Sau khi Âu Dương Phong đánh nước cờ “tẩu” và để lại ba mạng Hàn Ba đạo nhân, Tiền Tứ Hải, A Mạt Tinh trên thành Tương Dương tự lo lấy thân, A Mạt Tinh đang lo quay cuồng ôm vật với Lỗ Hữu Cước khó phân thắng bại về ai, Hàn Ba đạo nhân lo kịch chiến với Hoàng Dung, kiếm qua trượng lại chẳng ai nhường ai, trong số ba người kẻ nhanh trí nhất là Hàn Ba đạo nhân, khi hắn thấy Âu Dương Phong đã chuồn, biết ngay tình thế gay go, cây kiếm trên tay đánh áp hai đường dồn Hoàng Dung lùi bước, chợt hắn tung mình vọt ngay lại bìa tường, đâm nhào ngay đầu lộn xuống dưới chân thành, lối lộn đầu phi thân này dù cho khinh công giỏi đến đâu nếu đầu đụng mặt đất kể như mất mạng, nhẹ lắm là cũng hôn mê bất tỉnh, nhưng khi còn cách mặt đất lối ba thước, hắn đưa mũi kiếm xỉa ngay xuống trước, rồi thả ngay tay ra, lộn phắt người lại, rút kiếm chạy luôn theo sau Âu Dương Phong về doanh trại quân Mông luôn.
Vậy là trên đầu thành Tương Dương chỉ còn lại Tiền Tứ Hải và A Mạt Tinh. Hoàng Dung để sổng mất Hàn Ba đạo nhân, xách ngay gậy “Đả Cẩu bổng” như một làn gió lướt ngay sang Tiền Tứ Hải - vừa rồi đã từng nếm qua mùi “Đả Cẩu bổng” - lúc này thấy nàng xách gậy sợ đến nỗi hồn bất phụ thể kêu lên “Ôi trời ơi!”, quay đầu bỏ chạy. Nào hay vừa chạy được ba bốn bước bỗng thấy trước mắt hoa lên, Khưu Xứ Cơ đã vung kiếm chận ngay lối Tiền Tứ Hải. Tiền Tứ Hải hoang mang loạn trí, vội vung ngay bàn toán sắt đã hư móp già nửa “lích tích lách tách” với những hột còn lại trên bàn toán đánh bật sang ngực Khưu Xứ Cơ với thế “Ngũ Tử Liên Toán” (năm con cùng tính). Trong ý hắn, tưởng đâu với thế đẩy mạnh này thế nào đối phương cũng phải né tránh, mình sẽ nhân cơ hội ngàn năm một thuở vọt chạy như kiểu Hàn Ba đạo nhân. Nào hay hắn đã đụng phải tay cao thủ giỏi nhất của Toàn Chân lục tử Khưu Xứ Cơ. Chận ngay lối thoát của đối phương, vững không khác nào như một tháp sắt, Khưu Xứ Cơ lập tức vung ngay tay áo ra, ngang nhiên cuốn chặt ngay bàn toán của địch. “Rào” một tiếng, các hột toán rớt cùng mặt đất. Tiền Tứ Hải kinh hãi, vừa định né mình lui, thình lình cảm thấy đầu gối bên trái và háng bên phải tê buốt. Thì ra là “Hoàn Khiêu huyệt” và “Bạch Hổ huyệt” bị bảo kiếm của Trường Xuân Tử Khưu Xứ Cơ xỉa trúng. Tiền Tứ Hải bị thụp ngay xuống, hết cử động nổi. Hoàng Dung đưa tay ngoắc mấy tên lính nhà Tống kéo cổ ngay thân hình béo ị xuống thành trói chặt lại ngay.
Còn phía A Mạt Tinh đang quay cuồng ôm nhau vật lộn với Lỗ Hữu Cước. Kẻ giỏi về lối âm nhu, người sở trường môn ngạnh công, đôi bên có thể nói là đồng cân ngang sức, nhưng quyền cước của Lỗ trưởng lão có vẻ hung mạnh hơn, liền hai ba chục đấm đá nện vào A Mạt Tinh. Tuy A Mạt Tinh vẫn có thể hóa giải những kình lực, nhưng thỉnh thoảng cũng bị vài cú đau điếng người.
A Mạt Tinh đau nổi khùng, há miệng chơi trò cắn, thế là Lỗ Hữu Cước bị đối thủ đớp ngay một cú trên bả vai, đau muốn ứa nước mắt, tay chân bị lỏng thế. A Mạt Tinh cướp ngay cơ hội, vật xuống cưỡi ngay lên mình Lỗ Hữu Cước. A Mạt Tinh nhe hàm răng trắng xóa tính đớp thêm đòn thứ hai, thình lình một cánh tay cứng như sắt thộp ngay vào Đại Trùy huyệt nơi sau gáy của A Mạt Tinh, nhấc ngay lên quát :
- Lên!
Toàn thân A Mạt Tinh quả nhiên bị rời bổng mặt đất.
Người xách A Mạt Tinh không ai xa lạ, chính là Quách Tỉnh. Chàng để sổng mất Âu Dương Phong, quay lại thấy A Mạt Tinh đang khó phân thắng bại với Lỗ Hữu Cước, trong lòng bực mình, phi thân xuống túm ngay A Mạt Tinh giở bổng khỏi mặt đất. A Mạt Tinh vẫn cố vùng vẫy, giơ chân đá móc về sau. Trong lúc ấy Lỗ Hữu Cước đã nhảy tung người dậy, chẳng nói lôi thôi, hai tay “lốp đốp” tát túi bụi vào mặt tên lùn đen của xứ Thiên Trúc, máu miệng máu mũi ứa ra, mắt tối sầm lại. Quách Tỉnh thấy cũng đã đủ đòn, mới lên tiếng quát :
- Trói ngay lại!
Quân lính nhà Tống ùa lại trói cổ A Mạt Tinh. Vậy là phía thành Tương Dương đã bắt được hai tù binh.
Trong cuộc giao tranh đêm nay, cả đôi bên đều bắt được tù binh, kể như không bên nào lỗ mà cũng chẳng bên nào lời. Theo ý của tướng phòng ngự thành Tương Dương Lã Văn Hoán đòi đem ngay A Mạt Tinh và Tiền Tứ Hải ra chém quách và bêu đầu nơi cổng thành thị oai. Hoàng Dung ngăn cản ngay, vì phía mình cũng có Giản, Lương nhị lão lọt về tay địch, chủ trương tạm giam vào một nơi đã. Lã Văn Hoán cũng chẳng dám phản đối, sợ mất lòng đám người tài giỏi thì không hay, bèn chấp thuận ngay ý kiến của Hoàng Dung. Suốt đêm đó đến sáng không thêm chuyện gì lạ xảy ra.
Gần buổi trưa ngày hôm sau, một đội kỵ binh lối một ngàn người của quân Mông đột nhiên đến cổng thành phía Nam của thành Tương Dương. Quân nhà Tống hấp hấp tấp tập trung ngay trên thành, cung tên sẵn sàng ứng chiến, nào hay đám quân gần ngàn này không phải đến đánh thành, khi còn cách chân thành lối mười dặm bèn ngừng lại, trong đám nổi lên tiếng tù và. Tiếp đó trong cơn bụi mù ấy, lướt ngay một viên võ tướng Mông Cổ đầu to tựa đấu, thân cao chín thước, tên võ tướng này tay cầm cây cung sắt tam thạch (tam thạch tức là ba tạ, tức là phải có sức mạnh kéo ba tạ mới giương nổi cung tam thạch). Chỉ thấy vị tướng Mông Cổ giương cung lên kéo thành hình mãn nguyệt (cây cung bị kéo thành hình tròn như trăng đêm rằm), một tên lính đưa ngay mũi tên có găm sẵn một phong thư. Chợt thấy mũi tên găm theo phong thư bay như sao băng lên phía thành. Bục một tiếng, mũi tên có găm thư ấy cắm sâu ngay vào trên tường lối nửa thước. Một khoảng cách xa mấy chục trượng như vậy mà mũi tên có thể tới đích đầu thành, quả là sức mạnh người bắn tên không phải tầm thường.
Quân nhà Tống trên mặt thành hò hét inh lên.
Thì ra viên tướng Mông Cổ này là đệ nhất xạ thủ khét tiếng dưới trướng Hốt Tất Liệt, tên gọi Bát Man Thốc Tử, trong đoàn quân Mông Cổ đều suy tôn hắn là “Thần tiễn thủ” (tay bắn tên như thần) có thể so ngang với Triết Biệt xưa kia. Một khoảng cách xa trên bốn mươi trượng như thế mà hắn có thể bắn mũi tên thư đến trúng đích như vậy quả là một tay xạ thủ hiếm thấy. Quân nhà Tống kinh ngạc bao nhiêu, tên Bát Man Thốc Tử lại càng đắc ý bấy nhiêu. Chỉ thấy hắn ngồi trên lưng ngựa, giơ thiết cung lớn tiếng nói :
- Quân Nam man nhà Tống nghe đây, đó là bức thư Đại Hãn ta gửi cho tên tướng thủ thành Tương Dương, vậy hãy mau đem cho chủ tướng lũ bay coi. Còn đứa nào trên đó có đủ bản lãnh, cứ việc bắn xuống đây một phát cho ta, nhưng xem lũ toi cơm chúng bây chắc gì có sức mạnh ấy.
Bát Man Thốc Tử nói xong cười ha hả không ngớt.
Trong lúc viên tướng Mông Cổ đang dương oai diễu võ dưới chân thành, bên trên thành quân sĩ nhà Tống đã vội phi báo ngay về cho An Phủ sứ nha môn, Quách Tỉnh nghe xong nổi giận nói :
- Quân Mông này khả ố thật, để tôi lên thành xem mặt mũi nó ra sao, mà dám khua môi múa mép dữ vậy.
Nói xong Quách Tỉnh dẫn ngay Lỗ Hữu Cước lên cửa thành phía Nam, nhìn xuống thấy Bát Man Thốc Tử hiu hiu tự đắc đang dọng dạc nói :
- Quân nhà Tống bộ không có người biết bắn cung sao? Nếu ta đếm ba tiếng, không có đứa nào dám bắn lại, ta sẽ không nể gì mà bắn thẳng ngay cột cờ trên đầu thành đấy nhé.
Thì ra trên mặt thành phía Nam của thành Tương Dương có dựng một cột cờ khá cao bằng gỗ, trên treo một lá “Long vân kỳ” của Đại Tống. Lá cờ dài gần ba trượng, bay phơi phới trên ngọn cột cờ cao năm trượng, oai phong hùng dũng. Đây là một biểu hiện đất đai và thành trì của nhà Tống, nếu quả bị tên tướng Mông bắn rớt, ảnh hưởng tinh thần binh sĩ không phải là nhỏ. Quách Tỉnh tức xung gan lên đầu, chàng vận khí Đan Điền cất cao giọng nói vọng ngay xuống :
- Bớ tên hề lắm chuyện kia, sao không biết tự lượng sức chút nào. Xưa kia ta với Thái Tổ hoàng đế xạ điêu, ngươi còn ngủ đâu trong bụng ngựa cơ mà!
Tiếng nói như chuông rền, hầu hết quân lính Mông Cổ đều nghe rõ. Trong số cả ngàn người đó, già nửa số quân sĩ đã nhao nhao lên :
- Trời! Chính tiếng nói của Kim đao phò mã!
Đời sống của dân tộc Mông Cổ phần đông là lối sống du mục, thường hay di cư tới những miền nào có cỏ và nước, ít khi định cư lại hẳn một nơi nào. Người phụ nữ Mông Cổ lại hay địu con (một lối cõng trẻ nhỏ bằng một miếng vải cột quàng qua bụng ngựa, nên mới có câu “ngủ trong bụng ngựa”). Quách Tỉnh nói vậy là có ý muốn cho tên tướng biết là thời chàng đi săn bắn với Thành Cát Tư Hãn, Bát Man Thốc Tử còn đang bú sữa mẹ. Trong đám quân lính đã có nhiều tên phải bịt miệng cho khỏi phì cười. Bát Man Thốc Tử nghe vậy giận quát rằng :
- Họ Quách kia! Ngươi chỉ là kẻ tiểu nhân phản phúc vô thường, bây giờ sao còn dám vác mặt ra mà nói chuyện với các dũng sĩ của đại quốc Mông Cổ? Người khác sợ người, chứ ta đâu có ngán gì? Vậy ta thử xem bản lãnh cung tên của ngươi đến mức nào cho biết.
Quách Tỉnh trả lời ngay :
- Bát Man Thốc Tử, bộ ngươi nhất định đòi xem lối bắn tên của ta sao? Hay lắm, vậy cung tên ta bắn không bao giờ phí phạm vô ích. Mũi tên thứ nhất ta sẽ bắn gãy cung của ngươi. Mũi thứ hai ta sẽ hạ ngươi xuống ngựa. Mũi thứ ba, ta sẽ xóa ngay mạng chó của ngươi!
Mấy câu nói của Quách Tỉnh khác nào như đóng đinh vào cột. Bát Man Thốc Tử tuy là kẻ dũng mãnh, nhưng cũng không khỏi chột dạ hoảng vía, hắn thầm nghĩ: “Gã này từng học lối bắn tên với Triết Biệt, quả không phải lời chua ngoa gì đâu. Mình chớ nên khinh địch, mình nên cướp quyền ưu tiên ra tay trước là hơn”. Nghĩ vậy hắn lập tức giương cung bắn ngay, một mũi tên như sao bay vọt nhanh lên thành nhắm hướng Quách Tỉnh lao vùn vụt tới.
Bát Man Thốc Tử tưởng đâu mình đánh thình lình vậy thế nào cũng được việc, nào hay tai mắt Quách Tỉnh tinh lanh, khi đối phương vừa bắn tên ra, trên này Quách Tỉnh từ trên tay một tên hiệu úy cướp nhanh cung tên nhắm bắn ngay xuống. Vậy là dưới bắn lên, trên bắn xuống, chợt hai mũi tên va đụng ngay giữa lưng chừng lập tức có thể phán đoán sức hơn thua của đôi bên.
Thì ra mũi tên của Bát Man Thốc Tử được chiếc cung “tam thạch” (ba tạ) bắn ra, mỗi một thạch nặng một trăm tám mươi cân, tam thạch là năm trăm bốn chục cân, nghĩa là người sử dụng cung ấy ít nhất phải có sức kéo năm trăm sáu mươi cân đổ lại mới có thể kéo dầy vòng cung tên để bắn tên ra. Còn phía Quách Tỉnh trong lúc gấp rút chàng chỉ chụp được cây cung có “nhất thạch”, nghĩa là một trăm tám chục cân, vậy là sức mạnh chỉ bằng một phần ba cây cung của đối thủ. Theo lý nói, tên của Quách Tỉnh làm sao chọi lại với địch. Nào hay trong võ học có chỗ kỳ diệu lạ lùng, kẻ thắng không cứ gì phải ỷ hoàn toàn vào sức mãnh liệt. Thì ra Quách Tỉnh đã dùng kình lực “Hàng Long thập bát chưởng” trong mũi tên, mệnh danh là “Trầm Long Tại Uyên” (rồng chìm dưới vực sâu), sức cung tuy yếu nhưng sức bắn lại vô cùng mạnh. “Tách” một tiếng vang lên, không những mũi tên của Bát Man Thốc Tử bị bật văng xa hai trượng, mà mũi tên của Quách Tỉnh vẫn nhắm cửa mặt Bát Man Thốc Tử bay vọt tới. Viên dũng tướng Mông Cổ không thể nào ngờ nội công của Quách Tỉnh lại lợi hại như vậy, lật đật đưa ngay gáy cung sắt lên gạt. Chỉ nghe “pác” một tiếng, tuy hắn đánh rớt được mũi tên của Quách Tỉnh, nhưng cây cung đã bị gãy làm đôi.
Mũi tên đầu của Quách Tỉnh đã ngang nhiên làm gãy cây cung của Bát Man Thốc Tử, tiếp theo mũi thứ hai lại bay vèo đến, đúng với câu: “Cung khai như mãn nguyệt. Tiền khứ thoại lưu tinh” (kéo cung tròn như trăng rằm, tên vọt như sao bay). Kỳ này Quách Tỉnh dùng luôn đến ngọn “Kiến Long Tại Điền” vào phát tên thứ hai này, nghĩa là mạnh bạo hơn thế “Trầm Long Tại Uyên”. Tên bay xé gió, Bát Man Thốc Tử cuống cả chân tay, tính rút đao bên người ra đỡ cũng không kịp, vội buông ngay cương ngựa, tung mình lật đật xuống nấp ngay dưới bụng ngựa. Đây là một bản lãnh mà người Mông Cổ đã ra công khổ luyện từ hồi còn nhỏ. Vì họ sinh ra đã có “duyên” với loài ngựa nên lúc này viên tướng Mông Cổ tính tạm né phát tên thứ hai của Quách Tỉnh, nhưng ngờ đâu Quách Tỉnh lại không nhắm bắn người, mà nhắm đích ngựa làm tiêu chuẩn. Mũi tên cắm gần lút đuôi vào bụng con vật, ngựa hí lên một tiếng kinh người ngã vật ra đất chết tươi. Bát Man Thốc Tử bị quăng ngay ra mặt đất, mặt mày tá hỏa tam tinh. Đám quân kỵ binh la hoảng lên.
Cuộc bắn tên của Quách Tỉnh đã diễn tiến đúng như lời chàng đã tuyên bố vừa rồi. Phát thứ nhất gãy cung, phát thứ nhì hạ người xuống đất... Một tiếng thét rú lên, phát tên thứ ba đã từ ngực Bát Man Thốc Tử xuyên thủng ra sau lưng, lăn ra chết tại trận luôn.
Đám kỵ binh Mông Cổ thấy sự thể xẩy ra đúng như lời nói của Kim Đao phò mã tên nào cũng bay hồn mất vía, quay ngay đầu ngựa bỏ chạy ráo riết về doanh trại hết. Tiếng réo vang đắc thắng của quân Tống trên thành Tương Dương vang dội cả một góc trời. Quách Tỉnh cười hào hùng, đưa tay rút ngay mũi tên có găm phong thư trên vách thành, bóc phong bì ra. Nội văn của lá thư bên trong viết:
“Gửi An Phủ Sứ thành Tương Dương Lã Văn Hoán tướng quân mại hạ.
Các hạ thủ thành, tận trung vì nước, nhưng tiếc không am tường Thiên mạng. Nay các hạ khác nào như trứng chọi đá, châu chấu đá xe, thất bại đã nằm ngay trước mắt. Trong hôm qua, Âu Dương tiên sinh đã bắt sống được Giản, Lương nhị trưởng lão của Cái bang, nhưng phía bản quốc lại cũng bị cầm tù hai người A Mại Tinh và Tiền Tứ Hải, vậy nay xin đề nghị vào giờ ngọ trưa mai đôi bên hãy trao đổi tù binh, đồng thời Âu Dương tiên sinh thỉnh Quách đại anh hùng ra thành quyết đấu. Nếu nhát gan không đáng mặt trượng phu. Kính hầu minh giáo.
Đại Hãn Mông Cổ Quốc
Hốt Tất Liệt”
Quách Tỉnh xem xong thư lập tức phái binh sĩ đem ngay xuống thành giao lại cho An Phủ sứ Lã Văn Hoán. Lã tướng quân xem thư xong lập tức cho mời ngay vợ chồng Quách Tỉnh vào nha môn thương lượng. Quách Tỉnh rằng :
- Hai nước giao binh, chuyện trao đổi tù binh là thường lệ, nhưng chúng ta phải cẩn thận đề phòng quân Mông Cổ trong lúc đó sẽ xử dụng quỷ kế. Em Dung, em có diệu kế gì đối phó chuyện này không?
Hoàng Dung cười mắng yêu chồng :
- Anh rõ ngốc thật, một kế nông cạn thế mà không nghĩ ra ư? Nhưng thiên cơ bất khả lộ. Hãy nghe em nói nhỏ đây.
Dứt lời, nàng ghé sát tai chồng nói nhỏ một hồi...
Quách Tỉnh nghe cười khen :
- Diệu kế! Diệu kế!
Chàng lập tức truyền thuật lại cho Lã Văn Hoán nghe một lượt, rồi xin cho chuẩn bị sẵn mọi việc cần kíp.
Một ngày bình yên trôi qua. Đến sáng hôm sau, trong đại doanh của quân Mông Cổ vẫn không thấy động tĩnh gì, nhưng khi vừa vào giờ ngọ phía vương trướng của Hốt Tất Liệt vang nổi lên những tiếng tù và, tiếp đó một đại đội binh mã như nước vỡ bờ đê rầm rộ tiến quân đến chân thành Tương Dương. Chỉ thấy dưới ngọn cờ phất phới, một nhóm quân hùng dũng theo sau một vị thân vương thân mặc áo cẩm bào, đầu đội mão da beo, yên vàng ngọc đới. Thân vương này không ai xa lạ, chính là bào đệ của Hốt Tất Liệt là Ngột Lương Ha Đài oai phong lẫm liệt. Đi sau phía thân vương có hai người bị trói, chính là Giản, Lương nhị vị trưởng lão của Cái bang. Đám chiến sĩ tiền đội của Mông Cổ cùng đồng thanh nói lớn :
- Chúng ta đã đưa người đến đây. Vậy mau đem người ra trao đổi.
Tiếng vừa dứt, trên thành Tương Dương nổ luôn ba tiếng pháo, cầu treo được hạ ngay xuống. Một tuấn mã màu đỏ như máu từ trong thành vọt nhanh ra, trên yên ngựa chính là Quách Tỉnh. Chỉ thấy chàng ăm mặc lối khinh trang nhuyễn giáp, thái độ ung dung, ngồi hiên ngang trên bảo mã, không đem theo một tên lính và tùy tùng nào, nhưng hai bên bụng ngựa lại treo theo hai người là A Mạt Tinh và Tiền Tứ Hải, trói lại như hai đòn bánh tét, treo lủng lẳng trên bụng ngựa. Quân Mông không ngờ Quách Tỉnh to gan đến nước “đơn thân độc mã” đem tù binh ra trao đổi một mình như vậy.
Ngột Lương Ha Đài cũng phải khen phục đảm lược của đối phương. Chỉ thấy thân vương ôm tay lên thi lễ rằng :
- Thời tiểu vương còn ở Mạc ngoại từng nghe oai danh của Kim Đao phò mã tựa hồ như sấm rền bên tai, nay hân hạnh được gặp đây quả danh bất hư truyền. Nhưng tiếc thay phò mã không chịu hiểu cho lý lẽ thận nghịch của lòng trời, để rồi trái đạo hành sự.
Ngột Lương Ha Đài cũng như Hốt Tất Liệt từ nhỏ đã theo học danh nho Hán học, nên ăn nói cũng bắt chước theo văn hoa nhà Hán. Nào hay vị thân chưa nói hết lời, Quách Tỉnh đã quát như sấm nổ :
- Chớ nói nhảm!
Thân vương giựt mình ngạc nhiên. Tiếng Quách Tỉnh vang rền như chuông đồng nói :
- Tự cổ Hoa Di khác giống nòi (đời cổ người Trung Hoa gọi các nước nhỏ miền Đông Bắc là Di), con cháu nhà Hán vẫn nối truyền nhau sống ba miền Trung Thổ đã mấy ngàn năm. Giang sơn gấm vóc của Trung Nguyên tuyệt không thể nào để ngoại bang chiếm cứ, bởi vậy khi Ngũ Hồ loạn Hoa, chung quy họ Lý đời Đường thống nhất thiên hạ. Nay Mông Cổ nhà ngươi nhân dịp diệt Kim bang xua binh xuống cướp bóc Trung Thổ giết hại lương dân, như thế mà còn nói là thuận thiên hành sự, chẳng lẽ đạo trời lại xúi giục bọn ngươi giết người đốt nhà sao? Thôi chớ có nhiều lời, đôi bên hãy trao đổi người đi rồi nói chuyện sau.
Ngột Lương Ha Đài không ngờ tướng mạo khờ khạo như Quách Tỉnh thế mà cũng biết ăn nói như vậy đành nín thinh và quay lại nói với tả hữu thân binh :
- Thả người!
Quân Mông lập tức lại cởi trói cho nhị trưởng lão. Giản, Lương lập tức tiến vào thành Tương Dương. Quách Tỉnh thấy đối phương đã thả người, chàng bèn khom lưng xuống, chụp luôn A Mạt Tinh và Tiền Tứ Hải ngầm vận kình lực chấn dứt ngay dây trói cho hai người, đồng thời vừa đẩy vừa hất khiến cho hai thân hình vụt bổng luôn như hai lồng cầu, vọt qua đầu nhị trưởng lão đang bước về thành và rớt ngay trước mặt Ngột Lương Ha Đài.
Trong hai người ngã xuống ấy chỉ có tên béo Tiền Tứ Hải bị đau như dần, còn A Mạt Tinh lại khác hẳn, hắn vốn luyện về loại võ công của Thiên Trúc, giỏi về thuật “Yoga” nên khi thân mình rớt xuống đất, hắn đã nhảy ngay lên được. Với một thế như ngọn gió lốc, hắn quay thân nhanh như cắt giơ song chưởng đánh ngay về phía hậu não của nhị trưởng lão.
Ngoài sự bất ngờ của mọi người, Giản trưởng lão nghe tiếng gió vội quay nhanh người, vung chưởng đánh ra. “Bùng” một tiếng dội lên, hai luồng chưởng lực va chạm, cả đôi bên đều bị giật lùi ba bước. Quách Tỉnh thấy A Mạt Tinh đánh lén vậy, bất giác cả giận, chàng từ trên yên bảo mã tung người vọt xuồng, tính dùng kình lực “Hàng Long thập bát chưởng” đánh A Mạt Tinh một đòn cho bõ ghét. Ngay lúc đó, Tiền Tứ Hải lăn nhanh lại ôm ghì ngay lấy chân Quách Tỉnh.
Quách Tỉnh sôi gan, hất ngay chân trái lên, đá bay Tiền Tứ Hải lộn ngay một vòng. Ngọn đá đã khiến cho tên béo này hét lên một tiếng như heo bị thọc tiết và lăn đùng ra mặt đất chết giấc luôn, thì ra Tiền Tứ Hải đã bị gãy mất ba xương sườn. Quách Tỉnh vừa định chụp A Mạt Tinh, thình lình phía sau có một tiếng cười gằn, một luồng kình phong như xô núi vác biển ầm ầm đẩy tới.
Ngọn cuồng phong vừa tỏa ra, Quách Tỉnh đoán ra ngay là người nào, chàng vội xoay mình nhanh sang phía sau, quát rằng :
- Lão Độc Vật! Thì ra là ngươi à!
Thì ra ngọn cuồng phong dữ dội ấy chính là “Cáp Ma công” của Âu Dương Phong. Ngọn đòn đánh ra như thần xuất quỷ nhập, hiểm ác tuyệt độc. May là bản lãnh Quách Tỉnh mấy năm gần đây đã tiến triển khá nhiều, nếu không thế nào trong lối đánh này cũng bị Âu Dương Phong hạ độc thủ. Quách Tỉnh vừa xoay được mình, chưởng bên trái đánh bung ra ngọn “Thiên Hoách Chi Khuất” (sâu cuốn chiếu co mình), tay phải mở luôn ngọn “Nghênh Phong Thiết Phiến” (chống gió bằng quạt sắt) của quyền pháp Toàn Chân giáo đánh thẳng sang phía Âu Dương Phong.
Ngột Lương Ha Đài thấy Âu Dương Phong đã chọi với Quách Tỉnh thì cả mừng. Vị thân vương của Mông Cổ này vội thò vào mình, rút nhanh ra một lá cờ lệnh hình tam giác đưa bay phất phới trước gió quát lớn :
- Phá thành!
Lệnh vừa phát ra, cả ngàn quân kỵ binh Mông Cổ hò hét vang trời xua ngựa tiến nhanh như vũ bão phá đê.