Một đêm trước khi rời kinh, Hách Liên Phong lại cho vời Phó Trường Đình.
Chỉ có ba năm trôi qua, song khuôn mặt của Hách Liên Phong hằn vẻ khắc khổ hơn trước nhiều. Tuyên chính điện cao rộng thênh thang, ngói ngọc sơn son thiếp vàng, rường cột chạm trổ. Giờ này hết thảy quần thần đã về, cung nữ lẫn thị hầu đều cho lui hết. Chỉ có mình hoàng đế ngồi trên bậc tam cấp dưới long ỷ, lưng tựa vào chân ghế uống hết chén này đến chén khác.
Thấy Phó Trường Đình đến, Hách Liên Phong vẫy vẫy tay, ra hiệu y dừng cách vài bước, sau đó lại chỉ chỉ tay xuống, ý bảo y hãy cùng ngồi xuống đất giống mình.
Vò rượu rỗng lăn lóc dưới đất. Miệng vò lấp loáng ánh nước, rượu còn thừa nhỏ tí tách từng giọt xuống đất, thấm ướt vạt áo vàng rực của thiên tử.
Phó Trường Đình thủ lễ đứng dưới bậc thang, không tiến gần thêm.
Hách Liên Phong cũng không để tâm, nhấc tay rót thêm một chén, “Sáng mai ngươi rời kinh?”
Phó Trường Đình đáp, “Vâng.”
“Nghe nói ngươi đã từ chối khéo ý tốt của thứ sử Doanh châu, không nghỉ ở chỗ ấy?”
“Thần là người xuất gia, không tiện từ chối thẳng.”
Hách Liên Phong trầm ngâm, “Vậy tìm được chỗ ở chưa?”
“Rồi.” Phó Trường Đình gật đầu, “Là quán trọ ngày trước từng ngụ.”
“Quán của ông bà chủ có đứa cháu nhỏ mở phải không?” Nheo mắt lại, Hách Liên Phong thoáng ngơ ngẩn, tựa nhìn thấy hồi ức của kiếp trước.
“Phải.”
“Cũng tốt.” Thiên tử dưới long ỷ cười cười, nhưng lại như than thở.
Gã đưa chén rượu trong tay cho Phó Trường Đình. Phó Trường Đình tiến lên hai bước, kính cẩn nhận lấy. Tay lại vớ lấy vò rượu bên cạnh, Hách Liên Phong ngửa đầu tu ừng ực, rượu trào ra khỏi vò xối ướt vạt áo.
Phó Trường Đình đã quá quen với cảnh này, không nói tiếng nào đứng một bên, nháy mắt dưới đất lại bổ sung thêm một vò rượu rỗng. Thiên tử đương triều uy vũ thánh minh trước mặt người khác giờ đây phả ra mùi rượu nồng nặc, tâm trạng sầu bi.
“Hắn không muốn nói chuyện với trẫm. Vừa rồi hắn sai người báo cho trẫm biết, hắn muốn xuất gia.” Vò rượu mới chưa kịp khui ra đã bị ném xuống đất, rượu bắn ra từ những mảnh vỡ làm ướt đạo bào của Phó Trường Đình, ướt luôn cả mặt của Hách Liên Phong. Hai mắt gã đỏ quạch, gân xanh nổi cồm cộm trên trán, khuôn mặt đỏ gai lộ ra vẻ dữ tợn tàn bạo, “Hắn mơ đi! Không dễ vậy đâu! Trẫm sẽ không bỏ qua cho hắn, tuyệt đối không!”
“Cha hắn giết toàn bộ họ nhà ta! Cha mẹ ta! Anh chị ta! Chỉ vì chú ta không chịu phục vụ cho Lang Gia quân, cha hắn viện cớ chứa chấp trùm thổ phỉ mà phóng hoả đốt làng, toàn bộ người trong tộc đều bị giết, chỉ có mình ta may mắn sống sót! Trẫm sẽ không quên tất cả những chuyện đó! Trẫm tuyệt đối không dễ dàng bỏ qua hắn! Tần Lan Khê hắn mơ đi!”
Hơi rượu xông đỏ mặt gã, Hách Liên Phong thở hổn hển. Cơn giận trong mắt còn chưa tiêu hết, vằn đỏ tơ máu như mạng nhện, “Trẫm sẽ không bỏ qua cho hắn, sẽ không…” Gã liên tục thì thào, lặp đi lặp lại với chính mình.
Nhờ ánh trăng sáng ngà chiếu vào trong điện, Phó Trường Đình phát giác chỉ có mấy ngày thôi mà Hách Liên Phong đã tiều tuỵ thấy rõ. Hốc mắt trũng sâu, trên cằm lún phún sợi râu so le.
Cha của Tần Lan Khê, cũng chính là lão vương gia ngày trước, trên chiến trường khét tiếng máu lạnh vô tình. Từng nghe đồn rằng, ngày trước ông ta dẫn binh tiêu diệt cướp, đồ sát hết cả một thôn, từ ông già cao tuổi tóc bạc phơ đến đứa trẻ còn bọc trong tả lót khóc oa oa cũng không buông tha. Chỉ vì có người trong thôn chứa chấp trùm thổ phỉ.
“Nếu mẹ không giấu ta trong ang nước, trẫm đã không còn sống trên đời từ lâu.” Ôm vò rượu nặng trĩu, Hách Liên Phong dịu giọng xuống, “Trẫm từng nói với ngươi, kẻ tay trắng thực sự sẽ không chỉ muốn duy nhất, cái họ muốn là toàn bộ.”
“Thế nhưng giờ đây, trẫm đã ngồi trên hết thảy, nhưng lại thấy mình… chẳng có gì cả.”
Phó Trường Đình bình thản nghe, không nói tiếng nào. Tựa như năm đó tại thành Khúc Giang, nhìn Tần Lan Khê kéo tay áo của Hách Liên Phong đi vào một gian phòng. Đạo giả không hỏi thế tình cũng chỉ lẳng lặng đứng sau bọn họ như vậy, nhìn thấy vẻ tự nhiên trên mặt Hách Liên Phong, trông thấy trên khuôn mặt tươi cười trong sáng của vương hầu trẻ tuổi lộ vẻ ngượng nghịu.
“Trẫm chỉ có thể nói những chuyện này với ngươi. Trừ ngươi ra, không ai biết hắn còn sống. Trường Đình, trẫm không thể nói với bất kỳ ai.” Hách Liên Phong ngẩng đầu, khuôn mặt say khướt chơi vơi và bất lực, “Ngươi thì sao, Trường Đình? Trẫm rất lấy làm lạ, hình như ngươi chưa từng có tâm sự?”
Không đợi Phó Trường Đình đáp lời, thiên tử say khướt đã cười, “Trẫm quên mất, ngươi không thích nói chuyện. Người vô tư bộc trực sẽ không bị quấy nhiễu bởi chuyện phàm tục. Hắn từng nói ở thành Khúc Giang. Hắn nói rằng, người vô vị nhất trần đời là ngươi, trẫm là người thứ hai. Ha ha… ha ha ha ha…”
Gã cười ngây ngẩn, nỗi cô đơn càng hằn sâu đáy mắt. Nhìn khắp thiên hạ, chỉ có mình gã đàn ông này còn nhắc đến cái tên đã thành cấm kị ấy. Đế vương đang ngụp lặn giữa quá khứ và thực tại không phát hiện ra trên khuôn mặt bình thản của quốc sư xuất hiện vết rạn. Nếu không có lời nói đùa của Hách Liên Phong, thì câu nói hớ suýt đã bật ra khỏi miệng. Có, y đã từng câu nệ nâng chén chuyện trò, bầu bạn với một người dưới ánh trăng. Lúc người đó giễu cợt sự thật thà như khúc gỗ của mình, y đã cố gắng biện giải cho bản thân —— Tôi cũng từng đến Tư Quá Nhai rồi, sư phụ lệnh cho tôi đi xem sư đệ đã biết ăn năn thật chưa.
Thế là người đó ôm bụng cười khoái chí, suýt nữa là té từ ghế đá xuống đất. Khi người đó cười vành mắt luôn cong vênh, đồng tử lấp lánh, đôi môi mim mỉm như con mèo, ba phần sung sướng, bảy phần khoan khoái. Người đó là quỷ, người đó gọi y là đạo sĩ gỗ, người đó… tay vấy vô số nợ máu.
Cuối cùng, Hách Liên Phong nói, “Ngươi đi thăm hắn đi. Thay trẫm… thăm hắn.”
Gã say thật rồi, tay vẫn ôm lấy vò rượu, mắt nhắm lại chừng như sắp ngủ.
Phó Trường Đình nhỏ giọng lĩnh mệnh. Lúc bước ra khỏi cửa điện, lơ đãng quay đầu lại nhìn. Thiên tử trên thềm ngọc vịn vào long ỷ khó khăn đứng dậy, trong ánh nến lay lắt giữa đại điện quạnh hiu, màu vàng chói của long ỷ vừa gai mắt vừa lạnh lẽo. Hách Liên Phong đứng nơi sâu nhất trong điện, đưa lưng về phía cửa. Nam nhân xuất thân là võ tướng có thân hình khôi vĩ, nay lưng khòm xuống, cánh tay run rẩy, thấp thoáng để lộ vẻ cô đơn cùng tuyệt vọng.
Đông nam hậu cung có một cái sân hẻo lánh. Người ta nói chỗ này hồi tiền triều rất quạnh quẽ, phần lớn để cho mấy phi tần không được sủng ái ở, cuối cùng đều chết do bạo bệnh. Người già trong cung bảo rằng chỗ này hay có ma quỷ quấy nhiễu, nên chẳng ai chịu vào ở.
Hiện tại Tần Lan Khê ở đây.
Sách sử ghi rằng Lang Gia Vương Tần Lan Khê chết sau trận chiến Ngọc thành. Cụ thể lúc nào thì không ghi rõ. Chỉ nói trên đường tiến quân bị tên lạc bắn trúng, đêm đến phát độc mà chết. Tần Lan Khê cũng không có con cái nối dòng. Hôm sau, chúng tướng quỳ xuống cầu xin, đại tướng Hách Liên Phong không thể chối từ, tự xưng vương.
Nhìn lại chuyện ngày trước, tháng bảy Ninh Hựu năm thứ tư, Lang Gia Vương Tần Lan Khê đưa quân đến thành dưới Yên Sơn. Nội trong một ngày đã công phá liên tiếp ba thành Yên, Tuấn, Thối. Đem trọn hai mươi thành của Tam châu đông nam quy về một mối. Lại thêm Khâm Thiên Giám bẩm báo trên trời xuất hiện sao chổi phía đông nam. Thiên hạ xôn xao, đồ rằng đúng là Đế tinh hiện thế.
Người bày bố chiến dịch này là Hách Liên Phong.
Chuyện Đế tinh giờ đây thực khó phân biệt cho rõ.
“Hắn bảo ngươi tới.” Lúc bước vào cửa, Tần Lan Khê đang ngồi trên hành lang ngắm mặt trời lặn. Thấy Phó Trường Đình, y liền hỏi ngay, song ngữ điệu vô cùng chắc chắn.
Đã cuối thu, trên tay y vẫn khư khư cầm một chiếc quạt giấy, khép hờ trên ngực. Khuôn mặt tuấn tú nhưng thần sắc ảm đạm, tựa như vị công tử ngồi trên trà quán ngày trước, than thở cho thời cuộc đen tối khiến dân chúng lầm than.
Bệ hạ nhớ những lời của điện hạ vô cùng, Phó Trường Đình không nói ra được. Chỉ đành lặng yên đứng cạnh Tần Lan Khê, cùng y ngắm hoàng hôn buông xuống bờ tường phía tây. Tần Lan Khê ngắm thật chăm chú, chẳng nhìn đi đâu khác, cũng không nói thêm lời nào. Cho đến khi tia nắng cuối ngày cũng sạm đi, mới rũ mắt xuống, nhìn cây phong đỏ trước hành lang đến thất thần.
Sau khi bị Hách Liên Phong giam lỏng, y dần dần không thích nói nữa. Vương gia thân thiện từ ái, thấy ai cũng tươi cười chào đón đã không còn nữa, sau khi chào hỏi mấy câu xong thì chỉ ngồi ngốc lặng, thần sắc trống rỗng tựa như lạc mất linh hồn.
Mặt khác, chân của Tần Lan Khê đã tàn phế. Có người nói là do tên có độc. Hai chân y không còn cảm giác, cũng không thể đứng lên đi lại. Đối với chuyện này, Tần Lan Khê cũng chỉ bình thản vươn tay vuốt dọc theo đầu gối xuống, nói, “Thảo nào không thấy đau.”
Rồi thì thôi, không oán không hận, bàng quan tuyệt đối. Không quan tâm bất kể chuyện gì. Thiên hạ thuộc về ai, cựu thần phản bội, Hách Liên Phong đăng cơ. Rồi chuyện danh sách các cô gái khuê các lục tục được đưa vào cung, công chúa ngoại tộc, tuyệt thế giai nhân… vân vân Tần Lan Khê cũng không màng tới, có lẽ căn bản vốn cũng chẳng để vào tai.
“Đợi ngươi quay về, qua đây giảng kinh cho ta nghe nhé.” Nghe Phó Trường Đình nói sắp sửa khởi hành quay về thành Khúc Giang, Tần Lan Khê cũng chỉ đờ đẫn. Hồi lâu sau mới nghe y chậm rãi bảo, “Gần đây ta tự xem xét bản thân, cảm thấy rốt cuộc vẫn cần tìm một người thầy tốt giảng dạy cho. Phó chưởng môn có nguyện hạ mình chỉ giáo không?”
Phó Trường Đình trịnh trọng gật đầu ưng thuận. Khuôn mặt người kia mới có sức sống, nói nhiều hơn, “Hơn mười năm chiến loạn cũng là bởi chấp niệm của con cháu Tần thị ta, nhưng lại khiến Cửu châu chia rẽ, muôn dân chịu khổ. Ta muốn cầu phúc cho bọn họ, cho dù là tướng sĩ hy sinh trên sa trường hay là bách tính vô tội chết oan. Và, cả người tộc hắn.”
Lúc nói những lời này, vẻ mặt Tần Lan Khê vẫn bình tĩnh như trước, âm điệu cũng không có gì bất thường.
Phó Trường Đình khom lưng thi lễ từ tận đáy lòng, “Sự nhân từ của điện hạ là phúc của thiên hạ.”
Tần Lan Khê gật đầu cười khẽ. Mắt nhìn không chớp cây phong dần trút bỏ lớp lá xanh, khoác lên lớp áo đỏ. Màu đỏ khé hắt vào đồng tử đen láy trầm tĩnh của y, trong tích tắc, một tia giận dữ vụt qua, nhưng cũng nhanh chóng biến mất.
“Ta không hận hắn đoạt vị. Ngôi vua xưa nay ai cũng có thể ngồi.” Trước khi đi, Phó Trường Đình nghe y nói thế. Ngồi trên chiếc ghế đặc chế, Tần Lan Khê siết lấy tấm chăn mỏng phủ trên đầu gối, “Ta chỉ hận hắn lừa dối ta.” Chiếc quạt khép hờ rơi ‘cạch’ xuống đất.
Lối mòn quanh co rải đá phủ đầy rêu xanh. Không hiểu vì sao lại thấy lảo đảo, Phó Trường Đình vội vàng đề khí bình ổn cơ thể, một tay vịn lấy lan can cạnh bên mới tránh không ngã sấp xuống. Vì lẽ gì mà đạo giả bỗng thấy thật hụt hẫng, tựa như vừa rơi xuống vực sâu.
Ngày ấy rời khỏi thành Khúc Giang là vào cuối hạ đầu thu. Ngay sau hôm hoả hoạn ở thành bắc, Phó Trường Đình lập tức thúc ngựa không ngừng về Ngọc thành đang giao chiến kịch liệt. Hết thảy những chuyện còn lại đều giao cho các đạo nhân Chung Nam đến sau đó. Các đồng môn lấy làm lạ, không hiểu vì sao một người luôn làm việc rốt ráo như y lại có thái độ khác thường đó. Người trong thiên hạ lại tán thưởng rằng y vì lo cho chiến sự mà không nề hà khổ cực. Chỉ có Phó Trường Đình mới hiểu rõ lòng mình, lo lắng gì đó chỉ là cái cớ. Sự thật là y muốn bỏ chạy. Sau khi trở thành người có công đầu trong việc diệt trừ huyết trận, y gần như mang tâm trạng tháo chạy mà rời khỏi Khúc Giang.
Ngày ấy, cây hải đường trong thành bỗng nhiên rực rỡ dị thường. Cánh hoa hồng nhạt tựa tuyết rơi lả tả, tuôn tuôn rơi rơi, phảng phất như vô cùng vô tận. Phó Trường Đình nghĩ, đời này kiếp này, y vĩnh viễn cũng không quay lại thành Khúc Giang.
Mà nay, lần thứ hai vào thành thì đã chuyển sang mùa đông lạnh giá. Thành Khúc Giang ít có tuyết rơi, chỉ có tiếng gió thổi ràn rạt. Cây hải đường trong quán trọ chẳng có cánh hoa rơi rụng nào, lá xanh bị gió càn quét chỉ còn mỗi thân cây trụi lủi, chạc cây mảnh mai đâm xiên đâm xẹo cũng bị gãy lặc lìa.
Ông chủ quán thấy Phó Trường Đình đứng đờ ra trong sân, bèn lải nhải không ngừng cho y biết, cây hải đường năm ấy vẫn nở rộ cho đến khi trận tuyết lớn đầu đông đổ mới ngừng. Từ sau đó cho đến tận hôm nay, ba năm tròn không một lần nở hoa. Nhìn khắp toàn thành thì cây nào cũng vậy. Khi xuân về, lá mới đâm chồi không nhiều, cây cũng tự mình héo rũ, hết cây này đến cây khác lần lượt chết khô.
“Hồi trước nở tưng bừng làm tổn thương nguyên khí.” Ông chủ thở dài bảo.
Phó Trường Đình tán thành, “Quả đúng thế.”
Huyết trận dùng đất vàng chôn sâu tim người, lại dùng nước hồ Lâm phong toả oan hồn. Oán khí sinh trưởng bên dưới, không có chỗ tiêu tán, ắt sẽ thông qua hệ đất và hệ nước mà ảnh hưởng ngầm đến khí hậu bản địa, dẫn đến việc cây cối bị biến dị.
Đó cũng là lúc y nhận ra chỗ khác thường dưới tàng cây ngân hạnh.
Phàm làm chuyện ác, tất để lại chứng cớ.
Nửa tháng sau, đệ tử Chung Nam tìm ra Thiên Cơ Tử ở một chỗ đất hoang ngoài thành bắc.
Mấy ngày liền trốn chui trốn nhủi cộng quần nhau với những người truy bắt đã hao tổn nhiều tinh lực của hắn. Quỷ thiên sư danh chấn thiên hạ ngày trước giờ đây phủ phục dưới đất, không có chén máu người áp chế mỗi ngày, lớp khăn đen bị xé toang để lộ gương mặt méo mó vặn vẹo, bảy phần giống quỷ, ba phần giống người, nhìn rất đáng sợ. Miệng hắn phát ra tiếng ‘gừ gừ’, tròng mắt trợn tròn đỏ au như máu.
“Rốt cuộc là người hay quỷ vậy?” Có đệ tử nhát gan sợ quá mà khẽ la lên.
Phó Trường Đình cầm trường kiếm trong tay, chậm rãi đến trước mặt hắn, “Nghiệt tặc Kim Cơ Tử, đánh cắp bảo vật bản môn, lén luyện cấm thuật, khi sư diệt tổ, phản bội sư môn, theo luật Chung Nam, tội không thể tha. Về sau đổi tên thành Thiên Cơ Tử, truỵ lạc trong nhân thế, mê hoặc vương hầu, sai khiến yêu nghiệt, xúi giục ma quỷ, phạm tội sát sinh. Bày bố huyết trận, nghịch lẽ trời, khiến vạn dân lầm than, thiên lý bất dung. Ngươi biết tội chưa?”
Y đứng sừng sững, quát lớn. Chính khí Bắc Đẩu cuồn cuộn quanh thân, bảo kiếm trong tay phát sáng loá mắt, phi phàm tựa thần tiên.
“Chỉ là một thằng oắt con sinh sau đẻ muộn mà dám giáo huấn ta, nực cười.” Âm thanh khàn khàn thoát ra khỏi miệng Thiên Cơ Tử. Hắn ho khù khụ, bọt máu trào ra khoé miệng. Thiên Cơ Tử coi khinh ngửa đầu cười khằng khặc.
“Láo xược!” Đạo tử Chung Nam đứng sau đồng loạt rút kiếm ra khỏi vỏ, lớn tiếng, “Không được vô lễ với chưởng môn!”
Thiên Cơ Tử càng cười tợn, ôm ngực ho sặc sụa, chả mấy chốc cằm lứa tứa máu, “Chưởng môn? Nó là chưởng môn? Vậy Kim Vân Tử là cái gì? Kim Vân Tử đâu? Đem hắn đến đây!”
Theo tiếng cười khàn khàn, máu đen trào ra từ hốc mắt hắn, lỗ mũi và cả lỗ tai cũng phun ra, máu màu đen thùi như mấy con giun trườn xuống khuôn mặt tím đen. Trong tiếng ho sặc sụa, tấm vải đen quấn quanh thân hình khô đét liên tục rung động, phập phù như sắp đổ.
Gọi là cấm thuật, không chỉ vì uy lực của nó quá lớn, quá nguy hiểm cho người ngoài. Song song đó, việc luyện tập cấm thuật cũng rất mạo hiểm, tạo thành thương tổn nội bộ cho người luyện. Nhẹ thì kinh mạch tổn hại, tay chân tàn phế. Nặng thì tẩu hoả nhập ma, đánh mất lý trí.
Bộ dạng người không người, quỷ không ra quỷ hiện giờ của hắn là kết quả tu luyện quá độ, bên trong bị thương nghiêm trọng. Huyết trận đã bị phá, oán khí liền phản phệ. Thiên Cơ Tử giờ đây chẳng còn chút oai danh gì của ngày xưa. Công lực mất hết, chỉ còn thoi thóp, cố gắng kéo dài hơi tàn một cách thảm hại mà thôi.
Phó Trường Đình không khỏi thất vọng. Sư huynh mà người đó nhớ mãi không quên rốt cuộc lại sa vào tình cảnh như ngày hôm nay. Nhấc tay tra kiếm vào vỏ, Phó Trường Đình ra lệnh người xung quanh, “Lấy dây thừng trói hắn lại, mang về Chung Nam hỏi tội.”
Mọi người lĩnh mệnh, cầm kiếm tiến lên.
Thiên Cơ Tử hoàn toàn không động đậy, chỉ nằm sấp dưới đừng không ngừng gào thét, “Kim Vân Tử đâu? Đem hắn đến đây! Ta muốn đấu với hắn! Ta muốn so kiếm với hắn! Ta không tin sẽ bại dưới tay hắn!”
Hắn hiện tại, đừng nói là nâng kiếm luận võ, ngay cả khí lực để bò dậy cũng không có.
Một đệ tử còn trẻ người khí nóng nhịn không được quát, “Hừ! Sư tổ là người thế nào chứ, sao có thể động thủ với tên yêu quái xấu xí như ngươi?”
Thiên Cơ Tử không gào nữa, chỉ thở hổn hển, hai tay quạc sâu xuống đất, cào từng đường sâu hoắm.
Phó Trường Đình lắc đầu, xoay người không muốn nhìn nữa. Vừa dợm bước thì lại nghe Thiên Cơ Tử thì thào, “Ly Cơ đâu?”
“Chết rồi.” Phó Trường Đình đáp.
Phía sau không phản ứng hồi lâu, sống lưng Phó Trường Đình thẳng đuội, nín thở chờ đợi.
Thiên Cơ Tử hỏi, “Còn… tiểu sư đệ của ta?”
Nhắm mắt lại, Phó Trường Đình mím chặt môi, “Cũng chết rồi.”
Chỉ có giết người thủ trận mới tiêu diệt được huyết trận. Ly Cơ thủ hồ trận, Hàn Thiền thủ thụ trận. Phải giết đồng thời cả hai mới không làm oán khí tràn ra bốn phương, sát hại bách tính.
Thiên Cơ Tử lại im lặng, Phó Trường Đình có thể nghe được cả tiếng dây thừng sột soạt trói quanh người hắn.
“Đây là lần thứ hai, nó vì ta mà chết.” Âm thanh trong trẻo của một người còn trẻ cất lên, mang theo nỗi đau đớn và sự ân hận khôn nguôi.
“Y không phải vì ngươi!” Phó Trường Đình bỗng quay phắt lại, khuôn mặt xưa nay bình tĩnh không gợn sóng bỗng nhiên bị sự phẫn nộ xé toang từng mảnh, ánh mắt đằng đằng sát khí, giận dữ ghê người, “Nối giáo cho giặc, tội đáng chết!”
Chúng đạo sĩ đứng bên cạnh bị sự giận dữ hiển lộ của y mà hoảng hốt, ngừng tay đưa mắt nhìn nhau.
Giọng của Thiên Cơ Tử lại trở nên cằn cỗi, “Ngươi giết nó?”
Hai bàn tay dưới ống tay áo siết lại thành quyền, Phó Trường Đình nghiến hàm răng, không muốn đáp.
“Há há há há…” Oằn ra cười, lại bị hai đệ tử Chung Nam khống chế, hắn ráng vươn cái cổ dài ngoẵng ra, máu khạc đọng lại thành giọt quanh mép cằm, khuôn mặt như quỷ lại nhoài về phía Phó Trường Đình, “Chết là tốt! Há há há há… chết là tốt! Bằng không ta sẽ cho nó sống không bằng chết!”
Bỗng dưng lại biến về ngày xưa, đôi mắt đỏ quạch tràn đầy thống khổ, “Là ta hại nó… tiểu sư đệ… vốn dĩ mắt trận ban đầu là…”
“Là gì?” Lòng Phó Trường Đình chấn động, trực giác mách bảo có ẩn tình khác, vội vàng tiến lại gần, trầm giọng bức hỏi.
“Tiểu sư đệ…” Hắn không nói, nước mắt trào ra, đau đớn không thôi.
“Nói!” Tiến thêm bước nữa, Phó Trường Đình đứng trước mặt hắn, không hề để ý vết bẩn mà xách áo hắn lên, “Y đã làm gì?”
Tiếng cười già nua giễu cợt sự thất thố của y, Thiên Cơ Tử nhếch môi, mồm đầy máu đen bắn lên mặt Phó Trường Đình, “Ngươi phát hiện ra sự khác thường dưới đất, lẽ nào lại không phát hiện ra trên lư hương nó đưa cho ngươi có mùi đất?”
Ngón tay đột nhiên run lên, Phó Trường Đình cảm thấy kinh hoàng ập vào tim, sự giá lạnh của đêm rời khỏi Khúc Giang lại một lần nữa lan tràn trong ngực, “Tại sao nói thế?”
“Vốn dĩ lư hương mới là tế vật của thụ trận. Nó lại lén đổi thành xương ngón tay của mình.” Ho nhẹ hai tiếng, khuôn mặt dữ tợn méo mó bỗng co rúm, đôi mắt máu loé lên hung ác, “Nó nói với ta, trận còn, người còn. Trận huỷ, người chết. Nó lấy mệnh ra thề sẽ trung thành đến chết. Hừ, nói láo! Nó rõ ràng là muốn phá huỷ đại sự của ta từ lâu!”
Âm thanh trong trẻo đầy ngập đau thương và hối hận, “Nó thế thân ta làm người thủ trận. Nó vì ta mà chết…”
“Nói bậy!” Âm thanh cằn cỗi lập tức cướp lời, “Nó rõ ràng muốn làm suy yếu huyết trận! Nếu người thủ trận là ta thì thằng oắt con kia sao có thể dễ dàng phá trận? Nói cho Kim Vân Tử biết, nói với hắn! Ta không bại trận! Ta bị tiểu nhân hãm hại! Nếu do ta thủ trận thì Lỗ Tĩnh Vương nhất định có thể lên ngôi báu! Thiên Cơ Tử ta có thể đi nghịch thiên rồi!”
Tiếng nói trong trẻo và gia nua thay nhau tranh đoạt lấy cơ thể bất lực gầy yếu bên dưới manh áo đen. Số đã sắp tận, bản tính từng lạc mất phương hướng lại dần dần thức tỉnh, luân phiên tranh đấu với nội tâm đen tối.
Phó Trường Đình buông lỏng tay, chết lặng nghe chúng cãi cọ nhau. Hàn Thiền lén tráo xương ngón tay của mình với lư hương của Thiên Cơ Tử, mục đích là trở thành người thủ thụ trận, mục đích y làm vậy là…
Đệ tử Chung Nam đứng xung quanh nghe không hiểu gì ráo, càng kinh ngạc hơn khi thấy thần sắc suy sụp của chưởng môn. Phó Trường Đình phất tay, lệnh cho bọn họ tạm thời rời khỏi sân. Hiện giờ, y đã phần nào thấu hiểu được sự mệt mỏi của Hách Liên Phong.
Mất đi chống đỡ, Thiên Cơ Tử lại mềm nhũn ngã xuống đất.
“Người thủ trận trước đó là ai?” Phó Trường Đình đờ đẫn hỏi.
“Ta.”
“Không phải… y sao?”
“Không.”
“Tại sao?”
Thiên Cơ Tử cười khằng khặc, vặc ngược lại, “Tại sao ngươi không chú ý lư hương?”
“Bởi vì…” Bởi vì ngay từ đầu, y đã nhận định người kia có tội.
Quỷ là giống ác ôn. Chưa từng nghe trên đời có thiện quỷ.
Hơi lạnh toả từ xương cốt theo đầu ngón tay tràn khắp châu thân, cổ họng uất nghẹn khó chịu thế mà không khạc ra được một chữ. Phó Trường Đình theo bản năng muốn vươn tay vịn, y còn nhớ rõ, bên kia từng có một cây ngân hạnh cao to hùng vĩ, tầng lá rậm rạp có thể chắn cả ánh trăng. Bên dưới tàng cây có một cái bàn đá, xung quanh bàn là bốn cái đôn. Có người từng mời y đối ẩm trong đêm sáng trăng, nghe tiếng lá lạo xạo, ngắm dải trăng bạc nằm vắt giữa những nhành mảnh mai.
Nơi này từng là cái sân đó, tiệm tạp hoá của Hàn Thiền, sân sau của Hàn Thiền, bàn đá của Hàn Thiền, Hàn Thiền…
Giờ đây, cây ngân hạnh đã bị nhổ tận gốc rễ, tiệm tạp hoá và sân tường đều bị thiêu trụi, bàn đá cũng không còn, chỉ còn một mảnh đất cằn cỗi.
Đứng trong ánh trăng hắt hiu, Phó Trường Đình tự hỏi cõi lòng trơ trọi của mình, tự hỏi trái tim trống rỗng của mình —— có lẽ nào, y đã sai rồi?
Dường như có người réo gọi tên y bên tai, lớn tiếng đặt câu hỏi, “Phó Trường Đình, người chém yêu trừ tà diệt hết chúng quỷ trong thiên hạ, thật sự chưa từng giết lầm sao?”
Thoảng như y lại nhìn thấy người kia, thân thể phiêu động, khoé môi rỉ máu, chỉ có đôi mắt bị lửa giận hun chiếu sáng ngời, không hề sợ hãi trừng mắt với y.
Khi đó y đã trả lời rằng, càn khôn sáng tỏ, thiên lý ngời ngời. Lấy chính khắc tà, sai ở nơi đâu?