư đại nhân, thuộc hạ của ngài đều rất trung thành nhỉ!
Sau khi giết người xong, dáng vẻ của nàng Sa tộc mỹ nữ Khắc Lý Tư Đế vẫn bình tĩnh và ưu nhã như vậy.
Tạp Cách Nặc Phu nhìn Khắc Lý Tư Đế và Mộ Dung Thiên, hai người đại diện cho hai lập trường bất đồng, là thủ lĩnh tối cao của hai thế lực thủy hỏa bất dung tại Mễ Kỳ Tư, vậy mà giờ đây lại có vẻ như đang hợp tác rất chặt chẽ và không hề có địch ý chút nào; đã vậy, họ còn có vẻ giống như chiến hữu rất thân tình nữa kìa.
Khắc Lý Tư Đế vừa rút kiếm về, vừa tỏ vẻ xem như chẳng có chuyện gì xảy ra, mà chỉ che miệng cười, rồi nói:
- Đan Ni Tư đại nhân, màn kịch này do ngài nghĩ ra, quả thật là đặc sắc không chỗ chê đấy nhé.
Tạp Cách Nặc Phu ôm lấy vết thương nơi ngực, máu vẫn tuôn ra xối xả, y trừng mắt quát lên:
- Tại sao?
Nhưng y đã không còn cơ hội để nghe câu trả lời nữa. Ba chữ cuối cùng trong đời y cũng không thể thốt ra, mà y chỉ đành vô lực ngã gục xuống đất.
Sinh mạng của y đã đi đến đường cùng, tựa như y đã không còn lý do gì nữa để chống đỡ nó vậy.
Thành chủ đại nhân đáng kính của y, người đã giao trọng trách bảo vệ khu Thánh chúc cho y, thì ra chỉ là một tên lừa đảo.
Mộ Dung Thiên ngồi xuống bên cạnh Tạp Cách Nặc Phu rồi vuốt đôi mắt đang trợn trừng của y cho chúng khép lại. Đó cũng chỉ là việc duy nhất mà hắn có thể làm mà thôi.