Sau khi rời khỏi Phượng Tê cung, Hoàng đế tự giam mình trong Ngự thư phòng. Cửa sổ đóng chặt, căn phòng ảm đạm u ám, yên tĩnh đến nỗi ngay cả không khí cũng gần như ngừng lại.
Hắn ngồi ở sau bàn gỗ đàn hương, như đang ngồi thiền mà trầm tư suy nghĩ, không nhúc nhích, chỉ có đôi mắt ẩn sâu nổi lên tia đau khổ khó hiểu.
Ngồi im rất lâu, hắn mới từ trên ghế đứng dậy, ngồi chồm hổm bên cạnh bàn, hai tay nhẹ nhàng lần mò viên gạch dưới bàn.
Chỉ nghe thấy tiếng cơ quan khởi động rất nhỏ, viên gạch lồi lên, hiện ra là một khoảng không vuông vức dưới nền điện, đặt trong đó đích thị là Quốc tỳ Hòa Thị Bích.
Quốc tỳ: là ấn tín của đế vương, được xem là đại diện thân phận của Hoàng đế, dùng trong những việc quan trọng như phong vương tước, truyền ngôi, thay đổi triều đại…
Hòa Thị Bích: là mỹ ngọc nổi tiếng của Trung Quốc, lưu truyền mấy trăm năm, là bảo vật vô giá.
Quốc tỳ khác với Ấn tỳ. Quốc tỳ chỉ có công bố chiếu thư quan trọng mới dùng tới, như phong tước, truyền ngôi. Mà lúc này bên cạnh quốc tỳ trân quý, có một mộc trâm tầm thường lẳng lặng nằm bên.
Ấn tỳ: tức ngọc tỷ, là vật dùng để ấn dấu làm tin, giống như con dấu, được dùng để phê duyệt tấu chương, hạ lệnh, chỉ dụ…
Hắn cầm cây mộc trâm ra, sau đó đóng cửa cơ quan lại.
Cây mộc trâm này, mới đúng là hắn tự tay làm thời niên thiếu.
Nghĩ đến đây, hắn không khỏi cười khổ. Hắn đã không còn là chàng hoàng tử trẻ tuổi hăng hái phấn chấn của khi xưa. Mà “Nàng” cũng đã không còn là thiếu nữ đáng yêu, hồn nhiên xinh đẹp ngày trước.
Mọi thứ đều không thể quay trở lại, ngay cả việc nhớ lại dường như cũng trở nên thừa thãi.
Hắn còn nhớ rõ năm đó, một ngày trước khi đăng cơ mấy tháng, hắn cười nói với nàng: “Mặc dù tương lai hậu cung mỹ nhân thành đàn, nhưng chỉ có Hoàng hậu của ta mới xứng đáng cài lên tóc chiếc trâm này.”
Nàng nghiêng đầu cười thật tươi, trên gương mặt trắng nõn ửng hồng nhuộm vẻ thẹn thùng, xinh đẹp động lòng người.
Những lời hắn đã nói, cuối cùng cũng không thể thực hiện được. Mà nụ cười rạng rỡ trong veo của nàng, về sau cũng không nhìn thấy nữa.
Những hình ảnh của hồi ức tràn về trong suy nghĩ, sắc mặt anh tuấn của Hoàng đế càng thêm thâm trầm, tay phải thoáng dùng sức, chỉ nghe tiếng trâm cài tóc bằng gỗ vang lên một tiếng “rắc” giòn tan.
Bẻ gãy. Thật ra, nên sớm bẻ gãy mới phải.
Cây trâm gãy làm hai, trên thân trâm một đoạn có khắc “Tặng thê tử kết tóc của ta”, một đoạn khác chỉ khắc độc nhất một chữ, “Lăng”.
Cây trâm này và cây trâm tặng cho Lộ Ánh Tịch kia, gần như giống nhau như đúc, chỉ khác ở chỗ không có đặc biệt khắc tên. Hắn tự giễu nhếch môi, ánh mắt đột nhiên u ám. Năm ngón tay nắm chặt lại, bàn tay vận công, phá nát hoàn toàn, vụn gỗ nát bấy dần dần rơi xuống khe hở.
Không thể phủ nhận, hắn tặng cho Lộ Ánh Tịch cây mộc trâm đó, là có âm mưu không tốt. Nhưng cũng là tiến hành nghi thức vĩnh biệt đoạn hồi ức của chính mình.
Đã năm rồi, “Nàng” trước sau cũng không có cách nào tha thứ cho những tổn thương mà hắn đã từng gây ra. Mà hắn, cũng không quên được sự tàn nhẫn dứt khoát của nàng lúc trước.
Một khi đã như vậy, đành để chuyện cũ theo gió bay xa, ai cũng đừng quay đầu lại.
Trong Phượng Tê Cung, Lộ Ánh Tịch đương nhiên khôngthể biết tâm tình phức tạp của Hoàng đế.
Lúc trời nhá nhem tối, nàng đến thăm tiểu công chúa. Lúc nào nàng cũng chọn khi tiểu công chúa ngủ mới đến thăm. Có lẽ bởi vì sự áy náy trong tiềm thức, nàng không dám nhìn vào ánh mắt của tiểu công chúa ngây thơ vô tội.
Đi hướng tẩm cung của tiểu công chúa, vừa khéo đi ngang qua cửa hông của Trai cung. Nàng ra hiệu cho dừng kiệu, vén rèm che lên, chăm chú nhìn kỹ chốc lát.
“Nương nương?” Cung nữ theo hầu Tiểu Nam đến gần rèm kiệu, nhẹ giọng hỏi: “Nương nương có việc gì sao?”
Lộ Ánh Tịch thản nhiên thu lại ánh mắt, mỉm cười nói: “Bản cung gả vào Hoàng Triều lâu như vậy, thế nhưng chưa từng thấy qua vị Diêu Hiền phi kia”.
Tiểu Nam cúi đầu, cung kính trả lời: “Diêu Hiền phi thành tâm lễ Phật, không để ý thế sự, Hoàng thượng liền cho phép Hiền phi nương nương không cần vấn an các cung khác.”
Lộ Ánh Tịch gật đầu, thuận miệng hỏi: “Diêu Hiền phi dời đến Trai cung bao lâu rồi?”
Tiểu Nam bỏ xuống sự ngập ngừng, mới đáp: “Nếu nô tỳnhớ không lầm, có lẽ đã sáu năm.”
Lộ Ánh Tịch trong lòng mơ hồ rung động, lại hỏi: “Trong bốn vị quý phi, nàng ta đúng là người vào cung sớm nhất?”
“Bẩm Nương Nương, Diêu Hiền phi và Lâm Đức phi nhập cung cùng lúc.” Tiểu Nam khiêm tốn trả lời, nhưng dường như không muốn nói tiếp chuyện này, bèn mím chặt môi.
Lộ Ánh Tịch tự mình bước xuống kiệu: “Bản cung muốn đến Trai cung gặp Diêu Hiền phi.”
Sắc mặt Tiểu Nam cứng đờ, khó xử nói: “Nương nương, nghe nói Diêu Hiền phi không thích gặp ai…”
Lộ Ánh Tịch nhướng mày, cười nói: “Bản cung chẳng qua muốn thỉnh giáo nàng ta Phật thiền, cũng không có ý gì khác.” Nói xong, Nàng cũng không để ý đến Tiểu Nam muốn nói lại thôi, đi thẳng hướng cửa hông của Trai cung.
Ngoài cửa có hai cung nữ đứng hầu, thấy nàng đi tới, vội vàng khom người hành lễ, làm xong mọi lễ nghi, lại nói: “Hoàng hậu nương nương, Hiền phi nương nương đang tụng kinh niệm phật, e rằng không tiện gặp khách.”
Lộ Ánh Tịch nuốt phải lời khước từ, nhưng không tức giận, nhẹ cười nói: “Vậy thì Bản cung vào trong chờ Diêu Hiền phi.”
Lặng im chốc lát, trong đó một cung nữ tương đối lớn tuổi làm động tác tay mời, dẫn đường cho nàng: “Mời Hoàng hậu nương nương.”
Cung điện này tĩnh mịch khác thường, không có thái giám, chỉ có cung nữ. Nhưng những cung nữ kia đa phần có hơi lớn tuổi, lại không có một người trẻ tuổi, vả lại vẻ mặt đều nghiêm trang cẩn thận, sắc mặt lạnh nhạt.
Bước vào phòng trà, liền ngửi thấy mùi đàn hương lượn lờ trong không khí, mùi hương không nồng, rất thanh lịch tao nhã, khiến người ta có cảm giác trầm ngâm yên bình.
Cung nữ dâng trà nóng, nhẹ nhàng lui ra ngoài, chỉ còn lại Tiểu Nam và cung nữ lúc nãy đứng bên hầu hạ.
Lộ Ánh Tịch nhìn xung quanh gian phòng trà này, trong lòng cảm thấy vô cùng kinh ngạc. Không ngờ trong hoàng cung lại có một nơi như thế này, như là chỗ ở nhã nhặn của ẩn sĩ. Vách tường bên trái treo bức tranh sơn thủy, nét bút thanh thoát nhẹ nhàng, thanh cao thoát tục, kết cấu đơn giản có thể thấy được một ít cao ngạo. Xem chất liệu giấy của bức họa này, xác nhận là bức tranh cũ. Mà trên vách tường bên phải là một bài thơ, “Xuân có muôn hoa thu có trăng, hạ có gió mát đông có tuyết, nếu không việc canh cánh trong lòng, đó là lúc nhân gian tươi đẹp.” Lấy thơ làm tranh, thiện ý thanh nhàn.
Lộ Ánh Tịch mỉm cười. Bức thơ tranh kia xác định là mới vẽ, có lẽ tâm tình của người hạ bút kia đã có thay đổi.
Nàng nâng chung trà lên khẽ hớp một ngụm, nhìn cung nữ đứng hầu bên cạnh, mở miệng hỏi: “Tranh chữ trên vách, là tác phẩm của Diêu Hiền phi?”
“Bẩm Hoàng hậu, nô tỳ không biết.” Cung nữ kia cúi thấp người, cung kính trả lời.
Lộ Ánh Tịch khẽ cười nhạt, không hề truy đến cùng. Thực ra, dưới góc phải mỗi bức tranh, đều có một chữ ký nho nhỏ. Chỉ là cái này dụng ý dùng “Khế văn” để viết, nên rất ít người có thểnhận ra.
Khế văn: khế nghĩa là khắc, khế văn là chữ được khắc.
Tên thời con gái của Diêu Hiền phi, là chữ “Lăng”?
Lộ Ánh Tịch âm thầm lắc đầu, là sơ sót của nàng, không chú ý tới vị phi tần ở ẩn huyền bí này.
Đợi khoảng thời gian uống một chung trà, ngoài cửa vang lên một giọng nói mềm mại, có chút khàn khàn sâu lắng: “Hoàng hậu nương nương.”
Lộ Ánh Tịch khe khẽ híp mắt, quay mắt nhìn lại, trong lòng hơi chấn động.
Vị này chính là Diêu Hiền phi? Áo tràng xám toàn thân, tóc dài như thác, ngũ quan xinh đẹp. Thế nhưng, trên gương mặt có một vết sẹo kéo dài từ ấn đường tới dưới cằm, nhìn thấy mà giật mình.
Hết chương