Kim Kiền đứng ở cửa cũng vô cùng khó hiểu, thầm nghĩ: Phương thuốc gì nhỉ? Chẳng phải con cua con thèm muốn sắc đẹp của Thu Nương, vì chiếm đoạt Thu Nương nên mới giết Hoàng Đại Hổ, sau lại giá họa cho Trương Tụng Đức… Ấy khoan đã, không hợp lý. Nghĩ đi nghĩ lại, tất cả những thanh lâu kỹ viện trong toàn thành Trần Châu này đều thuộc sở hữu của An Lạc hầu, ngay đến Băng Cơ đẹp tuyệt trần đến vậy mà con cua con chưa từng để trong mắt, nhớ tới Thu Nương, chẳng qua chỉ là một dân phụ bình thường, làm sao xinh đẹp đến mức đó?
Hơn nữa lấy thân phận, địa vị cùng thế lực của con cua con, cho dù muốn cưỡng đoạt nữ tử, hà tất phải dùng đến chiêu giết người giá họa phiền phức như vậy, huống hồ, vì sao cứ nhất định phải giá họa cho Trương Tụng Đức mà không phải là người khác… Suy đoán theo hướng ấy thì dường như tất cả đều dẫn đến Trương Tụng Đức. Nếu nói con cua con và Trương Tụng Đức có thù oán, thì cứ trực tiếp giết chết Trương Tụng Đức là xong, vì sao lại phải đi đường vòng phiền toái như vậy?
Kim Kiền suy luận cả một lúc lâu cũng không tìm ra được đầu mối.
Chúng nhân trên công đường đều không hiểu gì cả.
Bao đại nhân khẽ cau mày, chầm chậm hỏi: “Là đơn thuốc gì?”.
Trương Tụng Đức đáp: “Đại nhân, đó là đơn thuốc thảo dân mang từ Hầu gia ra. Về phần đó là phương thuốc gì thì chỉ cần đại nhân nhìn thấy liền hiểu rõ”.
Bao đại nhân ngưng một chút, lại hỏi: “Hiện tại đơn thuốc đó ở đâu?”.
Trương Tụng Đức đáp: “Đại nhân, hiện nó ở trên người của Trương Phúc Tùng, nô bộc của nhà thảo dân”.
Bao đại nhân trầm ngâm một lát, gật gật đầu, cao giọng nói: “Truyền Trương Phúc Tùng”.
Một ông lão theo lệnh truyền gọi bước thấp bước cao tiến vào công đường, quỳ sụp xuống đất hô: “Thảo dân Trương Phúc Tùng bái kiến Thanh Thiên Bao đại nhân”.
Bao đại nhân gật đầu, lại đưa mắt sang Trương Tụng Đức.
Trương Tụng Đức hiểu ý, quay đầu sang nhẹ giọng kêu lên: “Phúc Tùng…”.
Ông lão vừa nghe, thân hình liền run lên, từ từ thẳng người dậy, lệ tuôn trào, nhào đến bên người Trương Tụng Đức khóc lóc: “Thiếu gia, thiếu gia, sao thiếu gia lại trở nên như thế này, gầy sọp hẳn đi?! Thiếu gia, Phúc Tùng biết thiếu gia vô tội, Phúc Tùng đến Khai Phong phủ xin Bao đại nhân giải oan, thiếu gia, oan khuất của thiếu gia nhất định phải nói rõ cho Bao đại nhân! Bao đại nhân là Thanh Thiên, nhất định sẽ giúp thiếu gia”.
Trương Tụng Đức hốc mắt cũng hơi đỏ lên, đưa tay khẽ khẽ vỗ lên lưng ông lão trước mặt, chậm rãi nói: “Phúc Tùng, Bao đại nhân đã giải oan giúp tôi rồi, tôi trong sạch, ông không cần lo lắng”.
Trương Phúc Tùng nghe vậy, nhất thời vui mừng, vội quay lại khấu đầu, hô lên:
“Đa tạ Bao đại nhân, Bao đại nhân quả nhiên là Thanh Thiên, là vị quan tốt, là… Thiếu gia vô tội, Phúc Tùng biết mà, Phúc Tùng vẫn luôn biết, thiếu gia là người thiện lương nhất trong thiên hạ, thiếu gia không phải kẻ sát nhân, Phúc Tùng, Phúc Tùng tạ ơn Bao đại nhân…”
“Lão à, không cần đa lễ”.
Bao đại nhân khẽ gật đầu, thong thả lên tiếng vỗ về.
Trương Tụng Đức lại vỗ vỗ lưng nô bộc nhà mình, chậm rãi hỏi: “Phúc Tùng, cuốn y thư tôi đưa ông vẫn còn giữ chứ?”.
Trương Phúc Tùng nghe vậy, vội nói: “Còn, đương nhiên là còn!”, vừa nói vừa lấy tay nải vẫn mang theo bên người, cẩn thận mở ra, rút cuốn y thư ở dưới cùng tay nải lên.
Trương Tụng Đức nhận lấy cuốn y thư, rồi xin mượn một thanh chủy thủ, sau đó mở phần bìa của cuốn sách ra, rạch nhẹ bên mép, lôi ra một tờ giấy mỏng từ bên trong phần bị cắt ra, đưa cho Vương Triều đứng bên.
Cho dù Kim Kiền đứng ở cửa nhưng vẫn nhìn thấy vô cùng rõ ràng, vào lúc Trương Tụng Đức lấy tờ giấy mỏng kia ra thì An Lạc hầu Bàng Dục đang quỳ một bên thần sắc liền thay đổi, sắc mặt trở nên trắng bệch, đầu mày khóe mắt sát khí ngập tràn.
Bao đại nhân nhận tờ giấy, mở ra xem xét tỉ mỉ, hồi lâu sau, mới ngẩng lên ra hiệu cho Công Tôn tiên sinh đi đến trước bàn xử án, cùng nghiên cứu.
Công Tôn tiên sinh càng xem thì lông mày càng nhíu chặt, sắc mặt càng kém, đến khi xem xong, thần sắc sa sầm xuống, không khỏi ngẩng đầu lên nói với Bao đại nhân: “Đại nhân, cái này…”.
Bao đại nhân gật gật đầu, giơ kinh đường mộc lên vỗ một cái nói: “Trương Tụng Đức đã được chứng minh vô tội, phóng thích ngay tại công đường, những kẻ khác áp giải về đại lao, mời An Lạc hầu Bàng Dục về sương phòng nghỉ tạm, ngày mai tái phẩm. Bãi đường!”.
Dứt lời, liền dẫn đầu mấy vị tâm phúc vội vàng đi ra hậu đường.
Chúng nha dịch còn lại thực có chút không hiểu mô tê gì cả, chỉ y lệnh mà hành sự; bách tính bên ngoài cửa cũng từ từ giải tán, Bàng thái sư thấy không còn ai cũng chỉ đành tức giận phì phò rời đi.
Kim Kiền là người vui nhất, đang định nhân cơ hội này chuồn đi, nhưng mới đi được vài bước thì thấy Trương Long vội vã chạy tới, thần sắc căng thẳng nói: “Kim Kiền, Công Tôn tiên sinh đang gấp rút tìm ngươi, mau theo ta đến phòng khách”.
Kim Kiền bất đắc dĩ đành phải theo Trương Long đi đến phòng khách.
Vừa bước vào phòng khách liền cảm nhận được bầu không khí khác thường bên trong, trên đầu mỗi người đều có mây đen ủ dột, đặc biệt là Công Tôn tiên sinh, sắc mặt vốn trắng bóc giờ lại hơi có sắc xanh, vừa thấy Kim Kiền bước vào cửa, liền lập tức gọi Kim Kiền lại, đưa tờ giấy trong tay cho Kim Kiền, thấp giọng nói: “Kim bổ khoái cũng xem đơn thuốc này đi”.
Kim Kiền không dám trễ nải, vội vàng đọc kỹ, nhưng vừa mới nhìn, Kim Kiền liền kinh hoàng đứng nguyên tại chỗ.
Chợt nghe Công Tôn tiên sinh ở bên nói: “Dựa theo những gì ghi trên đơn thuốc này… thì đúng là cách phối chế dược vật của ‘Lục mị’, tên một phương thuốc đã thất truyền từ lâu, An Lạc hầu… haizz…”, nói được nửa câu, Công Tôn tiên sinh không nói tiếp nữa.
Kim Kiền bên cạnh da đầu tê rần, thầm nghĩ:
Công Tôn Trúc Tử, thời điểm này còn dài dòng văn tự cái gì nữa? Cái gì mà “Lục mị” chứ, đâu cần phải văn nhã như vậy, căn bản nó là cách phối chế xuân dược, hơn nữa còn là loại xuân dược cực mạnh đủ khiến cho người ta đánh mất tâm trí, nói trắng ra đó là loại chất kích thích, gây nghiện.
Chậc chậc, quản lý khu đèn đỏ, ma cô dắt gái, tự chế chất kích thích, ngành nghề có độ khó, độ nguy hiểm, trình độ kỹ thuật cùng thu nhập lợi nhuận cao đến vậy đều bị ngươi chiếm hết, con cua con, quả nhiên ngươi cũng thuộc hàng cua tài năng!
Hồi hai mươi
Trong khách sảnh vén bức màn kinh hãi chúng nhân.
Nha dịch dũng cảm xuất ra quái chiêu.
Bao đại nhân nghe Công Tôn tiên sinh nói vậy, sắc mặt trầm xuống, cau mày nói:
“Tiên sinh nói dựa theo những gì ghi trong đơn thuốc này thì nó có tên là ‘Lục Mị’, trước đây tiên sinh đã từng xem qua loại thuốc này?”
Công Tôn tiên sinh lắc đầu nói: “Học trò chưa từng xem qua, chỉ là trước đây có nghe nói đến, rằng thuốc này từng làm kinh hãi chốn giang hồ, nhưng mười năm trước chẳng rõ vì sao lại tuyệt tích, không ai còn nhìn thấy nữa. Hiện giờ đệ tử cũng chỉ căn cứ trên cách phối chế loại thuốc này mà suy đoán, những gì ghi trên đây chính là cách phối chế ‘Lục mị’”.
Bao đại nhân chau mày, đưa mắt sang Triển Chiêu hỏi: “Triển hộ vệ đã từng nghe nói đến loại thuốc này chưa?”.
Trên gương mặt anh tuấn của Triển Chiêu như phủ một lớp sương, chàng khẽ lắc đầu nói: “Dường như thuộc hạ từng nghe sư phụ nhắc tới, rằng trên giang hồ xuất hiện một loại xuân dược, dược tính cực mạnh, có thể khiến người ta mê loạn tâm trí, khống chế hành vi người khác. Nhưng rốt cuộc tên là gì thì thuộc hạ không nhớ rõ”.
Công Tôn tiên sinh cau mày hồi lâu, đưa mắt sang thì thấy Kim Kiền cầm đơn thuốc trong tay, đầu mày nhíu chặt, như thể đang suy nghĩ gì đó, bất giác liền mở miệng hỏi: “Kim bổ khoái có manh mối gì sao?”.
Kim Kiền nghe tiếng, vội đưa đơn thuốc trong tay trả lại cho Công Tôn tiên sinh đáp: “Bẩm đại nhân, thuộc hạ sở học nông cạn, chưa từng nghe nhắc đến loại thuốc này, chỉ là dựa theo phương pháp phối chế được ghi trên đơn này, đích thực nó là loại xuân dược cực mạnh, nếu dùng quá liều thì e là sẽ mất hết thần trí”.
Bao đại nhân chau mày, nhận lại đơn thuốc từ Công Tôn tiên sinh, chăm chú đọc, trầm giọng nói: “Nếu dược tính của nó mạnh như vậy thì vì sao lại nằm trong tay Trương Tụng Đức, mà duyên cớ vì đâu mà Trương Tụng Đức lại nói hết thảy đều do đơn thuốc này?”.
Mọi người nghe xong, cũng không hiểu, đều trầm tư không nói.
Công Tôn tiên sinh trầm ngâm giây lát, rồi quay người nói với Bao đại nhân: “Đại nhân, sao không truyền Trương Tụng Đức tới khách sảnh nói chuyện?”.
Bao đại nhân gật đầu: “Bản phủ cũng đang có ý này”, rồi ra lệnh cho Trương Long, Triệu Hổ: “Trương Long, Triệu Hổ, truyền Trương Tụng Đức đến khách sảnh hỏi chuyện”.
“Thuộc hạ tuân lệnh”, Trương Long, Triệu Hổ hai người nhất tề ôm quyền nhận lệnh, quay người rời đi.
Bao đại nhân lại cầm đơn thuốc lên, tỉ mỉ đọc kỹ, cau mày không nói.
Những người còn lại cũng không dám làm phiền, chỉ đành im lặng đợi ở một bên.
Trong một lát, không khí trong khách sảnh trầm xuống.
Kim Kiền nhân lúc đó lủi vào góc phòng khách, lông mày xoắn tít vào nhau, thầm nghĩ:
… Lục mị…
Lục mị…
Mới nghe thì không thấy gì, nhưng sao càng nghe càng cảm thấy cái tên này quen quen vậy?
Kim Kiền càng nghĩ càng cảm thấy dường như đã từng biết đến cái tên này, bất giác cảnh tượng trước mắt thay đổi, dòng suy tư trở về mấy tháng trước…
Hôm ấy, lá cây trên Vân Ẩn sơn dần nhuộm sắc đỏ, trời cao trong xanh, khí thu mát mẻ, trong “Vô Vật cốc”, một lão nhân râu tóc trắng như tuyết nhưng sắc mặt lại lộ ra âm khí, đang ngồi trên một tảng đá, mặc cho gió thu thổi vào áo, lá rụng phiêu lãng rơi bên người, u ám nói với trò yêu bên cạnh:
“Đồ nhi à, vi sư dùng độc một đời, các loại độc vật đều khống chế trong tầm tay, mặc sức sử dụng, nhưng hồi vi sư còn trẻ, suy nghĩ ngông cuồng nông cạn, từng bị người ta mê hoặc, phối ra một loại độc mà ngay đến vi sư cũng khó lòng khống chế được, loại độc này mới xem thì tưởng vô hại, nếu dùng ít thì chẳng qua chỉ là loại xuân dược bình thường, nhưng nếu dùng lâu dài thì lại khiến người ta thần trí hỗn loạn, không khống chế được hành vi, không thuốc nào chữa được… Từ khi vi sư vào cốc ẩn cư tới nay, lúc nào cũng coi đây là nỗi khắc khoải, đêm đêm vỗ gối, ngày ăn chẳng nổi”.
Đồ nhi bên cạnh cúi đầu thu ánh mắt lại, nhất mực cung kính hỏi: “Nhị sư phụ hối hận bởi loại độc này làm hại chốn giang hồ?”.
Lão nhân nhướng đôi mày trắng như tuyết lên, cười nhạt nói: “Nực cười, từ khi vi sư dùng độc đến này đều không thẹn với lòng, vì sao phải hối hận?”.
Đồ nhi không hiểu, thân mình thoáng run lên, tiếp tục hỏi: “Đồ nhi ngu dốt, không rõ vì sao Nhị sư phụ lại canh cánh với loại độc này như vậy?”.
Lão nhân nghe vậy, hừ lạnh một tiếng, sắc mặt càng âm u, u ám nói: “Vi sư chỉ hận khi ấy nghe lời siểm nịnh của tiểu nhân, lại đi đặt cho loại độc kinh hãi thế tục ấy một cái tên quá tầm thường, thực là thẹn thay cho loại độc ấy”.
“Dám hỏi Nhị sư phụ, loại độc này có tên là gì?”.
“Ừm… cái tên này quá sức tầm thường, vi sư cũng không nhớ rõ, hình như là ‘Hoàng mị’… Không đúng, nên là ‘Kim mị’… Khoan đã, phải là ‘Tử mị’…. A, vi sư nhớ ra rồi, là ‘Hồng mị’, không sai, chính là ‘Hồng mị’”.
“… Hồng mị?”
“Không sai, đồ nhi à, con nghe đi, đã ‘hồng’ lại còn ‘mị’, một phen tâm huyết của vi sư lại dính vết nhơ dung tục như vậy, con kêu vi sư làm sao có thể an tâm được chứ?”
“Khụ, độc đó vốn là xuân dược, gọi ‘Hồng mị’ cũng coi như tên đúng với bản chất”.
“Vì sao đồ nhi lại nói ra những lời đó?! Độc này tuy là xuân dược, nhưng dược hiệu rất đặc biệt và kỳ lạ, có thể khống chế thần trí người ta, là cực phẩm xuân dược trên thế gian, sao có thể gọi tên nó giống như các loại xuân dược khác được!”.
“Khụ khụ, vậy theo ý Nhị sư phụ độc này nên đặt tên là gì?”
Lão nhân chau đôi lông mày dài, trên mặt thoáng hiện lên vẻ đắc ý, hùng hồn nói: “Tất nhiên phải gọi là ‘Tuyệt phẩm thập bát thế hợp hoa tán’!”.
“Phụt…”
“Ai da, đồ nhi ngoan, vì sao lại xịt máu?! Mau gọi Đại sư phụ của con qua xem thế nào!”
“Khụ khụ, đồ nhi không sao, chỉ là gần đây đồ nhi uống thuốc bổ nhiều quá, khí huyết dâng trào…”
Lời còn chưa nói hết đã thấy lão nhân nọ vút đi tựa làn khói, miệng không ngừng kêu to: “Dược lão đầu, Dược lão đầu, ngươi chết ở đâu rồi, đồ nhi ngoan của chúng ta sắp không xong rồi, còn không mau tới cứu mạng!”.
“…”, bên kia đồ nhi gầy gò ngẩng đầu lên nhìn trời, muốn khóc mà không có nước mắt.
…
Hồi tưởng đến đây, gân xanh trên trán Kim Kiền không khỏi giật giật, huyết khí trong lòng dâng trào:
Chậc chậc, lão già thối đã đãng trí lại còn mù màu, “Hồng mị” cái gì chứ, căn bản chính là “Lục mị”! May mà mình từ đầu chí cuối đều không lộ ra bản thân học nghệ ở đâu, bằng không, nếu để mấy thằng cha Khai Phong phủ này biết được sư phụ mình từng phối chế ra thứ thuốc này làm hại nhân gian, nhất định sẽ lôi mình ra trị tội liên đới.
Để giải quyết tình huống trước mắt, mình vẫn nên thành thành thật thật mà giả câm giả điếc, vờ như không biết mới là thượng sách.
Nghĩ đến đây, Kim Kiền vội vàng nghiêm sắc mặt lại, phối hợp với những người khác, làm ra vẻ trầm tư suy nghĩ.
Không lâu sau, chợt nghe thấy tiếng bước chân bên ngoài cửa, Trương Long, Triệu Hổ hai người dẫn Trương Tụng Đức tiến vào khách sảnh.
“Thảo dân Trương Tụng Đức bái kiến Bao đại nhân”, Trương Tụng Đức một thân áo tù vẫn chưa kịp thay, toàn thân đều là vết máu bẩn, khom người quỳ xuống.
“Đứng lên đi”, Bao đại nhân giơ tay nói, “Nơi này không phải là công đường, không cần như vậy, người đâu mang ghế”.
Trương Long, Triệu Hổ nâng một chiếc ghế đến đặt sau lưng Trương Tụng Đức.
Trương Tụng Đức cả kinh, vội vàng cất tiếng từ chối: “Thảo dân không dám”.
“Trên người ngươi có vết thương, e khó đứng lâu được, bản phủ còn muốn hỏi chuyện ngươi, ngươi hãy ngồi xuống trước đã”, Bao đại nhân ôn tồn nói.
Trương Tụng Đức nghe vậy, ngước mắt lên nhìn Bao đại nhân, do dự hồi lâu mới thi lễ nói: “Thảo dân tạ Bao đại nhân”, dứt lời, liền khom người ngồi xuống.
Bao đại nhân gật gật đầu, giơ đơn thuốc trong tay lên nói: “Trương Tụng Đức, trên công đường ngươi có nói, đơn thuốc này là do ngươi mang từ phủ Hầu gia ra, những lời này là thật sao?”.
Trương Tụng Đức nghe xong, gật đầu, nghiêm mặt đáp: “Bẩm đại nhân, đích thực là như vậy!”.
Mọi người nghe rồi đều biến sắc.
Bao đại nhân cau chặt đôi mày, tiếp tục hỏi: “Trên công đường ngươi có nói, đơn thuốc này chính là nguyên do Hoàng Đại Hổ bị sát hại rồi giá họa cho ngươi, những lời này có thực không?”.
Trương Tụng Đức dường như nhớ ra điều gì đó, hai mắt ánh lên vẻ đau đớn, rồi nặng nề gật đầu.
Bao đại nhân ngưng một chút, khẽ nói: “Trương Tụng Đức, ngươi có được đơn thuốc này như thế nào, mà đơn thuốc này có liên quan gì đến chuyện Hoàng Đại Hổ bị sát hại, dẫn đến ngươi cũng vì đó mà bị giá họa, tất thảy nguồn cơn, ngươi hãy kể tỉ mỉ lại cho bản phủ”.
Vẻ đau đớn trong mắt Trương Tụng Đức càng rõ, Trương Tụng Đức hít sâu hai cái, chậm rãi nói: “Khoảng hai tháng trước, phủ An Lạc hầu phái người gọi thảo dân đến Nhuyễn Hồng đường chẩn bệnh, nói là ở đó có người lâm bệnh nặng. Hầu gia truyền gọi, thảo dân tất không dám trễ nải, lập tức đi theo. Nhưng đến khi thảo dân tới Nhuyễn Hồng đường, chẳng ngờ người cần chẩn trị lại là…”.
Nói đến đây, Trương Tụng Đức dừng lại, lông mày xoắn lại, sắc mặt dần trở nên trắng bệch.
“Là ai?”, Bao đại nhân nhíu chặt mày, cất tiếng hỏi.
Trương Tụng Đức ngước lên nhìn Bao đại nhân một cái, mới ổn định lại tâm thần, tiếp tục nói: “Là hơn mười nữ tử, đã bị… bị hành hạ giày vò tới mức thần trí không tỉnh táo, tâm thần hỗn loạn, lời nói không rõ ràng, hành vi quỷ dị, hơn nữa mấy nữ tử có tình trạng đã tự sát”.
Mọi người trong sảnh lại biến sắc.