Tạ Doãn mới đầu còn tưởng chỉ là trời chưa tỏ, nhưng hóa ra là vẫn chưa sáng.
Mộc Tiểu Kiều và Nghê Thường phu nhân phiêu bạt lúc ẩn lúc hiện hát “Bạch cốt truyện” mới ra, sau đó lại bồng bềnh rời đi, để lại cho cấm vệ kinh thành một vấn đề hóc búa. Tuy được một câu của Tạ Doãn “đâm lao theo lao chưa chắc là không thể” bảo đảm, nhưng Triệu Uyên vẫn sai người giới nghiêm, như bước đi trên băng mỏng.
Tạ Doãn mặc lễ phục rườm rà, cảm giác vết nứt trên cổ sắp bị mũ miện ép toác ra, may mà lúc này tốc độ chảy máu của hắn cực chậm, chỉ một lát là đông lại, hắn ở một bên thờ ơ lạnh nhạt nhìn Triệu Uyên tế cáo tổ tiên.
Nghi thức vừa chán vừa dài, hắn nghe mà buồn ngủ, không nhịn được nghĩ, nếu tiên đế trên trời thật sự có linh, e là bị lải nhải tới phiền.
Mùa đông Kim Lăng ẩm ướt mà âm u lạnh lẽo, tuy không có gió tây giá buốt như cố đô nhưng cũng không hề dễ chịu, qua không lâu lại có một cơn tuyết nhỏ như rắc muối, văn võ bá quan mỗi người mỗi ý đồ riêng ai nấy đều bị lạnh run cầm cập, bên cạnh là Triệu Minh Sâm dẫn một đám hoàng tử lớn nhỏ xếp hàng chỉnh tề, vô tình bắt gặp ánh mắt Tạ Doãn, lập tức liền dời đi.
Tạ Doãn lười đoán đệ ấy đang nghĩ gì, Tạ Doãn không giống người khác, tuyết rơi lên người hắn không hề bị tan, nhanh chóng đóng một lớp mỏng, hắn đã không còn cảm giác được nóng lạnh, cảm thấy tim đập càng lúc càng chậm, lòng xuất thần lan man, nhẩm tính thời gian của mình, nghĩ: “E đời này mình không về được cố đô rồi”.
Chợt Triệu Uyên kéo hắn.
Tạ Doãn hoàn hồn, phát hiện đã tới khâu này, hắn cảm thấy chân hơi tê, khó khăn lắm mới vững bước bước về trước mấy bước, thuận thế quỳ xuống.
Triệu Uyên nhìn hắn sâu sắc, lớn tiếng nói:
– Phụ huynh của trẫm năm xưa bị kẻ gian hãm hại, thân nhân ly tán, trẫm trẻ người non dạ, nhận nhiệm vụ lúc nguy nan…
Tạ Doãn mặt không đổi sắc lắng nghe, nhìn cấm vệ đông nghịt, thầm nghĩ: “Nơi thế này e là A Phỉ không tới được, cũng tốt, cho nàng khỏi thấy bộ dạng ngốc nghếch của mình.”
– Lo liệu quốc chính hơn năm, thức khuya dậy sớm, hoảng hốt lo âu…
Một cảm giác khó tả dâng lên trong ngực Tạ Doãn, đầu tiên là tê ngứa, qua một lát hắn mới phản ứng lại, đó là cảm giác nhoi nhói như kim châm, từ từ lan khắp toàn thân dưới trang phục hoa lệ, trước mắt Tạ Doãn hơi mơ hồ.
– Trẫm vì đức mỏng, không dám tham quyền luyến vị, muốn phó thác cơ đồ to lớn cho hiền điệt của tiên hoàng huynh, tuân thiên tự, cung cảnh mệnh… ()
() Thiên tự: thế hệ đế vương theo thứ tự của trời cao an bài, thứ tự của tự nhiên; cảnh mệnh: thiên mệnh khi trao vị trí đế vương.
Tạ Doãn chậm rãi thả tia chân khí cuối cùng trong khí hải phảng phất như còn mang chút hơi ấm dư âm, đưa nó đi khắp kinh mạch héo mòn có còn hơn không, lòng tìm vui trong đau khổ: “Nếu mình chết ở đây là bệ hạ đẹp mặt, may mà sáng sớm đã đưa Hi Vi ra ngoài cho A Phỉ rồi.”
– Khâm thử.
Tạ Doãn hơi ngước mắt, vụn tuyết đọng dưới mí mắt hắn rơi xuống, lướt qua sống mũi, đổ ào ào vào trong vạt áo cũng lạnh băng của hắn.
– Thần…
Tạ Doãn nặng nề cử động cổ họng mình:
– Thần không dám phụng chiếu.
Lời này vừa thốt, Tạ Doãn không biết mình ù tai nghe không rõ hay đám người ngốc nghếch bên cạnh không ngờ tới đáp án này mà đều sững sờ, tóm lại là bốn bề yên tĩnh, nghe được cả tiếng kim rơi, một cơn gió lạnh lẽo từ trên tế đàn trời đất cao cao quét xuống, Tạ Doãn bình tĩnh như trái tim lúc lên lúc xuống của hắn, thong thả điềm tĩnh nói:
– Thần phụ kỳ vọng của thúc phụ tổ tiên, văn không thành võ không đạt, tài hoa không đủ, đức hạnh không đoan chính, lục nghệ không thông, thân thể không khỏe mạnh, sợ…
Triệu Uyên chợt quát:
– Minh Doãn!
– Sợ không có tướng phúc trạch thâm hậu.
Tạ Doãn ngó lơ, từ từ nói nốt lời của mình, tiếp đó ngẩng đầu:
– Thần…
Đúng lúc này, đột nhiên có người hừ lạnh ngắt lời Tạ Doãn.
Âm thanh kia dường như cách rất xa, lại dường như ngay sát bên tai, khàn khàn như trong cổ có hai mảnh sắt gỉ sét.
Tim Triệu Uyên đập mạnh, ngẩng phắt đầu nhìn, thấy xa xa có một người như bóng ma lay động trên lọng ngự liễn cao cao, người đó chỉ điểm nhẹ mũi chân trên lọng cao trượng tám, toàn thân bọc trong hắc y, áo bào rộng lớn phần phật bay theo gió.
Tất cả cấm vệ đồng loạt căng thẳng, không ai biết người này đến từ lúc nào, lên trên đó khi nào! Thống lĩnh áo đen ép giọng:
– Bắt.
Cấm vệ tiến thoái không tiếng động, kỷ luật nghiêm minh, chữ “bắt” chưa rơi xuống đất, tất cả cung tiễn thủ đã xoay người vào vị trí, bốn tiểu đội đồng thời bao vây lại, mũi tên thứ nhất vút qua nền trời đêm mờ mờ. “Bóng ma” kia chuyển động!
Hắn ta như đám mây đen từ trên lọng cao khoan thai hạ xuống, ống tay áo vung ra như đẩy một bức tường vô hình, ngăn mũi tên và cấm vệ như thủy triều lại, miệng cao giọng rít lên, không ít quan văn bình thường thân thể chẳng ra sao lập tức bị âm thanh kia làm váng đầu hoa mắt, nhất thời không đứng vững được.
Một thị vệ tiến lên hai bước, đỡ lấy Triệu Uyên:
– Hoàng thượng, xin di giá trước!
Bóng ma kia lên tiếng, giọng khàn khàn u ám nói rõ từng chữ:
– Các ngươi tưởng người xuôi nam quay về thật là hoàng đế của các ngươi ư? Ha ha ha, nực cười, chết rồi sao không thử hỏi Sơn Xuyên kiếm, vì sao bị diệt khẩu?
Toàn thân Triệu Uyên chấn động, giống như bị người khác cưỡng chế nhổ cái vảy ngược đi, mặt lập tức xanh trắng.
Một bàn tay lạnh lẽo khẽ nắm khuỷu tay ông, có thứ gì đó lướt qua khóe mắt, ông chợt quay đầu thấy đó là thân vương, mũ miện nặng nề bay ngang ra ngoài, đánh vào đùi “bóng ma” một cách cực kỳ xảo quyệt, đánh hắn ta rớt xuống từ giữa không trung!
Tạ Doãn thở nhẹ ra một làn hơi trắng, đẩy Triệu Uyên tới thị vệ phía sau:
– Kẻ điên nói bậy bạ mê hoặc người khác.
“Bóng ma” vừa tiếp đất, lập tức rơi vào giữa vòng vây cấm vệ, thương trận lập tức áp tới, “bóng ma” lảo đảo hai bước, mũ trùm đầu rơi xuống, lộ ra một gương mặt khô quắt đáng sợ!
Tất cả da thịt hắn ta đều dính chặt vào đầu, cánh môi khô nứt lộ dấu vết hàm răng, mạch máu và kinh mạch xanh tím như bò sát đóng dưới lớp da mỏng gần như trong suốt, đáng sợ nhất là, ngay cái cổ mảnh như thể một tay là có thể nắm chặt có hình dáng một con sâu to cỡ bàn tay lồi ra từ dưới da!
Tạ Doãn thở dài, cách đám đông trùng điệp, kêu lên rất khẽ:
– Ân Bái.
Mấy thị vệ xông lên:
– Điện hạ, xin mau mau rời khỏi chốn thị phi!
Ân Bái cười to sang sảng:
– Đã gọi là “Niết Bàn” thì sao chết dưới tay phàm nhân các ngươi được, ta vẫn là người đứng đầu độc bộ thiên hạ!
Tạ Doãn dịch một bước nhưng hơi lảo đảo, dường như lúc nãy đánh Ân Bái đã tiêu hao hết sức lực toàn thân hắn, được thị vệ cuống quít đỡ:
– Điện hạ!
Ân Bái vừa ló mặt là giống như trời giáng đại yêu quái, dọa cho hiện trường hỗn loạn, Triệu Uyên vừa được thị vệ vây quanh đưa đi, vừa lớn tiếng quát bảo họ chăm sóc Tạ Doãn.
Tạ Doãn cảm thấy dở khóc dở cười, không biết tại sao, hắn không bao giờ phân biệt được chân tình và giả ý của bệ hạ.
Giữa lòng người và lòng người, cách xa thiên sơn vạn thủy vậy ư?
– Không cần sợ.
Tạ Doãn nói rất nhỏ:
– Con nói đâm lao theo lao, thì chính là đâm lao theo lao.
Thị vệ đỡ hắn không nghe rõ:
– Điện hạ?
Tạ Doãn khẽ khoát tay, tự mình đứng vững, gắng gượng một hơi:
– Bảo vệ hoàng thượng.
Cùng lúc đó, ở một nơi trên lầu cao, Tào Ninh nghe một tên áo đen Bắc Đẩu tiến lên rỉ tai, chợt cười nói:
– Sao lại là hắn? Ôi, ta luôn cho rằng ta sinh không gặp thời, hóa ra phong thủy thay đổi, Triệu Uyên cũng có ngày hôm nay. Nói với Thẩm tiên sinh, thời cơ không thể mất, không cần quan tâm kế hoạch ban đầu, thấy sao tiện thì làm.
Tên áo đen gật đầu, dán vào mặt tường trượt xuống như một cái bóng, chớp mắt liền mất dạng.
Triệu Uyên từ khi kế vị tới nay chưa từng chật vật như vậy, trong lúc bước chân hốt hoảng, ông mơ hồ sinh ra ảo giác, phảng phất như lại quay về trên con đường chạy trốn hơn năm trước.
Ông quên cố hương mình, chỉ nhớ từ nhỏ được nuôi trong phủ một vị quan nhỏ bé vô danh ở kinh thành dưới thời Vĩnh Bình, xét bối phận thì vị quan nhỏ ấy là thúc thúc bà con xa của ông, có tiểu nữ nhi gả vào cung làm thứ phi không được sủng ái. Phụ mẫu ông đều mất, bị thân thích đùn đẩy tới lui, vì tướng mạo ông có vài phần tương tự với tiểu hoàng tử của nương nương nên được vị thúc thúc ấy nhận về nuôi dưỡng, muốn để ông làm bạn chơi với tiểu hoàng tử.
Nhưng tiểu hoàng tử yếu ớt nhiều bệnh hình như không cần một người bạn chơi ở ngoài cung, ông chỉ từng gặp mặt vị điện hạ ấy một lần, vốn tưởng rằng cả đời này mình phải học hành tử tế, thi lấy công danh, dựa dẫm vào chút hoàng thân xa xôi ấy để tương lai được ít chiếu cố không đáng kể. Ngờ đâu một khi phong vân biến chuyển, ông ngơ ngơ ngác ngác được người khác chưng diện sửa soạn rồi đẩy lên đường xuôi nam.
Người nào người nấy đều xưng ông là “điện hạ”, cung kính với ông, chỉ có ông là sợ muốn chết, cực kỳ nhạy cảm ý thức được rằng mình là một tấm bia sống.
Dọc đường đi, nơi nơi đều là người chết, vô số lần ông bị đánh thức khỏi cơn mơ, co rúm lại trong ánh đao bóng kiếm, khẩn cầu trời cao cho ông chút may mắn, để ông có thể sống thêm một ngày…
– Thích khách! Bảo vệ hoàng thượng!
Tiếng kêu sợ hãi chợt kéo căng thần kinh Triệu Uyên, ông chợt hoàn hồn, thấy có hai kẻ áo đen không biết từ đâu xuất hiện, lao vào giữa thị vệ.
– Bắc Đẩu! Là Bắc Đẩu!
– Bảo vệ hoàng thượng!
Vô số đôi tay xung quanh ông đẩy tới đẩy lui, cửu ngũ chí tôn thành “hoa” trong trò chơi đánh trống chuyền hoa, Triệu Uyên khác với Tạ Doãn học nghệ ở Đông Hải từ nhỏ, tuy ông cũng có sư phụ dạy võ nhưng chẳng qua chỉ học thứ công phu rèn luyện sức khỏe kiểu như cưỡi ngựa bắn cung mà thôi. Ông lảo đảo, lòng chợt dâng lên chút mờ mịt, thầm nghĩ: “Tại sao là hôm nay? Vì ta không phải chính thống, cho nên “tế tổ” bừa sẽ gặp báo ứng ư?”
– Hoàng thượng, di giá qua bên này!
Trong cơn hỗn loạn, không biết là ai kéo ông, che chở ông thoát khỏi đao kiếm của bọn áo đen Bắc Đẩu thế tới hung hăng. Đều là cấm vệ như nhau, Triệu Uyên không nghi ngờ gì, bất giác đi theo.
Tối hôm qua Chu Phỉ ở trạm ngầm đợi được Ưng Hà Tòng phong trần mệt mỏi tới, đầu tiên là thình lình bị hắn đổ đầy tai về mật thư của cấm địa Tề môn và đủ loại suy đoán, đầu như to ra không chỉ ba vòng, bệnh cũ mù đường suýt tái phát ngay tại chỗ, đến khi nghe đoạn Ân Bái thì như sét đánh, bật hỏi:
– Gì? Ân Bái? Hắn ta chưa chết? Hắn ta cướp con sâu chết đó làm gì? Lẽ nào hắn ta có thể phục sinh Niết Bàn cổ mẫu?
Hỏi Ưng Hà Tòng thì gì cũng không biết, nhưng Chu Phỉ lập tức không ngồi yên được, mới đầu còn miễn cưỡng lý trí, ngờ đâu nửa đêm canh ba có một cung nhân tự dưng đưa tới một thanh trường đao.
Chu Phỉ cầm thanh đao khắc chữ “Hi Vi” ngẩn người hồi lâu, đột nhiên như bị điên, giục Ưng Hà Tòng ra ngoài ngay trong đêm, đi khắp nơi tìm Ân Bái không biết trốn nơi nào. Nàng còn nghĩ ra một ý tưởng dở hơi: trên người Ân Bái có thứ gì đó không biết, mà thứ đó khiến tất cả sâu rắn nhường bước tránh lui, vậy chi bằng bảo Ưng Hà Tòng dẫn nàng đi thả rắn, vì rắn của Độc lang trung rất nghe lời, bảo chạy đâu là chạy đó, nếu tới chỗ nào mà bầy rắn nổi điên thì chỗ đó chắc chắn có tung tích của Ân Bái.
Ưng Hà Tòng nghe ý tưởng “tuyệt diệu” này, cho rằng cô nàng họ Chu e bị bệnh không nhẹ, nhưng hắn đánh không lại nàng, chỉ đành khuất phục.
Hai người họ tìm từ nửa đêm tới hừng đông như mò kim đáy biển, tìm mãi trong giờ giới nghiêm của cấm vệ nên còn phải lén la lén lút, nhưng không tìm được cọng lông nào của Ân Bái.
Chu Phỉ nóng nảy ép hỏi Ưng Hà Tòng:
– Thằng oắt Lý Thịnh kia nói đúng không đó?
Đột nhiên, họ thấy rất nhiều cấm vệ quân mặc giáp đen như lâm đại địch chạy về hướng tế đàn trời đất ở thành nam.