Dương Thu Trì đương nhiên không phải thần, hắn chỉ dùng một kỹ thuật đơn giản chuyên điều tra vân tay của hình sự thời hiện đại để phá giải án nhỏ này. Khi hồ trà này được đưa đến nha môn, khi chưa xác định được người bị mất của, thì người khác không thể nào được phép chạm vào nó. Do đó, trên trà hồ nhất định chỉ có vân tay của người bị mất chân chính mà không có dấu vân tay của người còn lại trong vụ kiện cáo này.
Hắn trước hết đem bình trà vào trong nội nha, dùng giấy từ tính và băng từ bằng nhựa trong lấy dấu vân tay trên đó rồi cố định trên một mảnh giấy, sau đó đi vào nhà bếp lấy một ít dầu thông, dùng bút lông trát một ít giấu trong tay áo.
Sau khi trở về công đường, hắn cho bị cáo và nguyên cáo ra ngoài miếu thổ địa dập đầu phát thệ, mượn cớ đó đánh lạc hướng sự chú ý của mọi người, sau đó đem hai mảnh giấy viết lời thề có ấn dấu chỉ tay của hai người họ tiến hánh so sánh.
Tuy trên bình trà có không ít dấu vân tay, thậm chí có luôn dấu tay của hắn, nhưng do hắn chỉ cần xác định dấu tay của nguyên cáo hay bị cáo có trên bình hay không là được. Do đây là cách loại trừ - , cho nên hắn nhanh chóng tra ra trên bình trà chỉ có dấu tay của Tưởng Văn Minh còn của Chu Tiêu Hoa thì không, cho thấy nguyên cáo Chu Tiêu Hoa là kẻ nói dối. Dương Thu Trì rút cây bút lông có thấm dầu thông đó vẻ lên tờ giấy ghi lời thề của Chu Tiêu Hoa một cái mặt quỷ, cố ý chần chờ cả nửa ngày để dầu thông trên đó khô đi. Sau đó, khi ra đến miếu thổ địa, hắn giả vờ khấn vái này nọ, đưa tờ giấy ghi lời thề đến gần lò hương nóng hừng hực đó để hơ nóng. Do dầu thông là một loại vật chất mỏng trong suốt, có nhiệt độ điểm cháy thấp hơn cả giấy, cho nên chỉ cần hơ nóng một chút đã có màu sắc khác biệt so với tờ giấy. Do đó, cái mặt quỷ hắn vẽ lúc nãy hiện ra rõ ràng trên tờ giấy. Hắn đã lấy cơ sở giám định dấu tay để kết luận kẻ nói dối là ai, rồi lợi dụng sự kính úy của người thời cổ với thánh thần, thông qua hiển linh bức cho nguyên cáo Chu Tiêu Hoa thừa nhận nói dối, thành công giải quyết án này.
Dương Thu Trì nói với Chu Tiêu Hoa đáng quỳ dưới công đường: "Người thấy tiền tài nổi lòng tham, mão lĩnh vật bị đánh mất của người khác, không những dâng cáo trạng làm khó người ta, còn giả vờ long trọng thề thốt. Ngươi nên biết, thánh thần có mặt khắp mọi nơi! Trộm cướp lừa gạt đều bị trời phạt, đối với thứ gian giảo điều ngoa như ngươi cần phải cảnh cáo thích đáng mới được. Người đâu! Kéo hắn ra ngoài đánh hai mươi roi, bêu ra ngoài thị chúng một tháng!"
Bọn nha lại lập tức kéo Chu Tiêu Hoa ra ngoài nguyệt đài trước đại đường đánh hai mươi gậy, rồi dùng cái cùm gỗ nặng hai mươi cân còng Chu Tiêu Hoa vào, kéo ra ngoài nha môn bắt đứng trên bục trong sự cười rống của người đứng xem.
Dương Thu Trì lệnh cho người đem cái bình trà thanh hoa trả lại cho Tưởng Văn Minh. Tưởng Văn Minh luôn miệng xưng tạ thanh thiên đại lão gia cao minh thần diệu, dập đầu lia lịa.
Dương Thu Trì ra lệnh cho y lui, Tưởng Văn Minh vừa định đi, Kim sư gia chợt bảo: "Chậm đã...!" Xong kề tai Dương Thu Trì nói nhỏ: "Đại nhân, người mất của này cần phải bỏ ra phân nửa giá trị đưa lại cho người nhặt được rồi mới có thể đi a."
"Cái gì? Người mất của cần phải trả tiền? Ai quy định vậy?" Dương Thu Trì hỏi, thầm nghĩ, nhặt được của rơi đem trả lại là truyền thống đạo đức tốt đẹp của người Á đông, cần phải cổ vũ, nhưng không ngờ lại có chuyện trả lại rồi được chia phân nữa giá trị a. Luật pháp Trung quốc hiện hành quy định nếu như nhặt được của rơi mà không trả lại, dù không thể cấu thành tội xâm chiếm, nhưng cũng thuộc tội tham lam, nếu bị người mất của tố cáo, pháp viện khởi tố, chứng minh được tội danh rồi sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Còn lượm được của rơi trả lại thì được thù lao phân nửa giá trị này quả thật chẳng thấy có nơi nào ghi, có hay chăng chỉ là khi quản lý vật bị mất sản sinh phí tổn, hoặc khi tìm người bị mất của phát sinh chi phí hay tổn thất, thì người bị mất của đó phải bồi thường hay chi trả một ít chi phí thế thôi.
Kim sư gia biết huyện thái lão gia này đối với hình luật đương nhiên không thể rành rọt hết, nếu không thì chẳng cần đến sư gia như ông ta làm gì, cho nên nhỏ giọng cười ruồi đáp: "Đại nhân, đây là quy định của Đại Minh luật chúng ta a."
Đại Minh luật đích xác có quy định như vậy: "Phàm vật bị mất, hạn trong vòng ngày tống quan, vật của quan vẫn là của quan, vật của tư nhân thì cho người nhận thức nhận lại, trong đó một nửa sẽ trả cho người tìm được vật coi như phần thưởng, một nửa sẽ do người mất vật nhận. Nếu như trong vòng ba mươi ngày không có ai nhận, cấp hết cho người nhặt được." Dương Thu Trì nghe nói đó là quy định trong Đại Minh luật, và Kim sư gia nói chắc như đinh đóng cột như vậy rồi, thì nhất định chẳng sai, liền gật đầu nói với Tưởng Văn Minh: "Cái bình trà thanh hoa miệng ngắn này của ngươi là do người nhặt không tham của rơi đem đến nha môn trả lại cho nên ngươi mới có thể nhận được về, án chiếu theo luật lệ đại Minh, ngươi nên giao ra phân nửa giá trị để thưởng cho người tìm được."
Tưởng Văn Minh cũng là người thành thật, vội lấy ra mười lượng bạc trắng chuẩn bị sẳn giao ra. Dương Thu Trì lệnh truyền người nhặt được của rơi đang chờ ngoài đại đường vào nhận tiền thưởng, xong xuôi coi như án này đã xét xử xong.
Án xử thứ hai là án trọng hôn (kết hôn hai lần, cưới vợ - chứ không phải vợ nhiều thiếp theo như quy định), Dương Thu Trì lười xem cáo trạng văn vẻ cổ xưa, trực tiếp cho nguyên cáo Lý Đại Ngưu vào đại đường, hỏi thẳng: "Ngươi muốn kiện cái gì, nói thẳng ra đây luôn đi."
Lý Đại Ngưu dập đầu thưa: "Đại lão gia, mười ba năm trước, muội muội của tôi minh môi chánh thú gả về cho bị cáo Vương Kha làm vợ, không ngờ Vương Kha này mặt người dạ thú, lừa dối chúng tôi, ở trong thành này tiếp tục cưới cháu của Lý Thừ Minh Lý viên ngoại làm vợ nữa, một người hai vợ, thử hỏi muội muội tôi phải làm sao bây giờ? Thỉnh đại lão gia làm chủ cho chúng tôi."
Ngang nhiên trọng hôn? Lòng gian của tên tiểu tử ấy thật là lớn a, Dương Thu Trì lập tức cho truyền bị cáo lên công đường.
Bị cáo Vương Kha bị đưa lên đại đường quỳ xuống, Dương Thu Trì hỏi: "Lời nguyên cáo nói có đúng không?"
Vương Kha vênh váo đáp: "Không sai."
Dương Thu Trì hơi ngẩn người, tên tiểu tử này sao phạm pháp mà lại còn cứng đầu thế, liền hỏi: "Ngươi cưới em gái của Lý Đại Ngưu làm vợ trước, chưa ly dị vợ lại minh môi chánh thú cưới con gái người khác là vì cớ gì?"
"Muội muội của Lý đại ngưu ăn nhiều lười biếng, xấu ma chê quỷ hờn, lão tử đương nhiên phải tìm cưới một người khác rồi." Vương Kha nghễnh cổ cãi.
Lửa giận trong đầu Dương Thu Trì từ từ bừng dậy, vừa định hỏi tiếp, thì Lý Đại Ngưu đã quát tháo lên: "Ngươi nói bậy! Muội muội của ta thiện lương nhàn thục, chiều chồng chăm con, ở với ngươi nhiều năm như vậy, sinh con đẻ cái cho ngươi, nuôi từ nhỏ tới lớn, chịu bao nhiêu khổ cực. Ngươi lúc trước ở quê nhà cuốc cày cấy hái sao không nói muội muội ta không tốt? Hiện giờ ngươi có chức vị cao, lại hiềm muội muội ta hoa tàn ít bướm là sao?"
Vương Kha nhướn mắt: "Không sai, ta chính vì hiềm ả hoa tàn bướm ít đó, thì sao nào? Ngươi làm gì được ta a?"
"Ngươi! Ngươi là tên khốn nạn, lão tử liều mạng với ngươi!' Lý Đại Ngưu đứng lên định đánh Vương Kha.
Dương Thu Trì quát lớn, vỗ mạnh kinh đường mộc: "To gan! Trước công đường không được phép náo loạn! Muốn ăn roi hay sao?" Lý Đại Ngưu sợ hãi giật nãy mình, vội vã trở về nguyên vị quỳ xuống dập đầu.
"Đúng đúng!" Vương Kha đưa tay chỉ vào Lý Đại Ngưu quát: "Hắn hò hét náo loạn công đường, đánh hắn! Lão gia ngài sao không đánh hắn a? Lão gia ngài..."
Lửa giận của Dương Thu Trì bốc lên tận đỉnh đầu, vỗ mạnh Kinh đường mộc cắt ngang lời của y: "Bổn huyện xử trí như thế nào cần ngươi dạy sao?"
Vương Kha lúc này mới im miệng, trên mặt lộ ra vẻ vô cùng bất mãn.
Dương Thu Trì cố gắng trấn áp lửa giận hỏi: "Vương Kha, bổn huyện hỏi ngươi, muội muội của Lý Đại Ngưu có làm điều gì trái quấy hay không?"
"Đương nhiên có! Ả ăn nhiều làm biếng, không kính cha mẹ chồng, thiện đó..." Vương Kha cà lơ phất phơ chìa tay ra vừa đếm vừa kể.
" chó! Tên cẩu tặc ngươi, ngươi cưới muội muội ta mười ba nam, sao không hề nghe ngươi phàn nàn nửa lời về muội muội ta hả? Nam rồi ngươi làm gác cổng của Lý Thừa Minh Lý viên ngoại, tự coi là người có chức có quyền, lừa dối Lý Thừa Minh là chưa có thành thân, cưới đứa cháu gái tàn tật của ông ta..."
Dương Thu Trì vỗ kinh đường mộc ngăn lời của Lý Đại Ngưu, tiếp tục hỏi Vương Kha: "Nếu như muội muội của hắn nhiều tật xấu như vậy, ngươi sao lại không bỏ vợ?"
"Tôi... tôi..." Vương Kha nhất thời cứng họng, sau đó dài cổ ra cứng họng đáp: "Chính là muốn bỏ đó chứ, nhưng mà không có thời gian!"
Thì ra đây là tên thấy lợi quên nghĩa, đã vậy còn mặt dạn mày dày to gan hống hách. Dương Thu Trì quay sang hỏi Kim sư gia: "Kim tiên sinh, Đại Minh luật của chúng ta quy định thế nào đối với án trọng hôn này?"
Kim sư gia hồi đáp: "Đại Minh luật quy định: 'Nếu người có vợ rồi mà còn cưới vợ nữa, đánh trượng, li dị.'"
Hiện này, Trung quốc là quốc gia có xã hội tuân theo tông pháp luân lý "một vợ một chồng", đó là nguyên tắc căn bản của hôn nhân. Cổ nhân Trung Quốc có câu: "Chư hầu vô nhị đích", có nghĩa là cho dù thiên tử của chư hầu cũng không thể đồng thời cưới hai vợ. "Đường luật sơ nghị' có nói: "Nhất phu nhất thế, bất kham chi chế" (một vợ một chồng, là phép chế không thể cãi). Ban Cố thời Đông Hán biến tập "Bạch hổ thông nghĩa" cũng nói: "Thể giả tề dã, dữ phu tề thể, tự thiên tử chí thứ nhân, kỳ nghĩa nhất dã", có nghĩa là vợ sánh với chồng chỉ có thể có một người, từ thiên tử đến dân thường đều như vậy cả.
Do đó, "Hữu thê canh thú" (Có vợ rồi mà cưới thêm nữa) từ cổ đã phạm vào cấm luật, "Đại Minh Luật" cũng quy định rõ là "Hữu thê canh thú" không những phải bị đánh đít, mà còn phải cưỡng chế giải trừ quan hệ hôn nhân. Nhưng pháp luật vẫn là pháp luật, theo sách vỡ ghi lại từ thời cổ đại, hiện thực sinh hoạt trong thời này rất hiếm có trường hợp như vậy, hơn nữa là phải xét coi quan phủ có quản hay là không. Dương Thu Trì bảo: "Được lắm! Kéo Vương Kha ra ngoài, đánh chính chục hèo lớn cho ta!"
Bọn nha dịch dạ rang đáp ứng, bước tới định kéo Vương Kha đi, Vương Kha vội quát: "Ê ê! Ngươi có biết ta là ai hay không? Ngươi dám đánh gậy ta hả? Tên quan nhải nhép ngươi bộ không muốn làm quan nữa hả?"
Dương Thu Trì hơi ngẩn người, nghe lời này sao chẳng có vẻ là tên gác cổng chút nào, mà dường như chức quan này của Dương Thu Trì là do hắn ban thưởng mà ra vậy. Dương Thu Trì tức quá hóa cười, khoát tay hỏi: "Ngươi là ai? Lại bộ thượng thư hả?"
"Ta là gác cổng của nhà Lý Thừa Minh Lý đại viên ngoại! Là cháu rễ ruột của Lý đại viên ngoại! Ngươi không dò la thử mà coi, Lý đại viên ngoại lão nhân gia là ai?" Vương Kha cười lạnh.
Dương Thu Trì tới lúc này đã tức gần điên lên, vỗ Kinh đường mộc thật mạnh, quát: "Điêu dân lớn mật, dám khinh thường bổn quan, đem hắn ra đánh mạnh hèo lớn cho ta! Không! Đánh mạnh hèo! Sau đó đeo gông kỳ chúng ba tháng!"
"Ngươi.... Ngươi..." Vương Kha cả kinh đến sửng người, vị đại lão gia mới tới này ngay cả mặt mũi của Lý Thừa Minh Lý đại viên ngoại cũng không nễ, chẳng lẽ đã ăn gan hùm mật báo rồi hay sao? Trong lúc nhất thời, hắn vừa tức vừa kinh, chẳng nói được tiếng nào.
Bọn nha dịch kéo hắn ra nguyệt đài ngoài đại đường, kéo khố ra bắt nằm lên ghế, rồi "lách bách lách bách" vung hèo đánh mạnh, khiến cho Vương Kha khóc kêu cha gọi mẹ liên hồi. Lý Đại Ngưu cảm thấy khoan khoái vô cùng, dập đầu cảm tạ thanh thiên đại lão gia đã làm chủ.