Cuốn “ Hoàn vũ thông cù” năm Hồng Vũ thứ hai mươi bảy có ghi chép rõ ràng, con đường được xây dựng trải dài theo kinh độ là dặm, theo hoành độ là dặm. Trải qua hơn hai trăm năm phát triển, lấy các trạm nghỉ làm trung tâm, đường đã thông suốt tới mọi nơi, đường bộ trung bình cứ bốn, năm mươi dặm lại có một trạm dừng chân, đường thủy thì cự li có nhỏ hơn chút, cứ bảy, tám mươi dặm có một bến.
Đường bộ có xe ngựa, lạc đà, kiệu phu để dùng, đường thủy thì có thuyền và người lái đò, bất kể đường bộ hay đường thủy đều có thể cung cấp chỗ ăn ngủ, hơn nữa tất cả đều là miễn phí, có điều những lợi ích này nhân dân không bao giờ được hưởng, chỉ có khâm sai triều đình và lính báo việc quân mới được sử dụng.
Đầu thời Minh, việc kiểm tra còn tương đối nghiêm ngặt, từ sau thời Gia Tĩnh thì lỏng lẻo hẳn, quan viên có “hợp bài” là có thể lấy hai con ngựa, mười dân phu, hai chiếc thuyền.
Giám sinh của Quốc tử giám, đại diện của quan chức cũng có quyền sử dụng hợp bài, ngồi xe ngựa, ngồi thuyền lại còn có chỗ nghỉ ngơi miễn phí, mà đối với những chuyến đi của quan lớn thì hai con ngựa, mười dân phu đâu có đủ dùng, bởi thế cho nên luôn vượt quá quy định, lúc nào cũng dùng người ngựa nhiều hơn rất nhiều lần.
Như thế cũng có thể tạm cho qua, nhưng còn rất nhiều quan viên còn cho người thân mượn dùng, các trạm dừng chân đón lên đón xuống không biết bao nhiêu lượt người. Bây giờ Chung thái giám cho Trương Nguyên mượn hợp bài, cũng là rơi vào trường hợp này, chuyện này đã trở thành phổ biến, không có gì là lạ.
Trương Nguyên thầm nghĩ “ vẫn là huynh Thương Chu Tộ ta liêm khiết chính trực nhất, đưa gia đình vào kinh cũng là dùng thuyền của nhà mình, luôn tiết kiệm đến tối đa”
Tuy rằng như vậy, Trương Nguyên vẫn chấp nhận dùng tấm hợp bài di chuyển của Chung thái giám đưa cho, ừm, tiện thể xem xét cuộc sống của người dân luôn.
Nghe nói một trong những nguyên nhân dẫn tới sự diệt vong của nhà Minh là do là năm Sùng Trinh thứ hai dã cho cắt giảm trạm nghỉ chân trong thiên hạ, Lý Tự Thành nguyên là một binh lính trong dịch trạm Ngân Xuyên, việc cắt giảm các dịch trạm như vậy khiến ông ta trở thành “thất nghiệp” mất rồi, năm đó lại xảy ra rất nhiều thiên tai, không có việc đồng nghĩa với không có cơm ăn, bởi vậy nên mới nảy sinh ý đồ vùng lên tạo phản..
Trương Nguyên nói:
- Đa tạ công công đã cho tại hạ mượn tấm hợp bài, còn một vạn lượng này tại hạ sao có thể nhận được.
Chung thái giám cười nói:
- Ngươi đã cứu nguy cho Khâu thái giám, sao lại không thể nhận? Khâu Thiên Thừa đã nói rồi, tạ lễ của Trương công tử cũng ở chỗ ta, cho nên ta chia cho ngươi một ngàn, thế nào, hay ngươi chê ít?
Nước trong tất không có cá, người không có tâm cơ thì không có tiền đồ.
Khâu Thừa Thiên đương nhiên sẽ không nói ra rằng tất cả lễ vật cho Trương Nguyên đều nằm trong tay Chung thái giám, gã căn bản không coi Trương Nguyên ra gì, mà chẳng qua là Chung thái giám muốn lôi kéo quan hệ, hơn nữa số bạc Chung thái giám đưa cho Trương Nguyên cũng không nhiều đến mức không thể nhận được, cái này được gọi là lợi ích liên minh, nếu Trương Nguyên không nhận bạc thì hai người còn có sự khác biệt không cùng trên con thuyền được, nếu nhận rồi thì cũng chỉ là một ruột mà thôi, giao tình hai bên càng trở nên thân thiết. Qua lần bày kế sách này Khâu thái giám, Chung thái giám đã thấy được sự túc trí đa mưu của Trương Nguyên, và quan trọng hơn là, Trương Nguyên làm văn bát cổ rất tốt, đỗ đầu khoa cử là chuyện đương nhiên, cho nên Chung thái giám cho rằng nên kết thân với hắn một chút, kết giao với người tài lúc còn chưa thành danh, chẳng phải là có mắt nhìn người lắm sao?
Trương Nguyên khom người nói
- Đây là công công ban tặng, Trương Nguyên đành xin nhận, hy vọng sau này có cơ hội báo đáp công công.
Chung thái giám hài lòng gật đầu, nâng tách trà lên, nói:
- Uống trà, uống trà nào, đây là trà Long Tỉnh Tây Hồ, nếu Trương công tử thích, ta tặng ngươi hai cân.
Đây không phải bưng trà tiễn khách, mà là câu nói chuyện thoải mái giữa hai người.
Trương Nguyên đáp:
- Công công cai quản Hàng Châu, thật khiến người ta ngưỡng mộ, nhưng vẻ đẹp của sông núi liệu có mấy ai có thể cảm thụ được.
Chung thái giám cười khà khà, bỗng nhiên thu lại nét cười, nghiêm nghị nói:
- Tuy rằng đứng trước cảnh non nước hữu tình của Tây Hồ, nhưng ta vẫn cứ thấy lo lắng trong lòng, Trương công tử tài trí hơn người, liệu có thể giúp ta hóa giải?
Trương Nguyên nghĩ thầm “Chung thái giám không phải là no bụng rồi nghĩ ra mấy thứ dâm dục đấy chứ, cái này thì ta không giúp được ngươi đâu”.
Rồi nói tiếp:
- Không biết công công có gì phiền muộn, Trương Nguyên tuy rằng tuổi nhỏ, nhưng cũng nguyện xin được san sẻ giúp công công phần nào.
Chung thái giám trầm ngâm một lúc, nói:
- Ở Hàng Châu này ta cũng không thể ở lâu được rồi, năm sau bổn thái gia phải về kinh rồi. Ra ngoài đã lâu, lần này hồi cung cũng thấy không thoải mái lắm, Trương công tử có cách gì giúp bổn thái gia ta được ở lại Hàng Châu không?
Chung thái giám cũng là nhất thời xúc động mới thuận miệng hỏi một câu, thật sự cũng không hy vọng Trương Nguyên có thể nghĩ ra cách khiến hắn được ở lại Hàng Châu.
Trương Nguyên tuy thông minh nhưng vẫn còn quá trẻ, lại không thấu hiểu những điều phức tạp trong cung
Nhưng Trương Nguyên lại nói:
- Công công ở bên ngoài, quyền hành nằm trong tay Hoàng thượng và các thái giám, không còn cách nào khác ngoài nhờ người vào cung đưa hối lộ.
- Tiểu tử cho rằng, công công tài trí hơn người, trung thành tận tâm với hoàng thượng, làm đến chức Ti Lễ Giám cũng là đương nhiên, lên được chức này rồi cũng khiến người nở mày nở mặt.
Chung thái giám lắc đầu nói
- Ta là nội quan quản việc trong cung thất, xây dựng lăng mộ và các đồ dùng vật dụng trong cung. Mặc dù đã ở bên ngoài làm được vài năm, lần này quay lại vẫn phải về ở Nội quan giám, tuy Nội quan giám cũng không tồi, nhưng không thể so được với Ti lễ giám.
Trương Nguyên nghĩ thầm “Bây giờ là năm Vạn Lịch thứ bốn mươi mốt, Hoàng đế Vạn Lịch vẫn sống được sáu, bảy năm nữa, vua nào thì triều thần nấy.
Chung thái giám muốn làm chủ nội cung thì trước tiên cần có được sự tín nhiệm tuyệt đối của hoàng thượng.
Tuy nhiên Chu Thường Lạc lại là một hoàng đế đoản mệnh, chuyện này cứ xảy ra đúng như thế, mình biết làm sao được?
Ngụy Trung Hiền giờ đã là người bên cạnh Hoàng trưởng tôn Chu Do Giáo rồi. Chung công công này cũng không tệ, mình nên chỉ đường cho y thế nào đây?”
Chung thái giám thấy bộ dạng nhíu mày trầm tư của Trương Nguyên, cười nói:
- Không làm khó ngươi nữa, ta chỉ là thuận miệng nói ra thôi.
Trương Nguyên chân thành nói:
- Chung công công, tại hạ cả gan nói một câu, những cuộc chiến trong cung chủ yếu là dựa vào vây cánh, phải theo đúng người, công công muốn nổi trội trước bao nhiêu là nội quan thì nhất thiết phải theo đúng chủ, còn nữa, tầm mắt cần nhìn xa trông rộng một chút, không cần quá để ý tới mấy tên thái giám đang nắm quyền, vì người đi theo xu nịnh bọn họ đã quá nhiều rồi, ngài có đến cũng chỉ khiến những nội quan kia ghen tức kì thị thôi. Nếu được ngài hãy xem bên nội cung của Hoàng thái tử và Hoàng thái tôn ấy, nếu có thể, công công hãy thân thiết với họ nhiều hơn.
Vẻ mặt Chung thái giám bỗng trầm lắng, Trương Nguyên quả là kẻ suy tính sâu xa, một thiếu niên mười sáu tuổi sao lại có thể nghĩ ra được, nhưng rõ ràng là Trương Nguyên đang thật lòng suy nghĩ cho gã rồi, Chung thái giám thấp giọng nói:
Vạn tuế gia yêu mến Phúc Vương hơn, đến giờ vẫn không để Phúc Vương ra trấn giữ Lạc Dương, còn đối với Hoàng thái tử thì ngài không thưởng thức , chỉ sợ…”
Câu nói kế tiếp cũng không nói rõ.
Trương Nguyên đáp:
- Phúc Vương sắp bị thay thế rồi, không năm nay thì năm sau, đây là chiều hướng tất xảy ra, Chung công công cứ chờ mà xem.
Chung công công nhìn Trương Nguyên chằm chằm, nói:
- Ngươi biết chiêm tinh bói toán sao?
Trương Nguyên cười đáp:
- Đâu cần phải đoán, Chung công công ở trong cung nhiều năm như vậy, chắc cũng biết hoàng thượng và các đại thần đã tranh cãi hơn hai mươi năm về chuyện lập quốc, rốt cục là ai thắng?
Chung thái giám hoảng hốt nói:
- Ngươi đang nói triều thần có thể ép Phúc Vương hạ chức xuất cung ư?
Trương Nguyên mỉm cười không nói gì.
Chung thái giám quan sát đánh giá Trương Nguyên một hồi, có chút khó hiểu hỏi:
- Ngươi tuổi nhỏ như vậy sao lại có hiểu biết sâu sắc như thế?
Trương Nguyên đáp:
- Đâu có, tại hạ chỉ là thích học cách suy nghĩ sâu xa mà thôi.
Chung thái giám không ngớt lời tán dương hắn, lại nói:
- Nếu năm sau Phúc Vương thực sự bị phế phải xuất cung, ta sẽ vô cùng khâm phục, về sau ngươi nói gì ta nghe nấy.
Trương Nguyên nghiêm túc nói:
- Công công, đây là chuyện bí mật giữa hai ta, tuyệt đối không được nói cho người ngoài, nếu không ta và ngài đều phạm trọng tội đó.
Chung thái giám gật đầu lia lịa nói:
- Cái này ta biết, ta ở trong cung nhiều năm, nếu ngay cả điều này cũng không hiểu thì đâu giữ nổi cái mạng mà sống đến bây giờ?
Lúc Chung thái giám tiễn Trương Nguyên ra khỏi hàng dệt thì đã là nửa đêm, Chung thái giám vẫn phái xe ngựa đưa Trương Nguyên đến kênh đào Phụ Khẩu của sông Vận, mang theo một ngàn lượng đặt trong một chiếc hòm da lớn, còn có hai cân trà Long Tĩnh và hai vò rượu “Hàn Đàm Xuân”
Chung thái giám chắp tay từ biệt Trương Nguyên, nhìn theo xe Trương Nguyên đến lúc xe chạy xa rồi mới quay lưng bước vào trong. Trưởng tùy, tôi tớ và cả gác cổng nhìn thấy Chung công công tỏ ra lễ tiết với Trương Nguyên như vậy thì hết sức ngạc nhiên, ngay cả đối với Bố chính sứ, Đô chỉ huy sứ, Án sát sứ Chung công công cũng chưa từng đích thân ra tiễn như vậy.
Đến kênh đào Phụ Khẩu, Trương Nguyên xuống xe, Mục Kính Nham chuyển chiếc hòm da lên thuyền. Chiếc hòm tám mươi cân đối với một lực sĩ cường tráng như y mà nói thì chỉ nhẹ tựa lông hồng, Vũ Lăng và Lục Đại Hữu cũng lên bờ, giúp mang hai vò rượu lên thuyền.
Tần Dân Bình đi xuống từ chiếc thuyền mui đỏ, trông thấy thấy xe ngựa của hàng dệt vừa trở về, chắp tay nói với Trương Nguyên:
- Trương công tử, Chung công công còn dặn dò điều gì không?
Trương Nguyên đáp:
- Không có chuyện gì nữa đâu, chỉ là nên sát sao chuyện xây dựng sinh từ một chút, Chung công công đã nói các vị bỏ ra một ngàn lạng thì các vị cũng đừng vung ra nhiều hơn, nhưng nhất định phải luôn hỏi ý kiến ông ấy, không được tự mình quyết định.
Tần Dân Bình liên tục gật đầu nói phải, lúc đầu Khâu thái giám vơ vét ba ngàn lượng, về sau biếu ông ta cả năm ngàn y cũng không nhận, lần này họ mang theo mười lăm vạn lượng chuẩn bị để hối lộ cứu Mã Thừa Thiên, không ngờ lại gặp Trương Nguyên ở Hàng Châu, chỉ tốn có một ngàn lạng đã giải quyết được hết mọi việc, Trương Nguyên đúng là cứu tinh của người dân Thạch Trụ.
Nói chuyện với Tần Dân Bình trên bờ được một lúc, hai người nói lời từ biệt, Trương Nguyên lên thuyền, đưa tấm hợp bài Chung công công cho mượn giao cho Lục Đại Hữu cất giữ. Lộ phí cũng nằm ở chỗ Lục Đại Hữu, Lục Đại Hữu hiểu biết nhiều, vui mừng nói:
- Có tấm hợp bài này thì tốt quá rồi, tốt quá rồi, chúng ta không sợ mồng bảy này không đến kịp Thanh Phổ rồi.
Kênh đào này có nhiều trạm kiểm tra, có trạm thuế, các trạm Châu, Huyện đều thu phí của thuyền chở khách, thuyền buôn bán, mỗi lần dừng là là lại mất cả tiếng đồng hồ, có tấm hợp bài này, không cần phải đóng phí gì cả, đường bộ, đường thủy cũng cứ thế thẳng tiến, đây chính là ích lợi to lớn của tấm hợp bài.
Trương Nguyên cười nói
- Sáng sớm ngày mai sẽ lên đường, tranh thủ tới nơi trước tối ngày mồng năm, tỷ tỷ, tỷ phu đều mong ta lắm rồi.
Trương Nguyên kêu thuyền nương chuẩn bị nước tắm, Mục Chân Chân lấy quần áo thiếu gia thay ra cho vào một giỏ trúc mang đến một con suối nhỏ gần kênh, bảo rằng nước sông không sạch sẽ.
Trương Nguyên ở một mình trên khoang, dưới ánh đèn đọc vài trang “Tính, lâm mô liễu bán thiên chúc chi sơn đích”, “Tiền xích bích phú”, bỗng nghe từ xa truyền tới tiếng trống. Trong đêm khuya tĩnh vắng, tiếng trống vang lên có chút ghê rợn, liên tiếp ba tiếng, ngừng một lúc, lại vang lên ba tiếng nữa.
Đêm hôm khuya khoắt, Trương Nguyên nhắm mắt lại, cảm thụ sự vui thú khi nửa đêm lại có tiếng chuông vang tới thuyền khách như vậy.
Mục Chân Chân sao vẫn chưa thấy trở về, đêm hôm nàng còn đi giặt quần áo, liệu có khi nào rơi xuống nước rồi không!