Mờ sáng hôm sau, hai bóng đen di động trên đường cái Appia về phía đồng bằng Kampania.
Một trong hai người là cậu bé Nazarius, người kia là Sứ đồ Piotr đang rời khỏi Roma, rời những tín đồ đã quá đỗi mỏi mệt nơi đó. Phương đông, bầu trời đang phảng phất một sắc xanh lá mạ, bên dưới dần dần mỗi lúc một rõ hơn, nhuốm màu hoa kỵ phù lam. Từ trong bóng đêm nhô dần ra những cây cối với lá màu bạc, làn đá cẩm thạch trắng ngần của các toà biệt thự và vòm cung cong của những đường máng dẫn nước chạy vắt ngang qua bình nguyên về phía thành phố. Sắc xanh lục của bầu trời cứ rạng dần ra, mỗi lúc một ngả sang ánh vàng. Rồi rạng đông bắt đầu nhuộm hồng và soi sáng dẫy núi Anban đang phô ra với màu lam tím tuyệt mỹ, dường như gồm toàn những tia sáng gộp lại.
Ánh bình minh phản chiếu trong những giọt sương xao động lung linh trên lá cây. Màn sương mù loãng dần để hiện ra mỗi lúc một rộng hơn phong cảnh vùng đồng bằng với những ngôi nhà, nghĩa địa, các thị trấn và những khu rừng cây nhỏ, trong đó thấp thoáng dáng trắng mờ những hàng cột của các thần miếu.
Đường phố hãy còn vắng lặng, dân quê thường chở rau vào thành phố hẳn còn chưa kịp thắng xe. Tiếng những đôi guốc gỗ mà hai người bộ hành mang ở chân gõ vào những phiến đá đường cái chạy mãi vào dãy núi xa xa, lan ra trong sự tĩnh mịch.
Sau đó mặt trời từ sau những hẻm núi ló ra, đồng thời, một hình ảnh kỳ lạ cũng chợt đập vào mắt Sứ đồ. Ông như trông thấy một vòng tròn màu vàng rực từ trên những ngọn núi tuột xuống và lăn trên đường, thay vì nhô lên mỗi lúc một cao trên bầu trời.
Ông Piotr ngừng bước và cất tiếng hỏi:
- Con có trông thấy vừng sáng đang tiến lại chúng ta kia không?
- Con chẳng thấy gì cả. - Nazarius đáp.
Song một lúc sau ông Piotr lấy tay che mắt và lại lên tiếng hỏi:
- Một bóng người nào đó đang đi lại phía chúng ta trong ánh mặt trời.
Song không hề có tiếng bước chân ai vang tới tai họ. Chung quanh hoàn toàn im lặng. Nazarius chỉ trông thấy phía xa xa cây cối đang rung động dường như bị ai lay, ánh bình minh toả xuống vùng đồng bằng mỗi lúc một rộng hơn.
Cậu bé kinh ngạc nhìn Sứ đồ:
- Rabbi! Người làm sao thế? - cậu bé lo lắng gọi.
Chiếc gậy đi đường từ tay ông Piotr chợt rơi xuống đất, đôi mắt ông nhìn bất động phía trước mặt, miệng ông há ra, nét mặt tràn ngập nỗi kinh ngạc, niềm vui sướng và sự thành kính.
Đột nhiên, ông quỳ sụp xuống, chìa hai tay ra trước mặt và môi ông bật lên tiếng kêu:
- Crixtux! Crixtux!
Và ông mọp trán xuống đất, dường như để hôn bàn chân ai đó.
Im lặng kéo dài giây lâu, rồi trong bầu không khí tĩnh mịch chợt vang lên tiếng ông bị những tiếng nức nở làm gián đoạn:
- Quo Vadis, Domine?…()
Nazarius không nghe thấy câu trả lời, nhưng vọng đến tai ông Piotr là một giọng nói buồn bã và ngọt ngào:
- Khi ngươi rời bỏ dân ta, ta phải đến Roma để cho người ta lại đóng đinh ta lên cây thập tự lần thứ hai.
Sứ đồ nằm lăn ra đất, mặt ngập trong bụi đường, không động đậy cũng không nói một lời. Khi cậu bé Nazarius ngỡ là ông đã ngất đi hay đã qua đời, thì bỗng nhiên ông nhổm dậy, hai tay run rẩy cầm cây gậy đi đường lên, và không nói một lời, ông quay về phía bẩy ngọn đồi của thành phố.
Thấy vậy, người tiểu đồng lặp lại như một tiếng vang:
- Quo Vadis, Domine?…
- Về Roma. - Sứ đồ khẽ đáp.
Rồi ông quay trở lại.
Các ông Paven, Jan, Linux và tất cả các tín đồ đón ông đầy ngạc nhiên và lo lắng, nỗi lo sợ càng tăng thêm, vì chính vào mờ sáng hôm ấy, ngay sau lúc ông vừa ra đi, bọn lính cấm vệ vây chặt nhà bà Miriam và sục tìm Sứ đồ tại đó. Còn ông, để trả lời những câu hỏi của họ, ông chỉ đáp lại với vẻ mặt đầy sung sướng và bình thản:
- Tôi đã được gặp Đức Chúa!
Ngay chiều hôm ấy, ông lại đến nghĩa địa Oxtrianum để rao giảng và rửa tội cho những người muốn được tắm mình trong dòng nước sống.
Rồi từ đấy, hôm nào ông cũng đến đó, theo sau ông là những đám người ngày càng đông đảo hơn. Dường như một giọt nước mắt tử vì đạo lại nẩy sinh ra những tín đồ mới, mỗi tiếng kêu thét trên đấu trường được đáp lại bằng tiếng vang trong hàng nghìn lồng ngực. Hoàng đế tắm trong máu, Roma cùng cả thế giới ngoại đạo nổi cơn điên. Còn đối với những người đã quá chán ngấy sự điên loạn cùng tội ác, những người bị chà đạp, những người phải chịu sống trong cảnh nô lệ và áp bức, tất cả những ai buồn đau, tất thẩy những người bất hạnh, đều tụ tập đến đây để nghe những câu chuyện kỳ lạ về Đức Chúa, Người mà vì tình yêu con người đã chịu đóng đinh lên cây thập tự để chuộc bớt tội lỗi cho họ.
Tìm được một vị Chúa mà họ có thể kính yêu, họ đã tìm thấy điều mà cho tới nay thế giới này không thể mang lại cho bất cứ một ai: hạnh phúc trong tình yêu thương.
Và ông Piotr hiểu ra rằng, Hoàng đế cùng tất cả các đạo quân của y cũng không thể thắng nổi chân lý đầy sức sống kia, cả nước mắt lẫn máu tươi đều không thể nhấn chìm nổi chân lý đó, rằng giờ đây mới là lúc chân lý đó bắt đầu chiến thắng. Ông cũng hiểu được vì sao Đức Chúa đã khiến ông quay trở lại giữa đường: chính cái thành phố của xa hoa, tội ác, truỵ lạc và bạo lực này đã bắt đầu biến thành thành phố của ông, trở thành một thủ đô hai lần thủ đô, từ thủ đô ấy sẽ trào tuôn ra thế giới sự ngự trị của cả thể xác lẫn linh hồn.
Chú thích:
() La Tinh: Thưa Đức Chúa, Người đi đâu?