Quãng thời gian sau đó, tôi coi như không có việc gì xảy ra, yên tâm dưỡng bệnh. Huyền Thanh cũng ở yên tĩnh dưỡng trong Lục Dã đường của mình, đợi sau khi có thể đi lại thì thỉnh thoảng tới thăm tôi nhưng cũng chỉ nói tới Tiêu Nhàn quán, nhân tiện trò chuyện vu vơ vài câu, hoàn toàn không nhắc gì tới Huyền Lăng, tránh cho hai bên rơi vào cảnh lúng túng, khó xử.
Thái Tần và Thái Lam một ngày ba bận mời tôi đến Tiêu Nhàn quán xem thử, tôi thoái thác không được, rốt cuộc đã chọn một ngày đẹp trời dẫn Hoán Bích đi theo họ qua đó.
Tiêu Nhàn quán cách Lục Dã đường không xa, là một tòa tiểu viện nhỏ độc lập, hết sức thoáng đãng, tịch mịch. Chúng tôi chậm rãi bước vào, thấy trong sảnh đường có bày mấy món đồ cổ, đều vô cùng tinh xảo, giản đơn, không hề hoa lệ quá mức. Trên tường có treo bức tranh “Trâm hoa sĩ nữ đồ” của Chu Phưởng thời Đường, từng nét bút đều nhẹ nhàng mềm mại, vừa tao nhã lại vừa cổ kính. Dưới đất có bày chiếc bàn đóng bằng gỗ sưa, xung quanh là mấy chiếc ghế. Trong căn phòng nhỏ phía bên trái có đặt một giá sách lớn, bên trên bày những cuốn sách chỉnh tề, còn tỏa ra mùi mực thoang thoảng.
Thái Tần mỉm cười, nói: “Vương gia nói tiểu thư thích xem sách, do đó mới đặc biệt dặn dò người dưới chọn những cuốn sách tốt nhất trong thư phòng của ngài mang tới đây để tiểu thư xem giải sầu.”
Tôi khẽ cười hờ hững. “Vương gia đã phải nhọc lòng tốn sức rồi, thực khiến ta áy náy quá!”
Thái Tần nhoẻn miệng cười tươi để lộ hai hàm răng trắng ngần, cất giọng lanh lợi nói: “Nô tỳ thấy Vương gia tuy nhọc lòng tốn sức nhưng lại rất vui vẻ, nô tỳ hầu hạ Vương giamười năm nay, đây là lần đầu thấy Vương gia như vậy. Nếu tiểu thư thích xem những cuốn sách này, có lẽ Vương gia sẽ lại càng vui vẻ hơn.”
Tôi lấy một cuốn sách xuống, mở ra, lướt nhẹ đầu ngón tay trên trang sách đã ố vàng, tâm trạng giống hệt như trang sách, vốn bình lặng nhưng lại bị bàn tay ai đó nhẹ nhàng lướt qua, làm nổi lên muôn vàn gợn nhẹ, lan tỏa hết lớp này tới lớp khác.
Tôi gấp cuốn sách lại, làm bộ vô tình khẽ nói: “Vương gia cư xử với người khác vẫn luôn chân thành như thế, nếu có người nào có thể đàm luận với y đôi câu về văn chương thơ phú, y liền coi người đó như tri âm tri kỷ, dùng thành tâm thành ý mà đối đãi.”
Thái Tần hơi nghiêng đầu qua một bên, mím môi cười, nói: “Còn chẳng thế sao? Có điều nhìn thấy nhân vật như tiểu thư, lại thường xuyên tiếp xúc, ai nấy đều nảy sinh cảm giác gần gũi vô cùng. Đừng nói là Vương gia, ngay đến nô tỳ và Thái Lam cũng cảm thấy có thể làm chút việc gì đó cho tiểu thư chính là cái phúc của bản thân.”
Tôi không kìm được bật cười một tiếng, chỉ tay vào nàng ta và Thái Lam. “Chẳng trách Vương gia lại quý ngươi và Thái Lam như vậy, dùng các ngươi làm thị tỳ tùy thân, quả nhiên là giỏi ăn nói. Vương gia có hai người như các ngươi ngày ngày bầu bạn kề bên, chắc hẳn cũng bớt được không ít nỗi phiền não, có thể yên hưởng cuộc sống thanh nhàn.”
Thái Lam đứng phía sau, vừa nghe vậy liền vội vàng xua tay, nói: “Tiểu thư lầm to rồi. Thứ nhất, bọn nô tỳ chỉ là người hầu của Vương gia, không khác gì các thị nữ khác, không thể nói là ‘tùy thân’ được, xưa nay chỉ có một mình A Tấn là thường xuyên đi theo Vương gia thôi. Chẳng qua Vương gia thấy bọn nô tỳ không quá ngốc nghếch, do đó mới đặc biệt nâng đỡ, cho đến đây hầu hạ tiểu thư. Thứ hai…” Nàng ta thoáng trầm ngâm, hai bờ má ửng hồng, do dự không nói thêm nữa.
Rốt cuộc vẫn là Thái Tần mau mồm mau miệng, nhỏ giọng nói: “Thứ hai, nô tỳ và Thái Lam tỷ tỷ cũng không phải là sủng tỳ thị thiếp của Vương gia, do đó…”
Thì ra là vậy! Tôi vốn cũng biết điều này, vừa rồi chẳng qua chỉ nói đùa một câu thôi, nhưng sau khi nghe bọn họ chính miệng xác nhận, nơi đáy lòng vẫn không kìm được sinh ra một tia nhẹ nhõm. Mà lúc này tôi hoàn toàn không phát hiện ra, Hoán Bích đứng sau lưng tôi cũng có vẻ như vừa buông được một tảng đá đè nặng trong lòng.
Thế nhưng lòng tôi rất nhanh đã trầm xuống, dù hai người trước mắt không phải thị thiếp của y thì cũng có liên quan gì tới tôi đâu.
Tôi đang định nói gì, chợt thấy Hoán Bích vốn một mực im lặng đứng sau lưng mình bước lên phía trước, một tay kéo tay Thái Tần, một tay kéo tay Thái Lam, nói với giọng thân mật: “Tiểu thư nhà ta vừa rồi chẳng qua chỉ nói đùa vậy thôi. Tiểu thư thấy hai vị cô nương vừa xinh đẹp lại vừa dịu dàng, trong lòng thực vô cùng yêu quý, thầm nghĩ với dung mạo và tính tình của hai vị cô nương, tuy chưa chắc đã có thể trở thành trắc phi nhưng vị trí thị thiếp hay di nương thì thực là mười phần chắc chắn, do đó mới nói ra những lời như vậy. Hơn nữa, dù hiện thời không phải nhưng ai dám nói sau này hai vị không có cái phúc phận đó, người ngoài dù hâm mộ cũng chẳng thể làm gì khác được. Đừng nói là tiểu thư, ngay đến bản thân ta, trong lòng cũng nghĩ mình sớm muộn gì cũng phải chúc mừng hai vị cô nương.”
Từ sau khi Huyền Thanh sai Thái Tần và Thái Lam tới hầu hạ tôi, vì hai người bọn họ dung mạo xuất chúng, ăn mặc hoa lệ, không giống các thị nữ bình thường nên khi Hoán Bích và bọn họ ở chung một chỗ thường luôn tỏ ra hờ hững, không hề thân mật. Bây giờ Hoán Bích chủ động bước lên trò chuyện với bọn họ, còn nói năng khách sáo như vậy, đúng là hiếm có vô cùng, tôi thấy thế cũng không khỏi thầm kinh ngạc.
Thái Tần và Thái Lam biết Hoán Bích là thị nữ hầu cận của tôi, lại cùng lớn lên từ nhỏ, ngay đến Huyền Thanh cũng không cư xử với Hoán Bích như với người dưới, do đó cả hai đều khách sáo vô cùng, bây giờ thấy Hoán Bích thân mật như vậy thì tất nhiên đều không dám sơ suất. Thái Tần vội cười, nói: “Hoán Bích cô nương nói vậy thực khiến ta và Thái Lam tỷ tỷ phải tổn thọ rồi.”
Thái Lam nghiêm túc nói: “Đám nô tỳ hầu hạ ở Thanh Lương Đài bọn ta không so được với những người Thanh Hà Vương phủ, đều là nữ tử được chọn từ các gia đình đủ ăn đủ mặc trở lên. Đám người bọn ta ai nấy đều gia cảnh điêu linh, phiêu bạt bên ngoài, sống chết chỉ cách nhau một lằn ranh, may được Vương gia cứu về, từ đó mới ở lại Thanh Lương Đài làm nô tỳ. Trong mắt bọn ta, Vương gia chính là đại ân nhân, quyết không được nảy sinh suy nghĩ gì quá phận. Bây giờ bọn ta hết lòng hết sức hầu hạ Vương gia, sau này sẽ hết sức hầu hạ Vương gia và Vương phi.” Thoáng dừng một chút, lại quay sang nói với tôi: “Vương gia coi tiểu thư như tri kỷ, tiểu thư hẳn cũng biết rõ, Vương gia nhất định sẽ không có thị thiếp hay trắc phi gì đâu. Nếu có thì cũng chỉ có duy nhất một vị Vương phi chính thất thôi, đúng không?”
Tôi khẽ gật đầu. “Vương gia quả thực đã từng nói như vậy, nữ tử trên đời tuy có muôn ngàn nhưng y sẽ chỉ chọn một người duy nhất.”
Khóe mắt Hoán Bích giật nhẹ mấy cái nhưng rất nhanh đã bình thường trở lại, cười tươi, nói: “Nhưng ít nhất có thể ở bên Vương gia hầu hạ cả đời cũng là cái phúc đủ khiến người khác phải ngưỡng mộ rồi!”
Nghe Hoán Bích nói vậy, hai tỷ muội Lam, Tần tất nhiên đều thấy hợp ý vô cùng, liền mỗi người một câu, cả ba dần trở nên thân thiết. Tôi thấy bọn họ nói năng vui vẻ thì cũng không đành lòng quấy nhiễu, chỉ lẳng lặng ngó nghiêng quan sát Tiêu Nhàn quán.
Trong Tiêu Nhàn quán có bày một chiếc giá gỗ nhiều tầng, bên trên có bày mấy hộp ấn đã được khắc sẵn, ngoài ra còn có đá Kê Huyết, đá Thanh Điền, tất cả đều hết sức chỉnh tề. Nơi trước cửa sổ có đặt một thư án dài, bên trên trải sẵn giấy Trừng Tâm Đường[], chỉ đợi có người tới hạ bút, ngoài ra bên cạnh còn có tám ống bút làm bằng gỗ tử đàn, một chậu rửa bút, một giá gác bút, một nghiên mực, tất cả đều được làm bằng ngọc bích, cực kỳ tao nhã. Bên dưới ô cửa sổ quay về hướng nam có đặt một chiếc sạp dài, bên trên trải đệm màu tím, trên chiếc bàn cạnh sạp có đặt hai chậu hoa thủy tiên, tỏa hương thơm dìu dịu. Trên cửa sổ có mắc một bức rèm màu lam mỏng như cánh ve, phía dưới treo một chậu hoa lan, tuy đang là mùa đông nhưng cành lá vẫn rất tươi tốt. Chính giữa phòng có đặt một chiếc bàn trổ hoa làm bằng gỗ tử đàn, trên bàn đặt một chiếc bình sứ mỹ nhân màu xanh, bên trong cắm mấy cành mai đỏ, hoa nở lác đác, ngoài ra bên cạnh còn có một bộ đồ uống trà, chế tác á tinh xảo. Ngay gần chiếc bàn lại có đặt một chiếc giá thêu, những loại tơ muôn màu đủ sắc đều đã được chuẩn bị sẵn, nằm lẳng lặng kề bên.
[] Loại giấy do Nam Đường hậu chủ Lý Dục thời Ngũ Đại Thập Quốc chế ra, được bình là loại giấy tốt nhất trong lịch sử Trung Quốc – ND.
Đi vòng qua bức bình phong bốn tấm đóng bằng gỗ lim, bên trên điêu khắc hình hoa anh thảo, lại đi tiếp vào bên trong nữa, tôi nhìn thấy một chiếc giường ngủ, bên trên mắc màn màu xanh lam có thêu những bông hoa hải đường rất mờ. Trên giường đặt một chiếc chăn gấm màu đỏ được gấp gọn ghẽ, phía dưới trải đệm may bằng da chồn trắng, hết sức ấm áp và mềm mại. Sàn phòng được lát bằng những phiến đá xanh, ở giữa điêu khắc hoa lạc tiên, trên bức tường trát vôi trắng lóa không có bức tranh chữ nào, chỉ treo hai bức tranh thêu tinh xảo, một bức thêu hình hoa mẫu đơn, một bức thêu hình phượng hoàng đậu gốc ngô đồng, đều ở nơi đầu giường.
Tôi nhắm mắt, khẽ hít một hơi, ngửi thấy một mùi thơm ngọt ngào thấm vào tận tim phổi, sau đó liền nhìn thấy trên chiếc móc treo màn có treo một quả cầu bạc dát vàng, mùi thơm chính là từ đó tỏa ra, còn là mùi hoa bách hợp mà tôi vốn yêu thích nhất.
Y cẩn thận an bài như vậy, thực sự chu đáo vô cùng, quả đã biến nơi đây thành phòng ngủ của một nữ nhi khuê các.
Tôi thấy ngoài cửa sổ mập mờ bóng ảnh, nhất thời tò mò đẩy ra, nhìn thấy bên ngoài là một khu vườn, trong vườn không trồng những loại mai đỏ, mai trắng bình thường, mà là loại mai có màu xanh biếc. Lúc này đang là mùa hoa mai nở rộ, những bông mai xanh khắp vườn đều đang khoe sắc, tựa như vô số viên ngọc bích treo trên cây, ngay đến ánh dương chiếu xuống cũng bị nhuốm mấy tia xanh biếc, thực có vẻ đẹp không giống ánh xuân mà còn hơn cả ánh xuân. Tôi nhất thời ngơ ngẩn, không thể nào dời mắt đi được.
Hoán Bích không biết đã bước vào tự lúc nào, lặng lẽ tiến tới bên cạnh tôi, khẽ nói: “Chỉ nhìn thoáng qua là biết, Vương gia nhất định đã hao tổn không ít tâm huyết. Không nói tới thứ khác, chỉ riêng bức ‘Trâm hoa sĩ nữ đồ’ kia đã là vật có giá trị liên thành rồi.”
Tôi không nói gì, chỉ nhìn những bông mai xanh biếc đầy vườn. Nếu y thực sự biết về cuộc gặp gỡ giữa tôi và Huyền Lăng trong Ỷ Mai viên, từ đó tránh trồng những loại mai đỏ, mai trắng, sợ làm tôi thương tâm, vậy y quả đúng là chu đáo quá chừng rồi. Dù không phải thế thì để kiếm được nhiều cây mai xanh thế này cũng chẳng dễ dàng gì.
Ánh mắt Hoán Bích cũng bị vườn mai đặc biệt kia thu hút, sau một thoáng ngẩn ngơ liền đột nhiên cất giọng mừng rỡ tột cùng: “Tiểu thư nhìn kìa, những bông hoa mai kia đều có màu xanh biếc.”
Tôi chẳng còn lòng dạ nào nghĩ tới việc tại sao muội ấy lại mừng như vậy, chỉ hờ hững “ừm” một tiếng coi như trả lời.
Lời của Huyền Thanh dường như vẫn còn vang vọng bên tai: “Lúc ở trong cung, Thanh từng thành tâm mời nương tử tới Thanh Lương Đài gặp gỡ, nương tử lại lấy cớ rằng mùa hạ đã qua, Thanh Lương Đài quá mát mẻ mà từ chối. Nhưng Thanh vẫn một lòng mong chờ, hy vọng có dịp nào đó cơ duyên xảo hợp, nương tử có thể tới Thanh Lương Đài chơi, như thế thực tốt biết mấy. Ngay từ lần đầu gặp mặt, Thanh đã chuẩn bị sẵn Tiêu Nhàn quán rồi, bây giờ rốt cuộc đã có cơ hội dùng đến.” Khi nói những lời này, y khó có thể che giấu được sự mừng rỡ và thỏa mãn.
Tôi cũng khẽ cười. “Vương gia cũng từng nói, Thanh Lương Đài đông ấm hè mát, nếu có một ngày ta cảm thấy thời tiết quá lạnh thì cũng có thể tới chơi, lò sưởi của Vương gia luôn sẵn lòng vì ta mà xua tan cái lạnh. Tuy Vương gia có lẽ cũng mong rằng vĩnh viễn không có một ngày như thế, nhưng bây giờ người chẳng ngại băng tuyết, giúp ta giữa cơn hoạn nạn vẫn là vị Thanh Hà Vương coi lời hứa đáng giá ngàn vàng của năm xưa.”
Y cũng chu đáo, sợ tôi bất an nên chỉ bảo Thái Tần và Thái Lam đưa tôi tới đây.
Tôi nghe thấy tiếng bước chân khe khẽ phía sau lưng, biết là Thái Tần và Thái Lam đã tới. Hai người khẽ nở nụ cười, Thái Lam nói: “Tiểu thư có hài lòng với sự bố trí trong Tiêu Nhàn quán không? Nếu hài lòng thì hôm nay có thể vào ở được rồi.”
Thái Tần lại nói thêm: “Tiêu Nhàn quán là nơi thanh nhã nhất ở Thanh Lương Đài, hơn nữa còn rất gần Lục Dã đường của Vương gia.”
Lòng tôi thầm do dự, chợt thấy Hoán Bích khẽ kéo tay áo tôi, thấp giọng khẩn cầu: “Tiểu thư, chúng ta ở lại đây được không?” Thoáng dừng một chút, nàng ta lại tiếp: “Nơi này phong cảnh đẹp, thích hợp cho tiểu thư dưỡng bệnh. Hơn nữa…” Vừa nói Hoán Bích vừa liếc mắt ra ngoài vườn mai vẻ si mê.
Tôi cười nói: “Muội thích vườn mai đó đúng không?”
Hoán Bích khẽ gật đầu. Dường như chính cái gật đầu ấy đã làm trái tim vốn đang dao động của tôi trở nên kiên định, rồi tôi trầm giọng nói: “Ta rất thích nơi này, phiền hai vị cô nương giúp ta thu dọn quần áo mang tới đây.”
Thái Tần và Thái Lam chỉ mong nghe thấy câu này, lập tức mừng rỡ rời đi.
Buổi tối hôm đó, tôi đã đến Tiêu Nhàn quán ở. Nơi này phong cảnh tao nhã, chăn đệm ấm áp, sáng sủa thông gió, vừa mở cửa sổ là có thể ngửi thấy mùi hoa mai thơm dịu, thực là một chốn thần tiên tuyệt vời.
Cứ ở như vậy được mấy ngày, tôi lại càng cảm nhận được sự chu đáo và sâu sắc của y, mỗi việc y làm đều cực kỳ ổn thỏa.
Sáng sớm hôm ấy ngủ dậy, tôi thấy hơi đau đầu, liền cắt hai miếng cao dán dán lên trán. Hoán Bích vô cùng yêu quý những bông mai xanh kia, ngày ngày đều hái mấy cành mai về đặt nơi đầu giường, mỗi khi có thời gian rảnh rỗi là lại ngồi trước mấy bông hoa, ngắm nhìn chăm chú, mà mùi thơm dìu dịu của hoa mai cũng khiến tôi cảm thấy thư thái vô cùng.
Tôi tựa người vào chiếc chăn kê sau lưng, cười tủm tỉm, nói với Hoán Bích: “Hiếm khi thấy muội thích hoa như vậy đấy!”
Hoán Bích cũng khẽ nở nụ cười. “Nô tỳ đang ngắm hoa, cũng là đang suy nghĩ về tâm ý của Vương gia.”
Tôi cúi đầu vuốt lại mép chăn cho phẳng, nhẹ nhàng cất tiếng: “Lần này ta bị ốm, phải ở lại Tiêu Nhàn quán này, Vương gia quả đã tốn không ít tâm tư.”
Hoán Bích liếc mắt nhìn tôi, thấp giọng nói: “Tiểu thư cho rằng chỉ có lần này Vương gia mới quan tâm tới tiểu thư như vậy sao? Kỳ thực ngay từ lúc ở trong cung…”
Tôi lên tiếng ngắt lời Hoán Bích: “Ta biết!” Sao tôi không biết chứ, ngày hôm đó, chính y đã che giấu cho tôi khi tôi lén đi thăm My Trang, hôm sinh nhật tôi, chính y cũng đã chuẩn bị những bông hoa sen nở rộ đó, lúc tôi ngả lòng suy sụp, chính y mang tới cho tôi sự an ủi, còn hết lòng khuyên nhủ tôi. Bất kể là thêu hoa trên gấm hay tặng than giữa trời tuyết rơi, y cũng đều vì tôi mà nhọc sức.
Thế nhưng Hoán Bích lại khẽ lắc đầu. “Nô tỳ không nói tới những việc mà Vương gia làm để lấy lòng tiểu thư.” Sau đó liền hơi ngoảnh đầu qua một bên. “Tiểu thư còn nhớ lúc người bị sẩy thai không? Khi ở trong Mật Tú cung của Tích Hoa phu nhân ấy!”
Mật Tú cung của Tích Hoa phu nhân! Trái tim tôi bất giác nhói đau, bao nhiêu chuyện cũ lại hiện về trước mắt, đó là một mảng đỏ tươi tanh nồng, mùi tanh không ngừng xộc lên mũi, khiến đầu óc tôi trở nên hỗn loạn. Sao tôi có thể quên được đây? Đó là con tôi, đứa con đầu tiên của tôi, nó đã sống trong bụng tôi được bốn tháng, vậy mà lúc ở trong Mật Tú cung lại phải rời khỏi thân thể tôi. Khi đó tôi đã đau biết mấy, sinh mệnh của nó dần mất đi theo từng giọt máu chảy ra khỏi thân thể tôi, tôi vĩnh viễn không sao quên được.
Nếu không có lần sẩy thai đó, có lẽ đến bây giờ tôi vẫn là một sủng phi được Huyền Lăng cưng nựng trong lòng bàn tay, không biết tới đau khổ. Những sự nổi chìm trong cuộc đời tôi bắt đầu chính từ khoảnh khắc đó. Tôi không kìm được nắm chặt hai bàn tay. Lần sẩy thai đó tôi cứ ngỡ là do Hoa Phi gây ra, chẳng ngờ lại là An Lăng Dung… Ngay từ lúc tặng Thư ngân giao cho tôi, ả đã giấu sẵn sát cơ rồi. Giữa bao nhiêu sát cơ và quỷ kế trùng trùng như thế, tôi thực không thể giữ nổi đứa bé ấy, và việc này cũng trở thành nỗi đau vĩnh viễn của tôi. Vì thế, kể từ đó về sau, không có ai dám tùy tiện nhắc tới việc này trước mặt tôi nhưng hôm nay Hoán Bích lại đột nhiên nhắc tới, khiến tôi không khỏi có chút sững sờ. “Tiểu thư còn nhớ lần đó là ai cứu tiểu thư ra khỏi Mật Tú cung không?”
Là ai? Là Huyền Thanh. Trái tim tôi đột nhiên chấn động, trước khi biết được sự thực, trong khoảnh khắc hôn mê, tôi đã cho rằng người đến cứu tôi là Huyền Lăng, hoàn toàn không nghĩ gì tới Huyền Thanh. Còn nhớ khi đó, Hoa Phi Mộ Dung Thế Lan vẫn luôn coi Nhữ Nam Vương là chỗ dựa, đè nén tất cả các phi tần trong cung, thậm chí chẳng thèm để Hoàng hậu vào mắt. Còn Huyền Thanh, vì duyên cớ mẫu thân của y và mẫu thân của Nhữ Nam Vương lúc sinh tiền có nhiều mâu thuẫn, do đó y vẫn luôn bị Nhữ Nam Vương căm hận, coi như cái gai trong mắt, muốn sớm diệt trừ. Mà ngày đó trong triều đình, Nhữ Nam Vương Huyền Tế tay nắm thực quyền, lại có thể điều động quân binh nơi Quan Ngoại, thế lực cực lớn, ngay đến Huyền Lăng thân là Hoàng đế cũng phải kiêng dè mấy phần. Trong khi đó, Huyền Thanh chỉ là một vị vương gia nhàn tản, không quyền không thế, cả ngày gửi tình vào cầm kỳ thi họa, né tránh mũi nhọn của đối phương. Ngày đó, y tùy tiện xông vào Mật Tú cung của Hoa Phi để cứu tôi giữa lúc nguy nan, không chỉ đắc tội với Hoa Phi đang được sủng ái, còn trực tiếp gây xung đột với phe phái của Nhữ Nam Vương, thực đã hoàn toàn trái ngược với tác phong hành sự của y thường ngày, khiến người ta cảm thấy khó hiểu.
Hoán Bích trước giờ chưa từng nhắc tới việc hôm đó trước mặt tôi, hôm nay lại rủ rỉ kể ra tất thảy: “Ngày đó, tiểu thư bị phạt quỳ trong Mật Tú cung của Tích Hoa phu nhân, ngay đến Kính Phi nương nương cũng không sao cứu được, nô tỳ liền biết là không hay. Hôm đó Cận Tịch đi theo tiểu thư, tất nhiên không thể thoát thân, mà các phi tần cũng đều ở trong Mật Tú cung cả, Hoàng thượng và Hoàng hậu lại đều ra ngoài tế trời, Thái hậu thì bệnh nặng hôn mê, tự lo cho mình còn chẳng xong, sao còn để ý đến tiểu thư được, tình hình quả đúng là lên trời hết đường, xuống đất hết lối. Nô tỳ đứng bên ngoài, thấy tiểu thư bị Tích Hoa phu nhân giày vò như vậy, không khỏi thầm lo cho đứa bé trong bụng tiểu thư, nhưng lại chẳng nghĩ ra được cách nào để cứu tiểu thư cả, thực sự sốt ruột vô cùng. Thế nhưng, trong cung còn có ai dám đắc tội với Tích Hoa phu nhân đây?” Hoán Bích thoáng dừng một chút rồi lại tiếp: “Vừa khéo lúc đó nô tỳ nhìn thấy A Tấn đi ngang qua, mới chợt nhớ tới việc Lục Vương gia vì muốn tiện chăm sóc cho Thái hậu đang bị bệnh, bèn ở lại trong Lũ Nguyệt Khai Vân quán nơi hồ Thái Dịch.”
Lũ Nguyệt Khai Vân quán là nơi ở của Huyền Thanh trước lúc rời cung mở phủ riêng. Y còn chưa thành hôn, lại là do Thái hậu nuôi nấng trưởng thành, do đó nơi hồ Thái Dịch vẫn lưu lại nơi ở đó cho y, giúp y qua lại giữa hoàng cung và vương phủ thêm thuận tiện, có thể thường xuyên vào cung bầu bạn với Huyền Lăng và vấn an Thái hậu. Hơn nữa, Lũ Nguyệt Khai Vân quán được xây giữa hồ Thái Dịch, các phi tần dù có chèo thuyền đi chơi cũng sẽ không tới một nơi xa như vậy, vừa hay có thể tránh các mối hiềm nghi.
“Trước đây nô tỳ từng gặp A Tấn, biết y là tâm phúc thân tín của Vương gia, hoàn toàn có thể tin tưởng được, thế là bèn xin A Tấn đưa mình tới Lũ Nguyệt Khai Vân quán tìm Lục Vương gia để nhờ nghĩ cách cứu tiểu thư.” Dường như Hoán Bích đã chìm vào dòng hồi ức. “Đó là lần đầu tiên nô tỳ tới Lũ Nguyệt Khai Vân quán, chỉ thấy ngoài quán có vô số bông hoa hợp hoan màu vàng nhạt và màu hồng đang nở rộ, không ngừng rung rinh giữa cơn gió nhẹ thoảng qua, nếu không vì nôn nóng cứu tiểu thư, nô tỳ nhất định đã dừng chân ngắm nhìn thật kĩ. Vương gia khi đó đứng ngay giữa biển hoa, đang cúi đầu viết chữ. Nô tỳ không biết y viết gì nhưng y vừa nhìn thấy nô tỳ tới liền biết ngay là đã xảy ra chuyện. Bởi trước đó, sau khi tiểu thư có thai, Vương gia từng dặn dò nô tỳ, nếu tiểu thư gặp chuyện gì khó giải quyết, nô tỳ có thể tới Lũ Nguyệt Khai Vân quán tìm y, nếu y không ở đó có thể bảo A Tấn chuyển lời cho y. Hôm đó A Tấn tự mình dẫn nô tỳ tới, bộ dạng nô tỳ lại hết sức luống cuống, hốt hoảng, Vương gia vừa nhìn liền biết nhất định đã xảy ra chuyện lớn. Thế rồi nô tỳ bật khóc thành tiếng, quỳ xuống cầu xin Vương gia nhất định phải tới Mật Tú cung cứu tiểu thư.” Sau khi thoáng ngẩn ngơ, Hoán Bích kể tiếp: “Vừa nghe nô tỳ kể xong, sắc mặt Vương gia liền tái nhợt đi, cũng không nói là sẽ cứu thế nào, vứt ngay giấy bút qua một bên, kéo nô tỳ đi về hướng Mật Tú cung. Khi đó, A Tấn nôn nóng đến suýt phát điên, ra sức kéo Vương gia lại, xin Vương gia đừng lỗ mãng kẻo đắc tội với Tích Hoa phu nhân và Nhữ Nam Vương. Nhưng khí lực của Vương gia lớn như thế, A Tấn sao kéo lại nổi. Đừng nói là A Tấn, ngay đến các thị vệ canh gác bên ngoài Mật Tú cung cũng sợ đến ngây người, không cách nào ngăn cản. Thế rồi bọn nô tỳ cứ thế xông vào Mật Tú cung, Vương gia thân là nam tử mà lại tùy tiện xông vào như vậy, các phi tần kia đều sợ hãi vô cùng, hoang mang nấp vào nội điện, ngay đến Tích Hoa phu nhân cũng tái nhợt mặt mũi, chẳng để ý gì đến việc tị hiềm, liền nổi nóng, phát sinh tranh chấp với Vương gia. Ôi, khi đó Tích Hoa phu nhân nào thèm nể mặt ai, nhưng nàng ta không chịu nghĩ thử xem, Vương gia dám xông vào Mật Tú cung cứu người như thế, chẳng lẽ còn kiêng dè nàng ta hay sao?”
Trong quãng hồi ức đau khổ năm xưa, tôi chỉ nhìn thấy Huyền Thanh vì tôi mà trực tiếp tranh cãi với Mộ Dung Thế Lan, đó là lần đầu tiên tôi thấy y nôn nóng như thế, sắc mặt biến đổi hẳn. Trong khi đó, thường ngày Huyền Thanh luôn nho nhã, ung dung.
“Khi đó tiểu thư đã chảy rất nhiều máu, cả chiếc váy đều bị nhuộm thành màu đỏ, còn ngất lịm đi, Thẩm tiểu thư có gọi thế nào cũng không tỉnh. Nô tỳ sợ quá, chỉ biết bật khóc nức nở, Vương gia thấy không có ai giúp được việc gì, liền chẳng để tâm tới nam nữ thụ thụ bất thân, bế tiểu thư về Đường Lê cung.” Hoán Bích kể tới chỗ cảm động, không kìm được rưng rưng nước mắt. “Ngay sau đó, Kính Phi nương nương cũng tới, thấy bộ dạng tiểu thư như vậy thì thiếu chút nữa ngất xỉu, vội vàng chạy đi gọi thái y. Vương gia sai A Tấn cưỡi khoái mã đi mời Hoàng thượng về, lại đích thân canh giữ bên ngoài Đường Lê cung để đề phòng Tích Hoa phu nhân thừa cơ sinh sự, đến tận khi Hoàng thượng quay về.”
Những chuyện tiếp theo đó Hoán Bích không kể nữa, vì tôi đã biết cả rồi, đứa bé của tôi rốt cuộc vẫn không giữ được. Thế nhưng tôi thực sự chấn động vô cùng, lòng dạ sục sôi không ngớt, nhất thời chẳng nói nổi lời nào. Thì ra ngay từ sớm, y đã đối xử với tôi như thế, bảo vệ tôi, suy nghĩ chu toàn cho tôi. Tôi cứ luôn nghĩ rằng mình đã biết, nhưng thì ra lại chỉ biết ít như vậy, chỉ là một góc nhỏ của ngọn núi băng.
“Ai cũng nói vì tiểu thư là Hoàn Quý tần, là sủng phi mà Hoàng thượng yêu thích nhất, lại đang có thai, do đó Lục Vương gia mới bất chấp tất cả để tới cứu người, thậm chí không ngại đắc tội với Tích Hoa phu nhân có Nhữ Nam Vương đứng sau chống lưng.” Hoán Bích nhìn tôi, đôi mắt sâu thẳm như hai đầm nước, giọng nói ngợp nỗi u buồn: “Nô tỳ cũng luôn cho rằng như vậy. Nếu không vì ngày đó chính mắt nhìn thấy Vương gia vì tiểu thư mà rơi lệ, nô tỳ cũng chẳng dám tin. Đó là lần đầu tiên nô tỳ nhìn thấy một nam tử rơi lệ. Nam nhi có lệ chẳng dễ rơi, nhưng ngày đó ở Mật Tú cung, nô tỳ đã chính mắt nhìn thấy nước mắt của Vương gia nhỏ xuống mặt tiểu thư. Tiểu thư, khi đó nô tỳ đã hiểu hết tất cả… Vương gia vì tiểu thư mà đau lòng.”
“Quý tần!” Trong khoảnh khắc cuối cùng trước khi mất đi tri giác, tôi chỉ nghe thấy người bế tôi gọi tôi như vậy. Trong tiếng gọi ấy ẩn chứa thứ tình cảm đậm sâu cùng muôn vàn nỗi đau đớn và kìm nén. Tôi vẫn luôn ngỡ đó là Huyền Lăng, phu quân của tôi, y vì tôi mà đau lòng, vì tôi mà nôn nóng. Giọt nước mắt kia dường như nóng bỏng vô cùng, để lại một dấu vết thật sâu, tôi vừa nhớ lại liền cảm thấy nơi má mình bỏng rát. Vệt nước mắt trên má tôi sớm đã biến mất hoàn toàn, nhưng tôi lại hiểu, nó đã nhỏ xuống trái tim tôi ra sao, để lại một dấu vết đậm sâu đến nhường nào. Đó là giọt nước mắt Thanh rơi vì thương tôi, cũng trở thành tâm ma của tôi hôm nay, thường xuyên phát tác, tôi biết phải ngăn cản thế nào đây?
Tôi chẳng qua chỉ đang dốc chút sức tàn gắng gượng phản kháng mà thôi. Im lặng một hồi, tôi cứ thế nhìn chiếc chăn gấm thêu hoa trước mặt mà ngơ ngẩn, những bông hoa trên đó đều tràn đầy màu sắc tươi vui, là kiểu dáng thường dùng của gia đình quan lại. Tôi hiểu rõ dụng tâm của Huyền Thanh, y kêu người chuyển đi hết những thứ đồ mang kiểu dáng cung đình là vì sợ tôi nhìn thấy mà sinh lòng thương cảm. Tuy nơi này là Thanh Lương Đài của y, cách xa hoàng cung nhưng hơi thở của cung đình thực sự đã rời xa rồi sao? Từ trong lò hương vướng vít bay ra làn khói thơm của loại hương liệu mà tôi thích, chính là Trầm thủy hương đắt tiền mà chỉ các cung phi có địa vị trong cung mới có tư cách dùng. Hơn thế nữa, bản thân y cũng có muôn vàn mối liên hệ không thể nào dứt bỏ với chốn hoàng cung.
Tâm trạng tôi mới thoáng đó đã trở nên trống rỗng, không sao khống chế nổi. Từ ngoài cửa sổ, gió nhè nhẹ thổi vào, tựa như nàng thục nữ đang thả bước, mang theo một nét lạnh lùng quét nhẹ qua bờ má tôi.
Tấm rèm cửa sổ bị gió hất bay lên trong một thoáng, phong cảnh ngoài cửa sổ hiện ra làm mắt tôi hoa đi. Khi ấy, lòng tôi xao động từng hồi, đột nhiên cảm thấy mình yêu y biết mấy, nhưng lại nhất định không thể để mình yêu y. Sau một thoáng ngẩn ngơ, tất cả mọi sự buồn vui, cay đắng, hụt hẫng và những nỗi kỳ vọng của thời thiếu nữ đồng loạt trào dâng trong trái tim tôi. Trong những năm tháng đầu đời, khi bản thân vẫn còn mang đầy hy vọng về tình yêu, tôi đã từng vô cùng khao khát có được một vị lang quân không vì tôi đẹp hay xấu mà vui buồn, không vì gia thế tôi sang hay hèn mà để bụng, cùng tôi ý hợp tâm đầu, có thể sớm ngày chung sống bên nhau tới tận lúc đầu bạc răng long, vĩnh viễn không chia lìa. Trước mắt tôi giờ đã có một người như vậy, y phù hợp với mọi yêu cầu ban đầu của tôi, cũng là một giấc mơ tuyệt vời về tình yêu của tôi. Y hiểu tôi, yêu thương tôi, cùng tôi tâm ý tương thông, lại không hề để tâm tới việc dung nhan tôi thay đổi.
Thế nhưng tôi lại chùn chân, lại sợ hãi. Bàn tay của thời gian khiến chúng tôi không gặp được nhau ngay từ đầu, đến bây giờ, sự việc còn có thể thay đổi được sao? Tôi từng vô số lần thầm nghĩ, trước đây, khi tôi chưa vào cung, chưa trở thành sủng phi của Huyền Lăng, có lẽ tôi có một phần vạn cơ hội được cùng y gặp gỡ, quen biết và yêu nhau. Nhưng một phần vạn cơ hội ấy đã biến mất rồi, bởi khi gặp y, tôi đã là phi tử của Huyền Lăng, tôi không thể thay đổi được gì, không thể nói, không thể làm, khi đối mặt với tình ý mà y vô ý lộ ra, tôi chỉ có thể giả bộ như không biết, cố sức kìm nén tâm trạng của bản thân. Mà đến bây giờ, thân phận của tôi và y đều đã hết sức rõ ràng. Dù tôi là một phi tử bị ruồng bỏ, dù tôi và Huyền Lăng không còn danh phận phu thê nhưng dù sao tôi cũng từng là hoàng tẩu của y. Huống chi, y vẫn là vị Lục Vương gia của năm xưa, anh tuấn tiêu sái, nghi biểu đường đường; còn tôi đã là một nữ tử gia thế điêu linh, thảm thương tiều tụy. Đối mặt với tình ý vẫn như xưa, thậm chí còn càng lúc càng mãnh liệt của y, sao tôi không sinh ra cảm giác tự thẹn kém người, nghĩ mình chẳng xứng với y kia chứ!