Núi Thiên Sơn ở vùng tái ngoại phía Bắc xa xôi, cắt ngang Hắc Hãn Hồi Cốt, kéo dài tới tận Tây Hạ, đó chính là ngọn núi cao nhất, gần như chọc đến tận trời, đỉnh núi quanh năm đều là tuyết trắng bao phủ, trông cực kỳ hùng vĩ.
Phái Thiên Sơn là một trong mấy Đại môn phái sớm nhất giang hồ, cũng chính là một trong những môn phái thần bí nhất, được coi là cội nguồn của võ học Trung Nguyên. Những nhân vật võ lâm tương đương cấp Thái sơn bắc đẩu, không ít người xuất thân từ môn phái này, hoặc là sư thừa võ học sâu xa đều có liên quan đến Phái Thiên Sơn.
Nhưng mà Phái Thiên Sơn tọa ở nơi quá xa xôi, lại quá mức thần bí cho nên nhiều năm qua, võ lâm Trung Nguyên vẫn còn rất mơ hồ. Trước giờ nơi này vẫn được tôn thờ như thánh địa của võ học. Mãi cho đến khi có một người xuất hiện, người đó đã đưa Phái Thiên Sơn trở thành môn phái đệ nhất thiên hạ, đó chính là Thiên Tôn.
Người giang hồ thường nói, trải qua mỗi giáp mới có một thời thịnh thế, mà cứ ba thời thịnh thế mới có một đợt anh hùng xuất hiện, sau khi loạt anh hùng này qua đi sẽ đến lúc giang hồ bình yên trong một thời gian rất dài, sau đó mới có thời thịnh thế thứ hai, mới có đợt anh hùng thứ hai xuất hiện.
Trước bọn Triển Chiêu, giang hồ cũng đã bình yên một khoảng thời gian lâu lắm rồi, mà rất lâu, rất lâu trước đó, chính là thời đại vinh quang nhất của võ lâm Trung Nguyên.
Khoảng chừng sáu mươi năm trước, võ lâm Trung Nguyên vô cùng loạn. Lúc đó nhân tài võ lâm xuất hiện đàn đàn lớp lớp, các cao thủ thi nhau tụ hợp, giang hồ tranh đấu, cao thủ luận võ khắp nơi, các môn phái thì thâu tóm lẫn nhau, hầu như ngày nào cũng có giao tranh đấu đá. Mà ở trong thời thế hỗn loạn ấy, đã sinh ra hai nhân tài võ lâm siêu việt xưa nay không ai có thể địch nổi.
Cũng giống như vạn vật trên thế gian này, có âm thì phải có dương, có hắc thì tất có bạch, anh hùng tụ hợp cũng đều là song song xuất hiện, vừa là địch lại vừa là bạn, cạnh tranh với nhau, chia đều thiên hạ.
Người nổi bật nhất sáu mươi năm về trước, coi như cũng chỉ có hai vị Thiên Tôn cùng Ân Hậu này mà thôi.
Đây là hai người duy nhất có cuộc đời vô cùng truyền kỳ, vô địch cả về thiên phú võ công cùng tính cách trái ngược đến cực đoan.
Phái Thiên Sơn sở dĩ có thể khẳng định vị thế chí tôn trong võ lâm Trung Nguyên, chính là nhờ vào Thiên Tôn.
Thiên Tôn là tênmà người đời vẫn gọi, còn tên thật của Thiên Tôn là gì, cả thiên hạ có khi cũng không ai biết.
Xuất thân của Thiên Tôn và Ân Hậu vô cùng thần bí, cả hai người này đều giống nhau, họ đến từ đâu, tuổi ấu thơ thế nào, tất cả đều không ai biết được, chỉ biết là Thiên Tôn chạy từ đỉnh núi cao vạn trượng Thiên Sơn xuống, còn Ân Hậu thì lại càng kỳ quái hơn, nghe nói hắn bò từ mười tám tầng địa ngục trèo lên.
Công phu hai người này hoàn toàn bất đồng, tính cách cũng khác, thế nhưng lại chính hai người này, ngay tại trong thời điểm võ lâm đang hô phong hoán vũ, giống như song long xuất hải, như những vị đế vương cứu tinh thiên hạ mà song song bình định giang hồ, chia đều võ lâm Trung Nguyên. Một người thì thống nhất Chính phái võ lâm Trung Nguyên, một người lại thống trị Tà phái võ lâm Trung Nguyên, chỉ cần một cái hắt hơi của họ cũng đủ để thiên hạ có thể đại loạn. Có điều, nói đến cũng lạ, hai người một chính một tà, thế nhưng từ xưa đến nay chẳng bao giờ thấy đối địch với nhau, thỉnh thoảng ngẫu nhiên còn trêu chọc nhau mấy tiếng, lúc rảnh rỗi không có việc gì còn có thể hẹn nhau uống rượu, quan hệ thực sự vô cùng vi diệu.
Cũng bởi vì vậy mà năm đó chính là thời kỳ mà Chính Tà hai đạo chung sống hòa thuận nhất, hoàn toàn phá bỏ cái cục diện tranh đấu hỗn loạn thủy hỏa bất dung trước đó, hai người đó sất trá võ lâm hơn bốn mươi năm, sau đó lại song song thoái ẩn giang hồ. Từ đó về sau, võ lâm Trung Nguyên cũng tồn tại trạng thái hòa bình dài lâu hiếm có, các môn phái mới trên giang hồ cũng ùn ùn xuất hiện, thế nhưng đã không còn thấy cái cảnh tranh đấu đến ta sống ngươi chết nữa. Bởi vậy, Thiên Tôn cùng Ân Hậu, ngoại trừ được người ta tôn sùng là thánh giả võ học, thì danh tiếng ở cả giang hồ, trong lòng người dân cùng Triều đình đều rất tốt.
Tóm lại, Thiên Tôn thành công trở thành Minh chủ chính phái được mọi người tin phục và thừa nhận nhất. Mà Ân Hậu lại là Giáo chủ Tà giáo ít bị lên án và truyền kỳ nhất từ trước đến nay.
Đương nhiên, cái gì mà Minh chủ, Giáo chủ a, tất cả đều là do người đời phong cho, hai người họ còn chưa có bao giờ thừa nhận đâu.
Thiên Tôn cùng Ân Hậu thoái ẩn giang hồ, để lại hai môn phái.
Thiên Tôn để lại chính là Phái Thiên Sơn, Ân Hậu để lại chính là Thiên Ma Cung.
Lúc Thiên Tôn cùng Ân Hậu đều tại nhiệm, hai cái đại môn phái này chính là thánh địa võ học mà người người đều mơ tới, gần như tất cả nhân tài giang hồ đều muốn đầu quân làm đệ tử của hai phái này.
Có điều, do tính cách Thiên Tôn và Ân Hậu khác nhau cho nên tiêu chí thu đệ tử của hai phái này cũng rất khác nhau. Vì thế cho nên, cho dù sau bao nhiêu năm thì không khí trong hai phái này vẫn khác nhau hoàn toàn.
Trước tiên nói về Phái Thiên Sơn.
Lúc trước đã nói qua, Thiên Sơn vốn nằm bên ngoài lãnh thổ Đại Tống, ngọn núi kia còn cao đến mấy vạn thước, chỉ có thần tiên hoặc những người giống hệt thần tiên như Thiên Tôn mới có thể ở được mà thôi. Còn nơi Thiên Sơn chuyên thu đệ tử, tuy rằng cũng treo bảng hiệu là Phái Thiên Sơn, thế nhưng lại không thuộc Thiên Sơn. Mà là ở “Tiểu Thiên Sơn.”
Mà Tiểu Thiên Sơn này ở đâu đây?
Tiểu Thiên Sơn nằm ở hướng Tây Hi Châu phủ, phía Bắc lãnh thổ Đại Tống, tại một trấn có tên gọi là Bịch Thủy, gần với Tây Hạ.
Hi Châu phủ là một địa phương rộng lớn, là nơi giao thương giữa phía Tây và phía Nam, vô cùng phồn hoa náo nhiệt. Bích Thủy trấn là một trấn nhỏ, trong trấn có một ngọn núi với con đầm, phong cảnh thật chẳng khác nào tranh vẽ.
Cái gọi là một núi mười tám đầm chính là toàn bộ thành trấn, ngoại trừ chỉ có một mảnh đất bằng nhỏ bé thì toàn bộ đều bị một ngọn núi vô cùng nguy nga chiếm giữ, mà trên núi có đến con đầm, cộng thêm rất nhiều thác nước, phong cảnh vô cùng tuyệt mĩ. Ngọn núi này, tục gọi là Bích Thủy Sơn, cũng chính là Tiểu Thiên Sơn trong truyền thuyết.
Phái Thiên Sơn nằm ngay trên đỉnh Tiểu Thiên Sơn, chu vi cực lớn, sơn trang được xây dựng dựa vào thế núi, nội gia đệ tử có đến vài ngàn người, đó là còn chưa tính đến những người đã xuất sư xuống núi cùng với những đệ tử đã được phân công làm việc khắp nơi. Những người tự nhận là tục gia đệ tử của Phái Thiên Sơn thì càng đừng nói đến, con số này có tính cũng không xuể.
Nhân sĩ võ lâm nếu nói ra nhập Phái Thiên Sơn, thường mang ý tứ khác.
Phái Thiên Sơn tại nơi mà Thiên Tôn ở kia, nằm ở tái ngoại, nơi đó ngoại trừ Bạch Ngọc Đường, đồ đệ bảo bối duy nhất được Thiên Tôn thừa nhận ra thì không có ai được lên đó.
Mà các nhân sĩ võ lâm mỗi khi nói đến ra nhập Phái Thiên Sơn, chính là nhập ở Tiểu Thiên Sơn tại Bích Thủy trấn này. Đây cũng là nơi Phái Thiên Sơn mở cửa thu đồ đệ, chưởng môn của phái bây giờ có tên gọi Lục Phong.
Lại nói một chút về Thiên Ma Cung.
Ma Cung đương nhiên không phải ở mười tám tầng địa ngục gì mà là một cung điện được xây dựng ở trên đỉnh Ma Sơn. Còn vị trí cụ thể của Ma Sơn ở đâu, thế nhân luôn xôn xao bàn tán, thế nhưng, có thể biết chính xác thì chỉ có người của Ma Cung mà thôi.
Nghe nói bên trong Ma Sơn có một hốc núi cực lớn, cực sâu, Ma Cung được xây dựng ngay trong khe núi đó, bên ngoài rừng cây rậm rạp, lại được bố trí cực nhiều cơ quan nguy hiểm, người không biết đường đi vào căn bản đều không thể thoát ra.
Bởi vậy cho đến tận bây giờ, người đời cũng không thể biết được vị trí cụ thể của Ma Cung ở chỗ nào, đó cũng là điểm ngăn cách Ma Cung với bên ngoài.
Trước cũng đã đề cập qua, bởi vì hai vị Lão tổ của Phái Thiên Sơn và Thiên Ma Cung có tính cách rất khác nhau, cho nên bầu không khí bấy giờ trong hai phái cũng rất khác nhau.
Thiên Tôn là Thiên chi kiêu tử, nghe nói hắn không chỉ thông minh mà thiên phú cũng cực cao, ngoại hình còn vô cùng xuất chúng, dù sao thì lúc đó hắn cũng là Thiên hạ đệ nhất đệ nhị mỹ nam tử. Khi thu đồ đệ, hắn chỉ muốn nhận thiên tài mà thôi, nghe nói cả đời hắn chỉ muốn tìm được một đồ đệ giống hệt mình hồi nhỏ để mà bồi dưỡng. Hơn nữa, tính cách hắn lại tùy ý mà lãnh đạm, nghe nói còn có chút giống trẻ con. Con đường tìm đồ đệ của hắn quả thật rất lắm chông gai, những người có thiên phú, hắn đều dạy vài ngày rồi mới phát hiện người ta vẫn chưa đủ thông minh, chưa đủ thiên phú, thế là hắn liền vứt người ta lại Phái Thiên Sơn hoặc là nói người ta nếu muốn nhận người khác làm sư phụ hay không thì tùy, hắn đi tìm đồ đệ khác.
Rất nhiều người đều lên án cách làm này của Thiên Tôn, thế nhưng cái đám đồ đệ “bị vứt bỏ” ấy của Phái Thiên Sơn lại không bao giờ có một câu oán hận nào. Tất cả đều do võ công của Thiên Tôn quả thực rất khó học, nếu như không có đủ thiên phú chắc chắn sẽ không học được, thậm chí có thể bị tẩu hỏa nhập ma mà chết. Hơn nữa, Thiên Tôn chính là cao thủ trong cao thủ, chỉ cần được hắn dạy cho mấy chiêu đã có thể dùng cả đời không hết, sau này dù có nhập giang hồ thì cũng là cao thủ trong cao thủ.
May mắn là ông trời có mắt, sau khoảng gần một trăm năm tìm kiếm, cuối cùng vào hai mươi năm trước Thiên Tôn cũng đã có thể tìm được Bạch Ngọc Đường.
Thiên Tôn nhìn người rất chuẩn, chỉ dùng có hai mươi năm dạy dỗ ngắn ngủi, Bạch Ngọc Đường cũng đã có ít nhất năm thành công lực của hắn, năm đó, mười mấy tuổi Hắn hạ Thiên Sơn cũng đã làm chấn động toàn bộ võ lâm.
Mà vấn đề của Phái Thiên Sơn bây giờ, lại do cái đám người “thiên tài” mà Thiên Tôn đã từng chỉ điểm qua kia gây ra.
Một đàn dê, nếu như trong đó chỉ có một con đầu đàn như vậy thì đàn dê đó sẽ vô cùng yên ổn, nhưng vấn đề lại là, trong một đàn dê mà lại có đến mấy chục con dê đầu đàn thì … sẽ vô cùng hỗn loạn.
Đám môn hạ của Thiên Tôn kia, tất cả đều là thiên tài, những thiên tài này ngoại trừ Thiên Tôn ra chẳng chịu phục ai, mà Thiên Tôn lại đi chọn một người cực kỳ ôn hoà, võ công cũng rất bình thường là Lục Phong làm Chưởng môn, bình thường hắn cũng không thèm quản chuyện của Phái Thiên Sơn, khiến cho trong phái nội đấu vô cùng nghiêm trọng.
Phái Thiên Sơn rất loạn, chuyện này người trong thiên hạ đều biết rõ, thế nhưng ai cũng không quản được, Thiên Tôn lười quản, mặc cho bọn họ thích nháo sao thì nháo, cho nên người trong giang hồ cứ nhắc đến Phái Thiên Sơn là lại lắc đầu.
Ngược lại với Phái Thiên Sơn, tính cách của Ân Hậu khác xa với vị thần tiên lạnh như băng kia, nghe nói tính cách hắn khá tùy hứng, hắn nhận đồ đệ hay môn hạ, chỉ cần hợp tính là được, chẳng thèm quản việc ngươi là ngu ngốc hay thông minh, là người hiền lành thành thật hay là tên lưu manh lỗ mãng.
Hơn nữa Ân Hậu còn có một thói quen rất kỳ quái, hắn rất thích nhặt người ….
Chẳng hạn như nói, những người không có nhà để về, những người tội ác tày trời, người lưu lạc giang hồ, những người bị rơi vào bước đường cùng …. Tóm lại, tất cả hắn đều coi như dã cẩu, mèo hoang mà nhặt về nuôi ở Ma Cung, cho ăn ngon uống tốt, những lúc rảnh rỗi còn cùng nhau vui đùa.
Vì thế, bên trong Ma Cung, quan hệ của đám Đại ma đầu, Tiểu ma đầu đều rất tốt, hòa thuận vui vẻ cứ y như một đại gia đình vậy.
Thế sự thường không theo lẽ thường, một đám thiên tài danh môn chính phái tập trung một chỗ, kết quả là lúc nào cũng đấu đến ta sống ngươi chết. Mà một đám Ma đầu chẳng khác nào lưu manh đường phố tụ tập cùng nhau một chỗ, lại sống thật vui vẻ thuận hòa.
Có điều cũng may là, hai môn phái này gần đây cơ bản đều không có mở cửa thu đồ đệ, bề ngoài, Phái Thiên Sơn vẫn yên tĩnh như vậy, nhân tài vẫn có rất nhiều, bởi vì Thiên Tôn vẫn còn sống a, ai cũng không dám gây họa quá mức.
Mà Ma Cung kia, nghe nói một đám lão nhân gia ngày ngày phóng túng, cũng chẳng thèm hỏi chuyện giang hồ, vô cùng tiêu diêu tự tại.
Mặt khác, cả Thiên Sơn cùng Thiên Ma Cung, nghe nói đều có hai hậu bối trẻ tuổi thần bí.
Phái Thiên Sơn không cần phải hỏi, mọi người đều biết đó chính là bảo bối đồ đệ được Thiên Tôn tự tay dạy dỗ, Bạch Ngọc Đường.
Thế nhưng, Bạch Ngọc Đường sớm đã tỏ ý không quan tâm đến tranh đấu của Phái Thiên Sơn, hơn nữa tính tình người này hiển nhiên là còn buồn chán, tùy ý hơn cả Thiên Tôn, không thích làm chuyện gì lớn hết, cũng không thèm tham gia tụ hội giang hồ, càng không đi tranh đoạt cái gì mà Minh chủ hay bảo tọa, không thích tranh giành danh hiệu thiên hạ cao thủ võ lâm gì đó. Đám cao thủ Phái Thiên Sơn tuy rằng không mấy thích hắn, thế nhưng cũng không bao giờ chủ động đi tìm hắn gây phiền toái.
Mà Thiên Ma Cung cũng nghe nói là có một vị Thiếu chủ công phu kỳ cao, chính là bảo bối cháu ngoại của Ân Hậu. Chỉ là thân phận vị Thiếu chủ này cực kỳ thần bí, người của Ma Cung cũng chưa bao giờ nhắc tới, khi nói với người ngoài, họ cũng chỉ nói là Tiểu chủ nhân của chúng ta chứ không nói hơn một lời nào.
Cảnh ngộ của vị Thiếu chủ này khác với Bạch Ngọc Đường, nghe nói từ nhỏ vị Thiếu chủ này đã được hơn ba trăm Đại ma đầu Tiểu ma đầu Ma Cung sủng đến tận trời rồi.
Nghe những lời đồn này, người giang hồ đều cảm thấy hoảng sợ, vậy không phải chính là một Tiểu Ma Tinh thần bí sao? Như vậy sẽ xấu xa đến mức nào đây a…. Tốt nhất là cứ giữ hắn ở trong Ma Cung đi, ngàn vạn lần đừng có thả ra ngoài gây họa nhân gian đó.
…
Đoạn trên kia chính là miêu tả về bối cảnh Phái Thiên Sơn và Ma Cung, ngoại trừ cái đoạn truyền thuyết về Tiểu chủ nhân của Ma Cung ra thì đều là những gì Triển Chiêu đang củng cố kiến thức giang hồ cho đám người Triệu Phổ, Công Tôn và ảnh vệ đang ngồi trong mã xa to đùng.
Trước kia ở nhà, Tiểu Tứ Tử chỉ được nghe Công Tôn giảng về thảo dược cùng độc dược gì đó, nhiều lắm thì cũng chỉ là đi xem kịch Tam quốc, diễn quốc gì đó thôi, đây là lần đầu bé được nghe về chuyện giang hồ xuất sắc như vậy, hai mắt bé mở to, miệng cũng mở to không kém, đối với Thiên Tôn cùng Ân Hậu gì đó càng vô cùng hứng thú.
Triệu Phổ ngồi chống cằm, khoanh tròn hai chân, Tiểu Tứ Tử bây giờ đã vô cùng thân thiết cùng hắn, còn đang ngồi trên đùi hắn. Triệu Phổ mở miệng nói: “Hình như ta đã gặp qua Thiên Tôn!”
Mọi người đều sửng sốt, kinh ngạc mà nhìn Triệu Phổ.
Mấy năm nay, Triển Chiêu hành tẩu giang hồ vẫn muốn gặp được Thiên Tôn, thế nhưng mà vẫn chưa có cơ hội, Triệu Phổ suốt ngày chỉ ở Hắc Phong Thành, làm sao lại gặp được?
“Ta cũng không biết rõ có phải là hắn hay không.” Triệu Phổ hỏi: “Gầy, dáng người dong dỏng, cao cỡ Bạch Ngọc Đường, đẹp cũng đẳng cấp đó, trông đặc biệt rất trẻ, hơn nữa, tóc màu trắng.”
“Đúng rồi!” Triển Chiêu gật đầu: “Thoạt nhìn tuổi tác của Thiên Tôn không khác Bạch Ngọc Đường là mấy, nếu như có khác cùng lắm chỉ là trông tang thương hơn một chút mà thôi!”
“Vậy chắc là hắn rồi!” Triệu Phổ gật gật đầu: “Ta có gặp qua hắn ở Hắc Phong Thành một lần, lúc đó ta đang giao chiến cùng Tây Hạ, đêm hôm đó, lúc ta ra ngoài thành thị sát tình hình địch doanh, nhìn thấy một Bạch y nhân đứng trên đỉnh thành lâu Hắc Phong Thành.”
“Dưới ánh trăng nhìn rất rõ ràng, hắn ra hiệu với ta một cái, hình như là chỉ về sơn cốc tại biên quan Tây Bắc, lúc ta định đến gần thì hắn đã biến mất. Sau đó ta có chút cảnh giác, liền phái người đến sơn cốc kia xem thử, vừa liếc mắt cái đã phát hiện cơ quan dày đặc. Đó chính là con đường ngày hôm sau chúng ta phải đi, người biết được điều này cũng không nhiều, cho nên chúng ta mới phát hiện trong quân có nội gian.”
“Cho nên là nói, Thiên Tôn đã giúp ngươi một đại ân đi?” Công Tôn hỏi.
“Không có hắn chỉ điểm lần đó, nhất định là thương vong vô số.” Triệu Phổ cười nhạt: “Tóc trắng đã vô cùng đặc biệt, mà điều đặc biệt nhất chính là khinh công cực cao, đến độ ta cũng không phát hiện hắn ở đó, nếu như là người xấu, nhất định ta đã chết mấy lần rồi.”
“Oa …” Tiểu Tứ Tử vẻ mặt sùng bái: “Thì ra sư phụ của Bạch Bạch lại lợi hại như vậy a, thực sự muốn gặp a.”
“Lần này e là không gặp được, không phải hắn viết trong thư là đến Vân Nam rồi sao.” Công Tôn thuận tay ôm Tiểu Tứ Tử qua, mấy ngày nay đi đường hắn phát hiện ra một vấn đề vô cùng nghiêm trọng, chính là, Tiểu Tứ Tử hình như rất quấn quýt với Triệu Phổ, quấn quýt còn hơn cả với mình nữa. Từ trước đến nay đều nằm trong lòng mình, thế nhưng, từ khi biết bọn Triệu Phổ, Tiểu Tứ Tử lại càng ngày càng “dã” hơn. Hàng ngày nếu như không phải nó chơi với bọn ảnh vệ thì lại là ngồi nghe Âu Dương Thiếu Chinh lảm nhảm, hoặc đi ăn cùng Triển Chiêu, không thì lại là ngủ gà ngủ gật trong lòng Triệu Phổ, mình có dự cảm vô cùng nghiêm trọng!
Mấy ngày nay, bởi vì mệt nhọc cho nên Bàng Cát gầy hơn một chút, cũng không biết hắn ăn phải cái gì mà lại bị tiêu chảy, chẳng có chút sức sống nào, chỉ nằm rên hừ hừ trên xe.
Bao Chửng thì xem bộ hồ sơ mà Triển Chiêu phải mất nửa ngày mới tìm ra được, cũng có chút vò đầu bứt tai – Đây là loại án gì a, quả thực quá quái lạ.
“Ai, Triển hộ vệ.” Bàng Cát hỏi Triển Chiêu: “Bạch Thiếu hiệp về Thiên Sơn lo chuyện gì à?”
Triển Chiêu nhớ ra là lúc Bạch Ngọc Đường nhận được thư kia thì Bàng Thái Sư không có ở đó, cho nên mới nói cho hắn: “Một đồ đệ Phái Thiên Sơn bị chết, là một người rất nổi danh, tên gọi Nhạc Thành Tây, một trong Thập đại cao thủ Phái Thiên Sơn, chết ở trong chính thư phòng của mình, bị một đao phong hầu, cửa thì lại khóa trái bên trong.”
“Chỉ là chết một đồ đệ mà thôi, vì sao toàn bộ giang hồ đều quan tâm chuyện này vậy?”
“Quan trọng là Nhạc Thành Tây đã là đệ tử thành danh, xuống núi và tự lập môn hộ!” Triển Chiêu nói: “Gần đây, Phái Thiên Sơn cứ bốn năm lại tổ chức một lần đại hội luận võ, tất cả các đệ tử Thiên Sơn đều đến luận võ để phân danh bài. Lần thi đấu này không giới hạn cấp bậc, cho dù là một tiểu đồ đệ mới nhập môn hay lão đồ đệ đều có thể tham gia. Người luận võ thắng cuối cùng chính là Đại đệ tử, sau này cũng có thể kế thừa Phái Thiên Sơn. Mà địa vị của Phái Thiên Sơn ở trong võ lâm Trung Nguyên đều có uy lực vô cùng, cho nên đợt luận võ bốn năm một lần này đều có rất nhiều võ lâm nhân sĩ đến xem. Theo những gì trong thư viết, trước khi chết trên thư án, Nhạc Thành Tây còn để lại một câu: Máu nhuộm đầm Bích Thủy, Phái Thiên Sơn tất chịu diệt vong.”
“Đầm Bích Thủy …” Bao Đại Nhân đặt hồ sơ mà Triển Chiêu đưa cho xuống: “Vụ án điều tra lần này cũng có quan hệ với Đầm Bích Thủy.”
“Liệu có phải vụ án lần này đều là bịa đặt không a?” Triệu Phổ ngáp một cái: “Kỳ lân chạy ra ăn thịt người, có quỷ mới tin.”
“Thế nhưng ngày đó có người nói nhìn thấy mà.” Công Tôn cũng đã nghiên cứu kỹ hồ sơ rồi.
Thì ra đây chính là một vụ án treo từ năm năm trước.
Đầm Bích Thủy nằm ở trên núi Bích Thủy, là một đầm nước lớn và đẹp nhất ở Bích Thủy trấn, xung quanh đầm nước này có đến chín thác nước, đều có phong đỏ bao quanh. Mà nơi này sở dĩ nổi tiếng như vậy là bởi vì có một truyền thuyết, trong Bích Thủy đàm có Kỳ lân.
Truyền thuyết đầm Bích Thủy có Kỳ lân đã được truyền tụng cả trăm năm rồi, ở Tiền triều còn có người ghi lại, nói là có một tiều phu nói là nhìn thấy kỳ lân nhô đầu ra để thở, vừa mới nhìn thấy người cái là lặn xuống nước luôn. Sau đó cũng không còn có ai nhìn thấy nữa. Cứ như vậy cho đến năm năm trước, nghe nói có mấy người đến đầm Bích Thủy, đột nhiên có Kỳ lân nhảy từ trong nước ra, ăn thịt mấy lữ nhân này, toàn bộ quá trình đều bị một tiều phu nhìn thấy. Tiều phu kia chạy đến báo quan, quan viên phái người đến điều tra, thế nhưng chỉ nhìn thấy vết máu trên mặt đất chứ không hề có thi thể.
Sau đó, lại có một khách điếm đến báo án, nói là có mấy thương nhân ở nơi khác đến khách điếm hắn nghỉ ngơi, nói là đến đầm Bích Thủy ngắm cảnh, thế nhưng sau đó lại không thấy người trở lại.
Quan viên nơi đó định tìm mấy người biết bơi thử lặn xuống đáy nước kiểm tra một chút, thế nhưng làm gì có ai dám chứ? Nghe nói, đầm Bích Thủy này sâu ngàn thước, vì thế cho nên án này không cách nào phá được. Từ đó về sau cũng không có ai dám đến gần khu vực này nữa.
Tùy rằng Phái Thiên Sơn chiếm toàn bộ Bích Thủy sơn, thế nhưng gần như cũng không ai đến đầm Bích Thủy này, nguyên nhân vì sao cũng không có nhiều người biết.
Thế nhưng, truyền thuyết dù sao cũng chỉ là truyền thuyết, trên đời này có Kỳ lân như vậy hay không, thực sự cũng chưa có ai gặp qua.
“Liệu có phải là trư bà long lớn chút không?” Công Tôn hỏi.
“Ta cũng cảm thấy có khả năng này.” Bao Chửng cũng gật đầu: “Kỳ lân thì có chút ly kỳ.”
“Đúng vậy!” Bàng Thái Sư nằm một góc xoa bụng nói: “Có kỳ lân chắc chắn sẽ có tỳ hưu, mà tỳ hưu không phải sẽ ị sao?”
Mọi người đều cấm ngữ mà nhìn Bàng Thái Sư đang tự cho là mình nói chuyện cười hay lắm ấy. Bao Chửng rất muốn châm vào cái bụng tròn xoe của hắn mấy cái, xem nó có bay hơi hay không.
Chỉ có Tiểu Tứ Tử là rất nể mặt mà cười tới cười lui, đưa tay sang xoa xoa bụng Bàng Thái Sư, khiến Thái sư cảm thấy tâm can ngứa ngáy a, hắn muốn cháu ngoại đến ngứa ngáy hết rồi, đáng tiếc là một nhi tử cùng một khuê nữ, vậy mà chưa có đứa nào chịu sinh cho hắn đời thứ ba a, cho nên đành phải trêu đùa cùng Tiểu Tứ Tử cho đỡ nghiền.
“Đại nhân.”
Lúc này, Triệu Hổ vén màn xe lên, nói với Bao Chửng: “Đã tới Hi Châu phủ.”
Đám người Triển Chiêu nhìn ra ngoài xa thăm dò một cái … thấy ngọn núi cao ngất tầng mây.
“Khó trách sao lại được gọi là Tiểu Thiên Sơn.” Triệu Phổ gật đầu tán thưởng: “Núi này thật là cao …”
Trên đỉnh Bích Thủy sơn quả thực là có một sơn trang, dẫn đến sơn trang có một sơn đạo uốn lượn, trước cửa có một sơn môn thật lớn, trên đỉnh sơn môn có đề ba chữ “Phái Thiên Sơn” uy vũ hùng tráng, nhìn rất có khí thế.
Chỉ là sơn môn vốn dĩ có hồng trụ kim đỉnh, thế nhưng trên đỉnh lại có treo lụa trắng, trên đó còn viết thêm chữ “Điện”, còn treo cả đèn lồng trắng nữa.
Giả Ảnh cùng Tử Ảnh phụng mệnh đi điều tra lúc này cũng đã trở về.
Giả Ảnh đứng ngoài cửa sổ nói cho mọi người: “Hôm qua Phái Thiên Sơn lại chết thêm hai người nữa!”
“Cái gì?” Triển Chiêu buồn bực: “Là ai vậy?”
“Một người tên Yến Lâm, một người tên Từ Phi.”
“Yến Lâm?” Triển Chiêu ngẩn người: “Chẳng là là cao thủ Yến Lâm của Nhạn Đãng sơn kia sao? Còn Từ Phi là ai?”
“Yến Lâm đúng là cao thủ của Nhạn Đãng sơn, hắn đến đây để xem đại chiến tranh bài danh của Phái Thiên Sơn. Nghe nói hắn còn là hảo hữu của chưởng môn Lục Phong, lần nào cũng đến quan chiến, thế nhưng lần này không may gặp vận rủi. Từ Phi chính là sư đệ của Yến Lâm, hai người họ đều là nhóm khách đầu tiên đến Thiên Sơn. Lúc thi thể hai người đó được phát hiện, là nổi lềnh bềnh trên Bích Thủy đàm, cũng là một đao phong hầu.”
Mọi người nhìn nhau – Thật sự là máu nhuộm đầm Bích Thủy à.
“Vậy thì Bạch Ngọc Đường đâu?” Triển Chiêu ló đầu ra ngoài cửa sổ xe hỏi Giả Ảnh: “Bạch Ngọc Đường ở đâu rồi?”
Còn chưa có dứt lời, liền cảm thấy có người vỗ vỗ hắn từ phía sau, một thanh âm vốn lạnh băng băng, thế nhưng vào tai Triển Chiêu lại vô cùng dễ nghe, chậm rãi nói: “Bạch Ngọc Đường ở chỗ này.”