Tịch Tà há lại dám phản kháng, dần dần không còn sức lực trong đôi tay càng thu càng chặt của hoàng đế.
Khuôn mặt hắn đỏ bừng lên, chỉ có hai mắt vẫn vô cùng tỉnh táo, đang cắn răng nghiến lợi dốc hết sức lực bỗng nở nụ cười dịu dàng hướng về phía hoàng đế.
Máu khắp người hoàng đế đang cuộn trào mãnh liệt lên đầu, thấy Tịch Tà vẫn đang mỉm cười thì đột nhiên cảm giác được cơn lạnh thấu xương thoát ra từ không khí xung quanh khóa chặt lấy trái tim mình giống như chiếc lưỡi dài của con rắn độc, làm cả người hắn ta hãi hùng.
Lúc này hắn ta mới khôi phục chút lý trí, chậm rãi buông lỏng tay ra, trước mắt chợt biến thành màu đen, ngay cả khuôn mặt Tịch Tà cũng trở nên lờ mờ.
Hoàng đế lật người, nằm ngửa trên đất, hãy còn thở dốc không dừng.
Ánh mặt trời xuyên vào trong rừng, đâm vào làm hắn ta không mở nổi mắt.
Hai con ngựa chiến tắm nắng ở bên chủ, xung quanh đã không còn tiếng la giết từ lâu, ngay cả chim cũng bắt đầu hót líu lo, dường như trong trời đất rộng lớn đều an nhàn tốt lành như thế, chỉ có sự chết chóc trong cơ thể mình là dời sống lấp biển.
Hắn ta nghe thấy Tịch Tà bò dậy, quỳ ở bên cạnh mình, có vẻ vẫn chưa thể mở miệng nói chuyện nên không khỏi quay đầu cười nói với hắn: “Khanh thế nào?”
Trên chiếc cổ trắng như tuyết của Tịch Tà in rõ mấy dấu tay đỏ tươi, vật lộn chốc lát mới miễn cưỡng cười thưa: “Thần vốn đã trúng gió rồi, giờ càng thấy hoa mắt chóng mặt.” Nói thì nói vậy nhưng lại che ngực ngã xuống bên hoàng đế.
Hai người nhìn lên bầu trời xanh, mây trắng treo trên cao, sừng sững bất động, cỏ xanh trong rừng quất vào mặt, mùi thơm ngát thấm người.
Hoàng đế đột nhiên bật cười ra tiếng, nói: “Khanh thật to gan!”
Tịch Tà sức cùng lực kiệt, lười biếng tâu: “Vâng.”
Hoàng đế bảo: “Nếu không phải khanh ngăn ta thì đã bắn chết Đỗ Mẫn rồi.”
Tịch Tà nói: “Cho dù nô tỳ không ngăn hoàng thượng lại thì hoàng thượng cũng không bắn chết ngài ấy được.”
“Nói xằng, ba mũi tên này đã rời dây cung, há có lý nào gã lại không chết được?”
“Vốn dĩ là không nhưng Lôi Kỳ Phong đang ở bên cạnh ngài ấy, đừng nói ba mũi tên, dù vạn tên cùng bắn, Lôi Kỳ Phong cũng có thể bảo vệ ngài ấy một cách an toàn.”
“Bất kể có thể giết gã hay không, vừa bắn ba mũi tên này ra, ta đã hối hận rồi.”
Tịch Tà nghe vậy không khỏi cười phì.
Hoàng đế lại nói: “Không sai, lấy binh lực mà nói, hiện tại gã mạnh ta yếu, thảo nào lần này bốn thân vương vào chầu lại diễu võ dương oai tới vậy.
Một khi ta không nhịn được thì trước mắt chính là tai ương binh biến, không cần nói cũng biết kết cục.
Cũng may có ba mũi tên nhanh của khanh, nếu không cái họa này đã ập tới rồi.”
“Hoàng thượng thánh minh.” Tịch Tà ca tụng sự phát hiện muộn màng của hoàng đế, trong nụ cười toàn là vẻ đùa nghịch.
Hoàng đế chợt thở dài.
“Tịch Tà, lúc này chỉ có một mình khanh chịu nghe ta nói.
Ban đầu trước đây khi ta còn chưa đăng cơ thì còn có thể tâm sự với Cảnh Nghi, chọc giận nó thì còn có thể đấm đá nhau.
Giờ nó thấy ta cũng phải giống những người khác, lớn tiếng quát nó một câu đã khiếp vía rồi, bình thường cũng mang vẻ mặt úp mở, không nói thật lòng.
Tuy khanh chỉ chơi cờ với ta được mấy tháng nhưng ta lại cảm thấy khanh gần gũi giống như anh em mình vậy.”
Tịch Tà ngạc nhiên, vội cười nói: “Nô tỳ chỉ là đầy tớ hèn mọn trong cung, toàn học lá mặt lá trái, a dua nịnh hót.
Hoàng thượng nói như vậy là lấy mạng của nô tỳ rồi.”
“Chỉ một câu này nói đã biết khanh khác những kẻ khác.
Những kẻ ấy sao dám tự nói lá mặt lá trái, a dua nịnh hót?”
“Đây là do nô tỳ lỡ lời.”
Hoàng đế nhìn hắn cười to, xoay người ngồi dậy, nói: “Bây giờ nghĩ lại thấy lời của khanh quả không sai, cái gọi là ‘Bổ nhiệm kẻ tài, tăng cường thân binh, loại trừ đất phiên, trưng thu thuế, dẹp bốn phương’ quả thực có lý.
Lần này phiên vương vào chầu, cũng chỉ có hai mươi ngàn người của ty Binh mã ngũ thành bố trí phòng thủ kinh thành, thực là trứng chọi đá! Chỉ mỗi hơn một trăm người đi ra từ trong trại của Hồng vương thôi đã làm bọn họ sợ đến mức hồn xiêu phách lạc, ta còn phải xấu hổ thay bọn họ.
Binh lực tổng cộng của bốn tên thân vương những hai trăm tám mươi ngàn, chỗ ta thì ngay cả đại tướng nào là người của mình cũng không biết, cứ nói ngay thị vệ trong cung đã có biết bao thân tín của chúng.
Ở trong chốn hoàng thành này có ngày nào đó mà không phải nơm nớp lo sợ?” Hoàng đế hung dữ hừ một tiếng rồi nói tiếp, “Dẫu ta có muốn đề bạt mấy thân tín nhưng có ai khiến người ta tin được?”
Tịch Tà nói: “Có khối người trong lòng chỉ có hoàng thượng, hoàng thượng cứ nhìn cẩn thận thì sẽ biết ngay.
Không nói bọn họ trước, chỉ Lưu Viễn thôi, mặc dù bình thường không biết quan tâm đến ý thánh nhưng thật sự trung thành tận tâm.
Học sinh của ngài ấy lại nhiều, phần lớn đều thanh liêm tự trọng, bảo ngài ấy tiến cử vài người thì chắc chắn sẽ không sai.”
“Có lý.
Bộ binh thì sao?”
“Phiên vương đều thiện chiến, lúc này đại tướng của bộ binh toàn mấy lão già cổ hủ ngu ngốc, tướng sĩ trẻ thì không được đề bạt, tương lai tất không phải đối thủ của các phiên vương.
Chỉ đành từ từ để ý trong hai năm này, đề bạt một vài người dũng mãnh thiện chiến từ trong quan quân tầng dưới để cho bọn họ nắm binh quyền mà không động đến tai mắt kẻ khác, đến khi dùng binh thì mới giao nhiệm vụ lớn.
Tuy không phải là ý kiến hay gì song bây giờ cũng chỉ đành vậy thôi ạ.”
“Ngoại trừ khanh ra thì thật sự không có người thân tín để bàn bạc những việc này, khanh lại là nội thần, ít nhiều cũng có phần bất tiện.”
Tịch Tà nói: “Nói đến chuyện này, nô tỳ lại nhớ tới một người.”
“Ai?”
“Thành Thân vương ạ.”
“Cảnh Nghi?”
“Vâng.
Thành Thân vương là anh em ruột của hoàng thượng, chẳng những mưu trí cao siêu mà còn có thân phận thân vương, có thể giao thiệp với quần thần thay hoàng thượng.
Điều mà hoàng thượng không thể nói thì cứ bảo thân vương nói kín đáo sẽ tiện hơn.”
Hoàng đế cười bảo: “Vốn là ý kiến hay, có điều Cảnh Nghi tuổi còn trẻ, không chen chân vào việc chính trị, nay để nó gánh cái trách nhiệm này có phải là hơi sớm không?”
Ánh mắt Tịch Tà lại sâu xa lạnh lùng, hắn nói: “Tuy Thành Thân vương còn trẻ nhưng lo xa nghĩ rộng, ý chí lớn lao, đẩy ngài ấy ra làm đối thủ một mất một còn với các phiên vương sớm hơn thì chẳng những chặt đứt được đường lui của các phiên vương mà còn chặt đứt đường lui của Thành Thân vương.”
Hoàng đế rùng mình, chỉ cảm thấy trong ngoài cung này không chỉ có sóng lớn cuộn trào mãnh liệt mà còn có mạch nước ngầm chảy xiết, trong chốc lát không biết nói gì.
Tịch Tà lại cười an ủi, nói: “Vạn tuế gia là thánh chủ một đời, Thành Thân vương cũng chắc chắn là hiền vương một đời.
Nô tỳ nói xằng nói xiên, xin hoàng thượng thứ tội.
Song, dầu phiên vương to gan lớn mật, muốn làm chuyện đại nghịch bất đạo thì bên cạnh hoàng thượng còn có một ngọn núi dựa lớn nên chắc chắn không đáng lo.”
Sắc mặt hoàng đế tối tăm, nói: “Ta biết khanh muốn nhắc đến thái hậu, ta là con trai ruột của người nên đương nhiên không sai.
Có điều mấy phiên vương đều là người nhà mẹ thái hậu, thái hậu cũng sẽ thiên vị.” Trong lòng đột nhiên lại nhớ tới Đỗ Mẫn, hắn ta cười khẩy bảo: “Hai ngày trước Lưu Viễn tấu rằng vương tử Đại Lý là Đoàn Bỉnh lén đến Ly đô, muốn cầu hôn công chúa trong triều, nói là nếu có công chúa kết thân với Đại Lý, ủng hộ anh ta kế vị thì tương lai Đại Lý sẽ thần phục Trung Nguyên, mãi mãi thân thiện hữu hảo.”
Tịch Tà nói: “Thì ra vương tử Đại Lý cũng ở kinh thành, vậy thì người Lôi Kỳ Phong muốn giết chính là ngài ấy ư?”
“Ta cũng nghĩ như vậy.
Hai vương tử Đại Lý tranh đấu rất dữ dội, Đông vương, Tây vương muốn giết anh ta thì ắt là muốn nâng đỡ một vương tử khác là Đoàn Thừa kế vị.
Không cần nói cũng biết chúng giành binh lực của Đại Lý để làm gì.”
“Xem ra nhà họ Đỗ của Đông vương đã không đợi được nữa rồi.
Tây vương Bạch Đông Lâu đã già, con trai Bạch Vọng Cương lại là một con ma bệnh, giờ vội vã nương nhờ Đông vương, tương lai hai nhà bọn họ hợp binh lại thêm Đại Lý thì thật sự là nuôi ong tay áo.” Tịch Tà thở dài một hơi rồi lại nói, “Bây giờ nô tỳ hiểu biết tỏ tường về ba phiên vương khác, chỉ có bên Đông vương là không rõ lắm.
Những tai mắt này vốn là do thầy nô tỳ sắp xếp, tin tức bị chặt đứt như thế làm nô tỳ hơi bận lòng, muốn tự mình đi một chuyến.”
“Vốn dĩ nội thần không dễ rời kinh, nếu như không dưng thả khanh đi ra ngoài, e tấu sớ vạch tội của quần thần dâng lên sẽ khủng khiếp đấy.”
Tịch Tà chỉ cười lãnh đạm, nói: “Nô tỳ muốn đi thì tất nhiên sẽ có cách.”
Hoàng đế cười nói: “Vậy là tốt rồi.
Trời không còn sớm nữa, lúc này chắc chắn bọn họ đều sợ đến đần độn luôn rồi, khanh trở về với trẫm thôi.”
“Vâng.”
Hoàng đế thấy cổ Tịch Tà vẫn vừa đỏ vừa sưng, xé một dải gấm trắng từ trên vạt áo xuống quấn quanh cổ Tịch Tà rồi cười bảo: “Che lại, để bọn họ nhìn thấy thì không hay.”
Truyện chỉ được đăng tại vongnguyetlau.wordpress.com Ngoài ra đều là nơi ăn cắp.
Lương vương Tất Long và thái hậu, thái phi quyết định thời gian lấy công chúa Cảnh Giai vào mùa xuân năm sau, mọi việc xong xuôi mới trở về Lương châu.
Anh ta là thân vương cuối cùng về đất phiên, lúc này đây, mùa hạ cũng coi như kết thúc rồi.
Trở lại Ly đô, thái hậu sai người kiểm kê sính lễ của Lương vương, nhân lúc đầu thu nên muốn cục Châm Công dùng gấm được cống nạp cắt quần áo thu đông.
Bởi vì Tịch Tà là thái giám thu mua mà thái giám Thất Bảo chỉ đích danh nên cục Châm Công bèn để hắn đáp lời trước mặt thái hậu.
Tịch Tà đối chiếu lệnh bài với kho cung ứng trong nội phủ rồi mở kho chữ Bính, chọn mấy màu mà thái hậu vẫn thích, sau đó lại chia ra chừng mười xấp có hoa văn tao nhã trắng trong thuần khiết.
Đang sai người lấy, quay lại gọi hai người quen sai khiến thì gặp ngay thái giám Trương Cố quản lý cục Châm Công.
Lão gọi hắn sang bên cạnh, thấp giọng nói: “Cậu gọi Tiểu Lâm Tử, Tiểu Bính Tử à? Hai người kia đều không còn nữa rồi.”
Tịch Tà cố làm ra vẻ kinh ngạc, cười nói: “Được yêu mến nên thăng chức rồi ạ? Trương công công thiên vị dìu dắt họ, bình thường việc khó làm đều đẩy lên trên người tôi, giờ có công việc béo bở lại không biết thương tôi.”
Trương Cố cắn răng nói: “Còn không phải vì cậu à? Lần trước cho cậu đi Thượng Giang mà lại trúng gió nên đành bảo Khu Ác dẫn chúng nó đi, chẳng biết trúng phải tà ở đâu mà khi trở về đầu tiên là Tiểu Lâm Tử bị bệnh chết, hôm qua Tiểu Bính Tử đến chỗ chủ nhân Nghị phi cắt xiêm y không biết vì duyên cớ gì mà đụng phải phượng giá, cứ thế bị đánh chết tươi.
Mấy ngày nay cậu vẫn bị bệnh cho nên không biết đấy thôi.”
Tịch Tà niệm kinh Phật, nói: “Tội lỗi tội lỗi.
Nói đi nói lại, công việc lúc này quan trọng, hai người bọn họ không còn thì ai đi với tôi mới được đây?”
“Khu Ác đang ở trong đó, các cậu đều là tay già đời, giờ chỉ có các cậu đi tôi mới yên tâm.”
Tịch Tà lắc đầu nói: “Ngũ sư ca của tôi là một người e thẹn, đừng thấy bình thường thận trọng lão luyện nhưng khi thực sự gặp nương nương, chỉ sợ một đôi lời của anh ấy đối đáp không khéo léo thì chẳng phải là muốn mạng của anh sao?”
Vừa lúc Khu Ác đi tới, Trương Cố nói: “Bữa trước vạn tuế gia còn nói muốn trọng dụng Khu Ác, ý bảo cậu ta lộ diện ở trước mặt các chủ nhân nhiều hơn.
Nay cậu luôn đi lại trước mặt vạn tuế gia, tất nhiên tương lai vô cùng tận, anh em các cậu vẫn luôn thân nhau như tay chân thế mà không biết dẫn cậu ta cùng thăng chức.
Tôi không nhiều lời với hai anh em cậu nữa, các cậu cứ đi chuyến này đi.”
Tịch Tà và Khu Ác liếc nhau, chỉ đành lĩnh mệnh.
Đến cung Từ Ninh mới biết không chỉ thái hậu ở bên trong mà còn có hai vị công chúa Cảnh Giai, Cảnh Ưu ở chỗ đó trò chuyện với thái hậu.
Hai người dập đầu thỉnh an, thái hậu nói: “Đứng lên đáp lời.
Không phải các ngươi là trò của Thất Bảo sao? Ai là Khu Ác, ai là Tịch Tà thế? Ngẩng đầu cho ta xem nào.”
Hồng Tư Ngôn ở bên cười nói: “Trông ngoại hình của Tịch Tà này không tệ, thái hậu nhìn đuôi lông mày của hắn kìa, trong trẻo cứ như con gái Lương châu ấy.”
Thái hậu cười quở trách: “Cô càng già càng đổ đốn, sao lại so con gái Lương châu tốt đẹp với thái giám nhỏ chứ?” Lại thấy vóc người Khu Ác cao gầy, thể trạng tráng kiện, khuôn mặt ngăm đen mắt to mày rậm, khóe miệng mang theo vẻ quật cường thì lại hỏi Hồng Tư Ngôn: “Cô xem có phải đứa bé này khá giống người kia không?”
Hồng Tư Ngôn miễn cưỡng nói: “Bề ngoài và vẻ mặt đều có chỗ tương tự.”
Thái hậu đột nhiên hỏi Khu Ác: “Bao nhiêu tuổi rồi?”
“Nô tỳ hai mươi mốt tuổi.”
“Trước khi vào cung mang họ gì?”
Khu Ác trả lời: “Họ Nhan ạ.”
Thái hậu cười khẩy một hồi rồi nói: “Sao, ở trong cung có quen không?”
Khu Ác cười thưa: “Mọi thứ trong cung đều tốt, nô tỳ ở quen rồi ạ.”
“Mọi thứ đều tốt?” Thái hậu nở nụ cười chua ngoa, “Ngươi cho rằng ngươi vào cung là để hưởng phúc sao? Bây giờ sẽ để ngươi cho biết chỗ không tốt trong cung! Người đâu, mau dạy dỗ tên nô tài ăn nói xằng bật này!”
Hai thái giám quản chuyện xử phạt trong cung Từ Ninh lôi Khu Ác ra cửa cung đánh một lúc.
Tịch Tà vội vàng quỳ xuống, dập đầu nói: “Xin thái hậu tha mạng, thái hậu…”
Thái hậu mỉm cười, khoan thai nói: “Chuyện không liên quan tới ngươi.
Ngươi là đứa trẻ ngoan, ngươi nói cho ta biết trong cung này như thế nào?”
Tịch Tà trả lời: “Nô tỳ là một kẻ hèn mọn, nhờ hưởng phúc của thái hậu, vạn tuế gia và chủ nhân các cung nên mới có thể ăn ngon mặc đẹp.
Tuy không bàn được đến chuyện báo đáp ơn của chủ, song nếu có thể ra sức trâu ngựa, không làm chủ tức giận đã là phúc của nô tỳ.”
Thái hậu cười nói: “Ngươi là kẻ biết điều đấy.
Đứng lên đi.”
Hai cô công chúa đã bao giờ thấy cảnh ấy, công chúa Cảnh Giai sợ đến mức mặt mày trắng bệch, công chúa Cảnh Ưu thì kéo ống tay áo của thái hậu và nói: “Mẫu hậu cần gì phải nổi giận với loại nô tài nhỏ nhoi này? Hôm nay là ngày lành của chị Cảnh Giai, chi bằng tha cho nô tài kia một con đường sống, coi như tích phúc cho chị.”
Hồng Tư Ngôn cười theo nói: “Công chúa nói phải, giờ đã đánh gãy hai chân rồi, tên nô tài ấy cũng đã biết lợi hại, đã rút ra bài học rồi ạ.” Thấy thái hậu vẫn không lên tiếng, lại nhỏ giọng nói bên tai thái hậu: “Chỉ lát nữa là hoàng thượng sẽ tới, bắt gặp thì không hay đâu ạ.
Vả lại hôm nay mà đánh chết y, sau thái hậu lại phải hối hận.”
“Không sai.” Thái hậu gật đầu, Hồng Tư Ngôn lập tức đi ra ngoài dừng hình phạt.
Chợt nghe thái giám báo lại hoàng đế giá lâm.
Không lâu sau xin gặp hoàng đế ở cửa, sau khi mỗi người trong nhà hành lễ xong, thái hậu trỏ vào công chúa Cảnh Giai rồi nói: “Cô em gái này của con sắp lấy chồng xa, mấy ngày này hãy gặp nhau nhiều hơn, sau này không trông thấy được nữa đâu.”
Hoàng đế cười nói: “Lời của mẫu hậu đau buồn quá! Sau này phiên vương lên kinh cùng em qua đây thì sẽ có lúc gặp thái hậu và thái phi thôi.” Hắn ta đảo mắt nhìn công chúa Cảnh Ưu rồi cười nói: “Con cũng đã thầm tính việc hôn nhân của Cảnh Ưu trong lòng rồi, mẫu hậu chớ dễ dàng hứa nó cho người khác.”
“Nhân vật tài ba nào đấy? Giờ không thể nói sao? Con chỉ cần bàn với mẹ con bé là Dương thái phi thôi, đừng làm cô ta cảm thấy con khiến Cảnh Ưu ấm ức rồi lại so bì với Cảnh Giai, nói ông anh trai làm hoàng đế này trọng bên này khinh bên kia.”
Cảnh Ưu ở bên đỏ mặt, cúi đầu không nói.
Hoàng đế nói: “Vừa lúc Tịch Tà cũng ở đây, thời gian kết hôn của Cảnh Giai cũng không xa nữa, cục Châm Công cũng nên suy nghĩ chuyện đặt mua đồ cưới cho công chúa rồi.”
Tịch Tà trả lời: “Nô tỳ đã xem qua gấm trong kho cung ứng của nội phủ, phần lớn là gấm Lương.
Đáng ra gấm Lương cực tốt nhưng công chúa đến Lương châu, gấm hồi môn đều là đồ vốn của nhà chồng thì khó tránh khỏi không thỏa đáng.
Nô tỳ muốn xin chỉ để xin ý kiến ạ.”
Thái hậu gật đầu nói: “Nói có lý.
Trong nước thứ có thể sánh ngang với gấm thì chỉ có tơ lụa Hàn châu, trong kho còn nữa không?”
“Trong kho còn một ít ạ nhưng trong cung không mấy khi sử dụng nên hoa văn đều đã lỗi thời, dầu lấy hết ra cũng không quá tầm trăm xấp.
Nô tỳ nghĩ nên bảo Hàn châu cống nạp một ít nhưng lại sợ thứ được cống tới mang theo vẻ phố chợ, không hợp với thân phận hoàng gia.”
“Đúng lắm!” Thái hậu gật đầu nói, “Tơ lụa Hàn châu lưu hành trong dân gian, ta vốn không thích, thì ra là vì vậy.”
Tịch Tà cười nói: “Nô tỳ có ý này, chỉ sợ nói ra thái hậu trách tội.”
“Sao lại học cái giọng điệu đó của thầy ngươi thế? Cứ việc nói đi.”
“Nô tỳ muốn tự mình đến Hàn châu một chuyến, xem phẩm chất hàng dệt nơi đó ra sao rồi đặt mấy trăm mẫu, bảo họ theo đó mà chế tạo gấp, chắc là có thể kịp thời gian kết hôn của công chúa.”
Hoàng đế liếc nhìn Tịch Tà, nói thầm trong lòng: “Thì ra là thế!” nhưng miệng lại mắng: “Khanh lại suy nghĩ viển vông, nội thần không dưng rời kinh vốn là việc cực kỳ rầy rà.
Nếu như khanh gây học bên ngoài thì chết mấy lần cũng chẳng đủ đâu.”
Thái hậu ngăn hoàng đế lại: “Nói gì vậy? Ta thấy là đây ý kiến hay.
Công chúa lấy chồng mà vẫn không được tính là việc lớn sao? Liên quan đến mặt mũi của triều đình, tất nhiên phải để người trong cung tự mình đi một chuyến mới được.”
“Mẫu hậu…”
Thái hậu cười nói: “Xem hoàng đế nôn nóng kìa, các em gái đều ở đây đấy.
Ta còn không biết hoàng đế không nỡ để Tịch Tà đi, sợ không có ai chơi cờ vui đùa với người sao? Chẳng phải người và Cảnh Nghi chơi rất vui sao? Chỉ một hai tháng thôi, có gì mà vội vàng?”
Hoàng đế vẫn không muốn, hắn ta do dự một lát rồi mới nói với Tịch Tà: “Mẫu hậu đã bằng lòng rồi, khanh còn không tạ ơn đi?”
Tịch Tà quỳ xuống dập đầu, nghe thái hậu nói: “Chỉ mình ngươi đi ra ngoài thì sẽ khiến người khác không an lòng.
Sư đệ Khang Kiện của ngươi ở đây làm việc khéo léo, các ngươi cùng đi thì có thể chăm nom lẫn nhau.
Không được gây chuyện ở bên ngoài, làm xong việc thì mau mau về kinh.”
Tịch Tà lĩnh chỉ rồi lui ra, trở lại viện Cư Dưỡng, đến thẳng phòng của Khu Ác.
Viện Cư Dưỡng vẫn là nơi thái giám Thất Bảo ở, lúc nhiều người nhất là khi bảy học trò còn ở, ngày nào cũng cãi nhau, tiếng người huyên náo.
Giờ đây ngoại trừ Tịch Tà, Khu Ác còn có Tiểu Thuận Tử – trò của Tịch Tà thì không còn ai nữa.
Tịch Tà ở buồng tây, Khu Ác ở buồng đông, nhà giữa vẫn y nguyên như lúc thái giám Thất Bảo ở, mỗi ngày đều có người quét tước.
Tiểu Thuận Tử đang chạy ra từ phòng Khu Ác, cầm phương thuốc trong tay, bị Tịch Tà túm lại thì trả lời: “Thái y nói vết thương của ngũ sư bá không có gì đáng ngại, chỉ là hai chân bị gãy rồi, chăm sóc mấy tháng thì rồi sẽ khỏe lại.”
“Nhanh đi lấy thuốc đi.” Tịch Tà vung tay buông cậu ra, còn mình thì vào nhà lên tiếng chào hỏi thái y.
Khu Ác ở trên giường nghe thấy, miễn cưỡng cười nói: “Tịch Tà qua đây nói chuyện với anh mới không cảm thấy đau nhức nữa.
Hôm nay đúng là số con rệp, chỉ đáp sai có một câu đã gãy chân rồi.”
Tịch Tà ngồi bên giường của Khu Ác, cầm tay lấy y và nói: “Sư ca, thái hậu đánh anh không phải vì anh đáp sai đâu.”
Khu Ác cười nói: “Là bởi vì anh họ Nhan?” Y nhìn sắc mặt đau xót của Tịch Tà, nói: “Không trách em việc này đâu.
Có điều sau này chân sư ca không còn dùng được nữa, từ rày không thể che chở cho em, em nhất định phải tự coi chừng.”
“Em biết.” Tịch Tà gật đầu rồi lại nói như đinh đóng cột bên tai Khu Ác, “Nay mụ đánh anh, tương lai em sẽ khiến mụ trả lại gấp bội.”
Qua hai ngày, hoàng đế hạ chỉ xuống.
Tịch Tà đến phủ Nội vụ[], giám Ty lễ[] lĩnh công văn giấy tờ của các bộ rồi thu dọn hành lý cùng Khang Kiện, Tiểu Thuận Tử.
Cát Tường và Như Ý đặc biệt tới chào tạm biệt, để Tiểu Hợp Tử ở lại viện Cư Dưỡng chăm nom Khu Ác.
Khu Ác ở trên giường còn lớn tiếng nói: “Đi đi đi đi, chờ em trở về thì anh đã khỏe rồi.”
[] Là cơ quan quản lý việc sinh hoạt và tài chính của hoàng gia.
[] Là một trong mười hai giám quản lý thái giám và công việc trong cung thời Minh, quản lý tất cả lễ nghi, hình phạt, quản lý công việc, cai quản các dịch bên trong hoàng thành.
Ba người rời cung mới thay quần áo của thái giám.
Từ sau khi vào cung, Tiểu Thuận Tử chưa từng ra ngoài, dọc đường đi nhìn cái gì cũng thấy mới mẻ, khoa tay múa chân kêu la om sòm.
Ba người lên đường lớn Thiên Hình, đang muốn quẹo đến bến đò ẩn trên đường vòng để mướn thuyền thì Tiểu Thuận Tử lại lớn tiếng hỏi: “Thầy ơi, thầy ơi, thầy xem đó không phải là phủ Tông nhân[] sao?”
[] Cơ quan quản lý nội bộ hoàng tộc, trông nom sổ sách của hoàng tộc, soạn thảo ngọc phả, ghi chép ngày sinh và ngày mất cùng sơ yếu lý lịch của mọi thành viên trong hoàng tộc, cộng thêm việc thờ cúng đền miếu trong hoàng tộc.
Ban đầu, Phủ Tông nhân chỉ là nơi lưu giữ ghi chép, song về sau thì cơ quan này cũng có quyền hạn giải quyết các vấn đề có liên quan đến các thân vương, công tử và công tôn trong hoàng tộc.
Khang Kiện cười nói: “Thằng nhóc không va chạm xã hội! Phủ Tông nhân đâu ra, nhà chính của phủ Tông nhân ở trong cửa Chu Tước, đó chỉ là nhà ngục của phủ Tông nhân thôi.”
Biểu cảm trên mặt Tịch Tà giống như bị lưỡi dao sắc bén đâm phải, hắn rùng mình rồi nói với Tiểu Thuận Tử: “Thế thì đã sao? Con có thể an phận hơn không?” Nhưng bản thân lại không nhịn được mà nhìn chằm chằm cái biển ở cửa, ba chữ “phủ Tông nhân” to lớn đang tỏa ra ánh sáng màu đỏ như máu dưới ánh mặt trời.
Vui lòng đọc tại vongnguyetlau.wordpress.com để mình mau cập nhật chương mới.
Lúc rảnh rỗi, Nhan Cửu mười hai tuổi sẽ đếm song sắt trước mặt.
Trong phòng giam của phru Tông nhân, từ đông sang tây, tổng cộng có mười hai cái song sắt, giống như tuổi của mình.
Từ tây sang đông tổng cộng mười hai cái, vĩnh viễn sẽ không thay đổi, có phải giống tính mạng mình sẽ đột ngột dừng lại không thay đổi nữa ở năm mười hai tuổi hay không?
Người anh ruột thịt Nhan Tương đang nằm ngủ say trong lòng mẹ, còn mình thì đang tiếp tục đếm con số không đổi này trong sự vắng vẻ thê lương, “Mười một, mười hai.” Góc áo bào màu đỏ xẹt qua khóe mắt mình, hắn ngẩng đầu lên là có thể trông thấy bóng dáng tao nhã thon dài đang chỉ huy ngục tốt chuyển hơn mười vò rượu đến.
Tiếp đó đã có người mở ra khóa cửa nhà tù tạo ra âm nhạc rộn ràng và lanh lảnh như kịch võ biểu diễn tại nhà vậy.
Hai tay ngục tốt tiến đến, kéo Nhan Cửu ra.
“Con trai đi đây.” Lúc Nhan Cửu ra khỏi nhà tù thì làm lễ với mẹ, Nhan Tương bị chúng kéo ra khỏi lòng mẹ, xô vào người Nhan Cửu.
Trịnh vương phi khóc òa lên như phát điên.
Tất cả con trai trong nhà đều tập trung ở trong phòng giam của cha.
Nhan Cửu khá thất vọng, cô em gái Nhan Trinh mà hắn luôn muốn gặp không có ở đây.
Cô bé mười tuổi xinh xắn ấy lúc nào cũng mở chiếc khăn tay bằng lụa Hàn tinh xảo ra, để lộ một quả đào đỏ ửng như hai gò má mình, “Quả này được hái từ trên cây đào trong sân của mẹ em đấy!” Cô bé cười, giậm chân nói, “Ôi chao, chiếc khăn tay này dính lông đào rồi, không thể dùng được nữa.” Khăn tay nhẹ nhàng bay mất, rơi xuống đám cỏ đọng đầy sương cùng với tiếng cười của Nhan Trinh.
Nhất định là lúc đùn đẩy vừa rồi, nó đã rơi từ trong tay áo mình ra bên ngoài song sắt.
Nhan Cửu dùng sức đưa tay ra, chỉ thiếu một chút nữa là có thể chạm tới chiếc khăn tay đã bị người ta giẫm bẩn.
Người mặc áo đỏ kia dừng ở trước mặt hắn, một cánh tay trắng nõn sạch sẽ nhặt khăn tay lên rồi đút vào trong tay Nhan Cửu.
“Nô tỳ Thất Bảo xin dập đầu trước Nhan thân vương.” Thái giám tổng quản Thất Bảo mặc áo đỏ quỳ xuống bên ngoài phòng giam.
“Anh Mai, xin hãy đứng lên, xin hãy đứng lên.” Nhan vương chắp tay sau lưng, cười đi tới từ cửa sổ.
Nhan vương chinh chiến Hung Nô hơn hai mươi năm nên da mặt ngăm đen, hai hàng mày dài nhuộm hết vẻ gió bụi chinh chiến, chỉ có lúc cười mới trở nên nho nhã thân thiết, biểu lộ ra phần bản sắc của dòng dõi hoàng thất, “Mấy năm không gặp, dung mạo anh Mai vẫn như xưa, sau này thành tiên ắt cũng không phải việc khó.”
Thái giám Thất Bảo nói: “Vương gia coi trọng nô tỳ rồi.”
Nhan vương cười nói: “Nay anh Mai tới, có phải là mang theo ý chỉ cuối cùng tới không?”
“Vâng, ý chỉ của thái hậu là con trai trên mười lăm tuổi và Vương phi, thị phi, quận chúa đều ban cho tự sát, con trai chưa trưởng thành thì phạt vào cung làm nô.”
Thế tử Nhan Khải chỉ có mười chín tuổi nhưng lại đứng ra quát to: “Bảo yêu phụ đó mơ giấc mộng ngàn thu của mụ đi, con cháu nhà họ Nhan bọn ta đều là hậu duệ hoàng thất, há có thể vào cung làm nô cho mụ?” Rồi xoay người nói với mười anh em của mình: “Con cháu họ Nhan không sợ chết thì đứng đằng sau anh!”
Con trai Nhan vương tuy còn nhỏ tuổi nhưng ai nấy đều không sợ chết, trên khuôn mặt non nớt đều là vẻ quyết đoán, đồng loạt đứng ở sau Nhan Khải.
Thái giám Thất Bảo niệm tiếng Phật rồi ngẩng đầu nhìn lên, lại có một cậu bé lẻ loi đứng ở trong phòng giam, không có ý dịch bước.
“Đồ hèn nhát sợ chết!” Nhan Tương vừa nhảy ra từ sau người Nhan Khải đã muốn cho hắn một quyền ngay ngực.
Nhan vương đưa tay ngăn lại, đi tới trước mặt Nhan Cửu, ngồi xổm xuống nắm lấy hai vai của hắn, dịu dàng nói: “A Cửu, có phải phụ vương chiều hư con rồi nên giờ đây không có dũng khí chết cùng phụ vương không?”
Nhan Cửu bình tĩnh nói: “Không phải, con không sợ chết.
Nhưng con biết nghiệp lớn chí hùng của phụ vương chưa được hoàn thành, bây giờ ai nấy đều chết rồi thì kẻ nào thay phụ vương hoàn thành nghiệp lớn dẹp yên bốn cõi, giang sơn quy về một mối đây?”
Nhan vương cười nói: “Con còn nhỏ, không biết lấy thân phận của mình vào cung làm nô sẽ hung hiểm bực nào, chỉ sợ chưa báo thù thay phụ vương đã bị người giết hại rồi.
Cần gì đi chịu tội chứ?”
“Con trai tuy nhỏ nhưng cũng biết vào cung là thế nào.
Dầu nhục nhã hơn nữa, con cũng cam lòng.”
“Được!” Nhan vương không khỏi cười to, nói, “A Cửu, con hãy nhớ kỹ, giờ chết là chuyện tốt.
Nếu như một khi con đã lựa chọn sống sót là phải cố gắng tranh đấu, không được phụ cơ hội sống lại mà ông trời đã cho con lần này.”
“Dạ.”
Nhan vương nắm tay hắn, dẫn hắn đến trước mặt thái giám Thất Bảo rồi nói: “Anh Mai, đây là đứa con mà ta thích nhất, nay giao lại cho anh.”
Thái giám Thất Bảo quan sát tỉ mỉ cậu bé có tâm trí vượt xa cái tuổi mười hai và nói: “Nô tỳ đã hiểu ạ.”
Nhan Cửu quỳ xuống, dập đầu với thái giám Thất Bảo, “Thưa thầy, sau này tính mệnh của trò xin giao cho thầy.”
Thái giám Thất Bảo gật đầu, nói với Nhan vương: “Vương gia còn nhớ nhiều năm về trước, có người nêu ý kiến với vương gia phải sớm ngày đút lót số tiền lớn để kết giao với nô tỳ không?”
Nhan vương cười nói: “Hiếm khi anh còn nhớ rõ.”
“Không sai, lúc đó vương gia nói: ‘Nghe đàn là biết nhã ý, nghe tiếng đàn của y đã biết thái giám Thất Bảo không phải kẻ dung tục, cần gì dùng những thứ mánh khóe âm mưu ấy làm bẩn y.’ Tuy nô tỳ chưa bao giờ quen thân với vương gia nhưng nghe được lời ấy đã đủ cảm thấy tình cảm sâu sắc thấu hiểu của vương gia.
Dầu nô tỳ chưa từng làm được chuyện gì giúp vương gia lúc ngài còn sống nhưng bây giờ nô tỳ có thể cam đoan với vương gia, chỉ cần Thất Bảo còn một hơi thở cũng ắt sẽ bảo vệ được đứa bé này chu đáo.”
Nhan vương run giọng nói: “Anh Mai là tri kỷ của ta, trong này còn có một bí mật lớn, hy vọng anh Mai giữ giúp ta.”
“Vâng.”
Nhan vương nhẹ nhàng nói bên tai thái giám Thất Bảo hai câu, thái giám Thất Bảo luôn bình tĩnh như không lại biến sắc, toàn thân run rẩy, tay chân lạnh buốt.
Nhan vương lại cười nói: “Anh Mai, hai ta là tri kỷ đã lâu, anh giỏi cả đàn lẫn sáo, sao lúc này không đàn một khúc, lấy sự hùng tráng tiễn cha con ta lên đường?”
Thái giám Thất Bảo cao giọng cười, lấy một ống tiêu nhỏ ra từ trong ngực rồi nói: “Tiêu này là do vương gia ban tặng, nay dùng nó tiễn đưa vương gia đúng là giúp vui.” Rồi quay đầu lại nói với ngục tốt tránh ở phía xa: “Rượu đâu?”
“Không cần rượu!” Nhan vương đưa tay rút kiếm đeo bên hông thái giám Thất Bảo, nói với mười đứa con trai của mình, “Các con muốn chết ở vuốt độc của thái hậu hay thà chết dưới kiếm của phụ vương?”
Nhan Khải cười nói: “Tất nhiên thà để phụ vương đâm chết.”
“Tốt!” Nhan vương giơ cao kiếm cười to.
Thái giám Thất Bảo hiểu ý cười, tiếng tiêu nhanh chóng được tấu lên như tiếng sấm chốn sa trường, giục giã gan ruột người ta.
Nhan vương nhắm ngay tim Nhan Khải, chỉ một kiếm, Nhan Khải không rên lấy một tiếng, ngã xuống cũi, toàn thân còn đang co quắp.
Nhan Cửu hít vào một ngụm khí lạnh, nhắm mắt không đành lòng nhìn nữa, lại nghe thấy Nhan vương quát lớn: “A Cửu, mở to mắt nhìn các anh em của con đi.
Từ rày về sau, trong lòng con không còn sợ gì nữa, cũng không còn chuyện không đành lòng ra quyết định nữa.”
Nhan Cửu siết chặt nắm tay, trợn to hai mắt, chỉ thấy ánh đỏ đầy trước mắt, áo cổn hoa lệ trước ngực các anh em tràn ra nhiều đóa mẫu đơn đỏ tươi như thể sợ không đủ diễm lệ.
Nhan Ngọc, Nhan Linh, Nhan Giảo, Nhan Duệ, Nhan Ngạc, Nhan Chung, Nhan Đoàn, Nhan Khiết dựa vào bức tường lạnh lẽo, nền đất lạnh lẽo, cũng dựa vào những đóa hoa đỏ nở rộ ấy.
Nhan Khảm đột nhiên hét lớn với hắn dưới kiếm của Nhan vương: “Tiểu Cửu báo thù cho anh!”
“Báo thù, báo thù!” Nhan Cửu cắn răng bẩm bẩm nói, “Em phải bắt mụ trả lại gấp bội, trả lại gấp bội!”
Nhan vương nhìn thi hài đầy đất, chậm rãi xoay người dịu dàng cười nói với Nhan Cửu: “Đứa con ngoan.” Trường kiếm đỏ màu máu cắt cổ mình.
Tiếng tiêu kéo dài âm cuối, dần dần ngừng hơi.
Nhan Cửu nhìn chòng chọc máu tươi của cha trên mu bàn tay mình, lẳng lặng nói với thái giám Thất Bảo: “Thầy ơi, chúng ta đi thôi.”
Nhan Cửu kéo áo bào của thái giám Thất Bảo, xuyên qua hành lang tĩnh mịch, gió lạnh trong ngày đông giá rét đâm vào làm cả người hắn co rụt lại.
Thái giám Thất Bảo ôm hắn lên yên ngựa, dùng áo choàng của mình che phủ cơ thể bé nhỏ của hắn, chậm rãi buông dây cương ra rồi đi dọc đường Thiên Hình hướng về cung Thanh Hòa.
Chỉ lát nữa là bước sang năm mới rồi, tuy thời tiết rét buốt nhưng người đi trên đường vẫn chật như nêm, tiếng rao hàng của tiểu thương, mùi đồ ăn ngập tràn toàn bộ đô thành vui sướng hân hoan.
Nhan Cửu chỉ cảm thấy hồn phách của mình đang rời rạc trong không khí lạnh lẽo trên bầu trời thành phố, lạnh lùng đánh giá tương lai, không biết năm mới sắp tới kia sẽ có ý nghĩa thế nào đối với mình.
Thái giám Thất Bảo đột nhiên ghìm ngựa, tiếng gầm rú của chàng trai mới đâm vào tai Nhan Cửu.
“Ai dám kéo em gái tôi đi?” Một cậu bé mặc bộ quần áo rách rưới ôm chặt hai đứa bé hơn tựa như đang nổi điên, vài người lớn thì vung gậy gộc đánh vào người cậu bé.
“Chúng mày ăn chùa đồ trong lầu của bọn tao, còn không chịu bỏ tiền ra thì tất nhiên phải kéo em gái mày đi bán rồi.”
“Tôi đã làm việc trong lầu rồi, các ông không trả tiền công thì thôi, còn muốn bán em gái tôi, nào có chuyện như thế?”
Thái giám Thất Bảo mỉm cười, nói ở trên ngựa: “Dừng tay.”
Mọi người thấy đó là một quan hoạn trung niên cao quý thì tức thì không dám đánh nữa.
Chưởng quỹ của quán rượu chạy ra từ bên trong và nói: “Ôi chao, thì ra là Thất Bảo công công, hiếm thấy hiếm thấy! Sao ngài lại rảnh rỗi tới nơi này thế?”
Thái giám Thất Bảo cười nói: “Ta bảo này, chưởng quỹ Trương càng phất lên mà không có tiến bộ gì cả.
Sao lại bắt nạt trẻ con bên đường vậy?”
“Oan quá! Đứa bé này tên A Đại, bữa trước đến làm công, chúng tôi thấy nó chịu thương chịu khó nên có lòng giữ nó lại, không ngờ nó lại trộm đồ trong lầu để nuôi sống hai đứa nhãi con đó.” Nói rồi oán hận đối với ba đứa bé kia, còn giơ tay ra chiều muốn đánh, “Ngài nghĩ xem, suy cho cùng thì chúng tôi cũng không thể làm ăn lỗ vốn được, đúng không ạ?”
“Lão gia!” A Đại đó chạy tới ôm lấy chân Thất Bảo, nói, “Xin lão gia cứu ba anh em tôi, tôi nguyện làm trâu làm ngựa cho ngài.”
Thái giám Thất Bảo trông thấy cậu ta mắt to mày rậm, uy vũ mạnh mẽ thì cười bảo: “Cứu anh em các cậu vốn rất dễ, muốn em trai cậu sống sung túc, để em gái cậu lấy người tốt cũng không khó.
Có điều ta là công công trong cung, cậu cũng bằng lòng đi với ta à?”
A Đại nói: “Bằng lòng, bằng lòng ạ.
Bây giờ em trai em gái tôi sắp chết đói rồi, tôi chỉ vào cung làm thái giám thôi đã cứu được tánh mạng của chúng nó.”
Thái giám Thất Bảo gật đầu nói: “Tốt, cậu đừng có hối hận đấy.
Chưởng quỹ Trương, đứa bé này đi theo tôi, hai đứa kia thì ông cứ sắp xếp cho ở chỗ ông trước, hôm nay sẽ có người tới dẫn chúng nó đi.
Ông hãy cho chúng nó ăn no, thay quần áo khác, dù sao cũng sẽ không bạc đãi ông đâu.”
A Đại vui vẻ ra mặt, ngẩng đầu lên thì vừa lúc thấy một gương mặt thiếu niên buồn thảm lộ ra từ trong áo choàng của thái giám Thất Bảo liếc cậu ta một cái.
Thái giám Thất Bảo dẫn hai cậu bé vào cung, trở lại viện Cư Dưỡng thì cho những học trò khác lui cả, nói với hai cậu bé trạc tuổi nhau: “Nơi này là hoàng cung, hai đứa có đồ gì của mình thì lấy hết ra đi, bị người ta nhìn thấy thì là tội lớn đấy.”
Nhan Cửu đã bị nhốt trong phòng giam hơn một tháng rồi, nào còn vật gì vi phạm lệnh cấm, A Đại thì càng hai bàn tay trắng.
Thái giám Thất Bảo nói: “A Đại, bây giờ cậu có hối hận cũng không còn kịp nữa rồi, em trai em gái của cậu đều ở trong tay ta, muốn chúng lên trời, muốn chúng xuống địa ngục đều do một mình ta định đoạt.
Cậu muốn chúng có cuộc sống tốt thì phải đồng ý một việc với ta.”
A Đại rùng mình, bảo: “Ngài cứ nói, chỉ cần các em của tôi sống tốt thì muốn tôi chết ngay lúc này cũng được.”
Thái giám Thất Bảo cười nói: “Ai cần cậu chết chứ?” Lão trỏ vào Nhan Cửu bên cạnh, “Sau này cậu hãy coi đứa bé này như anh em ruột của cậu mà chăm sóc, bảo vệ, thậm chí chết vì nó.
Cậu có bằng lòng không?”
A Đại nhìn Nhan Cửu rồi cười nói: “Người anh em, về sau cứ theo tôi.”
Nhan Cửu liếc cậu ta một cái, không nói gì.
Thái giám Thất Bảo trông hai người họ không kiềm được mỉm cười, nói tiếp: “Còn nữa.”
“Còn nữa?” A Đại khá sốt ruột.
“Từ nay về sau, cậu họ Nhan.”
Nhan Cửu giật mình sợ hãi, nhìn chằm chằm vào sắc mặt tươi cười hòa nhã của thái giám Thất Bảo.
Thái giám Thất Bảo tiếp tục nói với A Đại: “Nếu người khác hỏi xuất thân của cậu thì cậu hãy nói mình họ Nhan, thuộc hàng thứ chín trong nhà.”
A Đại khinh thường nói: “Tại sao tôi phải thay tên đổi họ?”
Thái giám Thất Bảo cười nói: “Cậu thay tên đổi họ là để cứu người nhà của cậu.
Bằng không, dẫu chúng chạy trốn tới chân trời góc biển, ta cũng có thể giết cả nhà chúng.”
Nụ cười lạnh lẽo vô tình của thái giám Thất Bảo đâm vào làm cả người A Đại run rẩy, “Vâng, tôi biết rồi.”
“Thế thì tốt!” Thái giám Thất Bảo gật đầu rồi nói với Nhan Cửu, “Lấy ra đây.”
“Cái gì ạ?”
“Thứ trong ngực con.”
Nhan Cửu chậm rãi lấy chiếc khăn tay từ trong ngực ra, thái giám Thất Bảo nhận lấy rồi hỏi: “Bảo con lấy ra, vì sao không nghe lời của ta?” Nói rồi nhấc cái nắp lò sưởi lên, ném ngay vào.
Làn khói nhẹ tỏa ra từ miếng lụa nhỏ nhắn cũng mềm yếu vấn vít.
Nhan Cửu nhìn nó bị đốt chậm rãi cho đến lúc biến mất, biết một khi chiếc khăn tay duy nhất cho phép mình còn có chút lên hệ đến thân phận vương tử Nhan vương biến mất thì mình sẽ phải tạm biết chuyện ngày trước mãi mãi.
“Sao sắc mặt con khó coi như vậy?” Thái giám Thất Bảo khắc nghiệt hỏi, “Cha mẹ chết à?”
Cơn tức vừa mới bừng lên trong mắt Nhan Cửu, thái giám Thất Bảo đã vả một chưởng lên trên mặt hắn, “Cười!”
Nhan Cửu bị lão đánh cho lui lại mấy bước, ôm mặt nuốt máu trong miệng xuống bụng rồi lại đi lên, nở nụ cười xán lạn với thái giám Thất Bảo, nói: “Vâng thưa thầy.”
Thái giám Thất Bảo kéo hắn lại, dịu dàng bảo: “Vậy mới là đứa bé ngoan.
A Đại, về sau ở trong cung con tên Khu Ác, con thì sao?” Lão nhìn ánh mắt lạnh lẽo trên khuôn mặt tươi cười của Nhan Cửu, “Tên Tịch Tà vậy.” Nói rồi không cưỡng nổi sự đắc ý, “Cát Tường, Như Ý, Chiêu Phúc, Tiến Bảo, Khu Ác, Tịch Tà, đến khi nhận thêm một anh học trò nữa thì ta chính là thái giám Thất Bảo danh xứng với thực rồi.”
Ai ơi nhớ lấy câu này, reup không khéo có ngày rụng răng.
Tịch Tà dẫn Khang Kiện và Tiểu Thuận Tử kiếm thuyền ở bến đò, chỉ nghe thấy xa xa có người kêu lớn: “Lục gia, Thất gia, xin dừng bước.”
Khang Kiện nói: “Đây không phải là phó thống lĩnh thị vệ Khương Phóng sao?”
Tịch Tà nói: “Hai người ở đây chờ tôi.” Còn mình thì ra đón, chắp tay hỏi: “Đại thống lĩnh có chuyện gì gấp thế?”
Khương Phóng cười nói: “Ngoại trừ thánh mệnh thì còn có chuyện gì gấp nữa? Sớm hôm nay hoàng thượng hỏi anh đã đi chưa, nhớ ra có thứ chưa giao cho anh nên lệnh tôi rời cung chạy tới.” Đoạn cởi một cái bọc gấm vàng dài mảnh từ sau lưng.
Tịch Tà quỳ xuống dùng hai tay đón lấy rồi mở ra xem, thì ra là một chuôi kiếm dài mộc mạc, nghe Khương Phóng nói: “Hoàng thượng bảo anh dùng kiếm này phòng thân, đi đường cẩn thận.”
Tịch Tà rút kiếm ra, ánh sáng lạnh vui mắt, trên thân kiếm chạm khắc hai chữ “Tĩnh Nhân”.
Đó vốn là tên thời niên thiếu của hoàng đế, lúc đăng cơ lại nói “Nhân ái là đạo của thánh hiền.
Quả nhân có tài đức gì mà dám tự ý giữ mình chữ ‘Nhân’” cho nên đổi tên thành “Tĩnh Nhưng”.
Ắt hắn đây chính là kiếm lúc nhỏ của hắn ta.
Tịch Tà cười nói: “Ơn vua mênh mông cuồn cuộn, không thể báo đáp.
Xin đại thống lĩnh trở về bẩm lại với hoàng thượng, hãy nói Tịch Tà tất sẽ làm việc cẩn thận, không phụ ơn thánh.”
Khương Phóng đột nhiên thấp giọng nói: “Tôi đã chuẩn bị thuyền xong rồi, chủ nhân cứ ngồi trên con thuyền trắng đang giương buồm lúc này, đi đường cẩn thận.”
“Ta biết rồi, chuyện trong kinh nhờ anh nhé, có việc gì thì mau mau báo ta biết.”
“Vâng!” Khương Phóng tỏ vẻ buồn rầu, nói, “Chủ nhân cũng phải để ý cơ thể.
Kiếm khí của Lôi Kỳ Phong lợi hại, đã làm tổn thương đến phổi, không phải chuyện đùa đâu.”
Tịch Tà gật đầu cười, “Không có gì đáng ngại, lần này ra ngoài sẽ không khua đao múa thương, ta tự sẽ cẩn thận điều dưỡng.”
“Vâng.” Khương Phóng lớn tiếng nói, “Vậy xin tạm biệt tại đây, các vị thuận buồm xuôi gió.”
Con thuyền buồm trắng kia đang cập bến, Tịch Tà vén góc áo, đeo kiếm lên thuyền.
Hai người Khang Kiện và Tiểu Thuận Tử phía sau cười nói, lấy hành lý cùng lên thuyền.
Người cầm lái điểm cây gậy trúc, thuyền nhẹ nhàng trôi vào trong sông.
Cây cầu vắt ngang nam bắc phía trước chính là cây cầu Phủ Cương trên đường vòng, trên cầu xe cộ người ngựa qua lại như thoi đưa, dưới cầu vạn thuyền cùng qua.
Mọi người ngẩng đầu nhìn tảng đá lớn dưới chân cầu phủ đầy rêu xanh, Khang Kiện và Tiểu Thuận Tử không khỏi tấm tắc kêu kỳ lạ.
Khang Kiện nói: “Trước đây cũng từng qua cây cầu kia, không ngờ nhìn từ dưới cầu lại càng thêm đồ sộ.” Người cầm lái ở đuôi thuyền bèn mỉm cười, lớn tiếng nói: “Các vị coi chừng đấy, trước mặt đã đến Vọng Long Môn rồi, sắp hạ buồm rồi.”
Bốn người chèo thuyền hết sức vội vàng, mái chèo cùng di chuyển, nhẹ nhàng linh hoạt xuyên qua Vọng Long Môn, tức thì trước mắt khoáng đạt, sông lớn lững lờ chảy về hướng đông, mặt trời mới mọc chói mắt hắt xuống tạo thành những con rắn vàng đang múa loạn trên mặt sông.
Người chèo thuyền giương hai chiếc buồm lớn, xuôi dòng mà đi theo gió tây..