Tôi lập tức giật nảy cả người lên như bị điện giật. Thật kỳ quái, tôi lăn qua lăn lại trên giường nãy giờ, nếu đứa nhỏ này là một đứa bé… bình thường thì nó phải đánh động tôi chứ, sao chỉ biết im lìm ngồi một chỗ như vậy? Lẽ nào… nó cũng là một phần của tứ khổ? Vậy, nó có thực là con người hay không? Đau khổ nhất là, Bạch Dực lại nhè đúng lúc này mà vắng mặt, bên cạnh tôi hoàn toàn không có ai hỗ trợ… Nhưng mà nghĩ lại thì cho dù lúc này anh ta có mặt ở đây chắc cũng chẳng giúp được gì, lẽ nào muốn hai chúng tôi đem đứa bé này đến công viên chơi đu quay ngựa gỗ?
Tôi chỉ có thể nhìn thấy đứa trẻ nọ từ sau lưng, tấm lưng vừa gầy vừa nhỏ, lúc ngồi còn hơi còng xuống. Lúc này đột nhiên tôi cảm thấy bóng lưng này sao có phần quen thuộc đến thế, dường như đã từng gặp qua ở đâu… tự nhiên lại nghĩ chẳng phải rất giống Nhạc Lan sao… Không! Không thể nào! Cô bé đã qua đời rồi kia mà, sao có thể quay lại ngồi trên đầu giường nhà tôi được!
Tôi kinh hoảng ngồi bật dậy, không dám tiến tới xác nhận suy đoán của mình… Nhiệt độ trong phòng đột nhiên trong khoảnh khắc chợt hạ xuống đột ngột, tôi thậm chí có thể cảm thấy gió ngoài cửa sổ cũng ngừng bặt, trên nóc nhà, lại bắt đầu vang lên những tiếng lạch cạch khe khẽ. Bóng người nhìn rất giống Nhạc Lan kia bỗng nhiên ngẩng đầu nhìn lên trần, chợt vang lên những tiếng gào thảm thiết như tiếng vượn hú, sau đó, những tiếng lạch cạch cũng biến mất. Tôi thấy nó không làm hành động nào khác, liền nhỏ giọng run rẩy hỏi: “Là… là Nhạc Lan đấy à?”
Nhưng bóng lưng kia không hề động đậy, chẳng lẽ không phải cô bé? Tôi vô thức liếm liếm môi định hỏi lại, chợt từ bóng lưng nọ truyền tới giọng nói quen thuộc: “Vâng…”
Quả nhiên là cô bé… Nhưng không thể nào! Cô bé thực sự đã chết rồi mà, lúc hỏa táng cho cô bé, tôi cũng có mặt ở đó mà! Chết tiệt, chẳng lẽ là chết rồi còn hiện hồn về thăm tôi? Hay là… hay là muốn dẫn tôi theo? Trong lúc tôi còn đang hoảng loạn suy nghĩ lung tung, thì cô bé vẫn cứ im lìm ngồi yên đó, không hề có ý định quay đầu lại. Tôi suy tính mãi, cảm thấy cảm tình của mình với cô bé không tệ, nếu có oán có hận tuyệt đối cũng không đến tôi phải gánh, vậy bây giờ quay lại tìm tôi là vì cái gì? Vì thế, tôi cố tỏ ra bình tĩnh hỏi lại: “Em… em không phải đã chết rồi sao…?”
Thân thể Nhạc Lan không hề động đậy một ly, nhưng giọng nói vẫn cứ đều đều phát ra: “Vâng…”
Sao chỉ có một từ “vâng” duy nhất thế này? Tôi muốn hỏi kỹ hơn, nhưng lại sợ hỏi phải những câu không nên, nên đành im lặng nhìn bóng lưng của cô bé.
Qua một hồi, bất chợt Nhạc Lan lên tiếng: “Thưa thầy… thầy có khả năng sắp gặp nguy hiểm, hơn nữa có khả năng sẽ mất mạng… Lần này em đến là để nói cho thầy biết những điều cuối cùng em đã nhìn thấy…”
Tôi nhớ lại lúc đó khi cô bé nói với chúng tôi là nhìn thấy cái chết của chính mình, tiếp theo đó là tôi và Bạch Dực dùng hết mọi cách muốn cứu cô bé mà không thành công, cô bé vẫn là một nữ thần báo tử đáng sợ. Vì thế lần này chỉ một lời của cô bé, đã khiến cho tôi như nghe phải án tử hình, cả người lạnh toát như nhiễm sương, một nỗi sợ hãi chậm rãi từ đáy lòng sinh sôi, lặng lẽ lan tràn. Bất quá, hay ý của cô bé là cái chết của nó còn có uẩn khúc gì khác? Nó đến đây, là để nói cho tôi biết oan ức của mình?
Nghĩ thế, tôi vội vàng hỏi: “Cái gì? Em còn nhìn thấy cái gì nữa? Có gì em cứ nói đi, có thể giúp được em thầy nhất định sẽ cố gắng hết sức…”
Nhạc Lan đáp: “Là về cái chết của thầy.”
Mặc dù đã có chuẩn bị tâm lý, nhưng lòng tôi vẫn run bắn lên. Mặc dù cũng đã đoán đến mức này, vì dẫu sao thì toàn bộ những chuyện quái dị gần đây đều xoay xung quanh trận pháp đáng sợ kia, lần này Nhạc Lan tới đây, có lẽ, cũng là để mang tôi theo? Tôi cúi đầu, lần đầu tiên trong đời cảm nhận trực diện nỗi kinh hoàng khi đối mặt với cái chết dần dần tới gần mà không sao ngăn cản nổi, giống như một kẻ phạm tội vừa lãnh án tử hình. Một thứ cảm giác gần như là căm hận số phận bất công chợt trào lên đắng nghét trong lòng, khiến tôi không khỏi tự giễu mà nghĩ thầm: A, quả nhiên cái số của mày chỉ đưa đến đường này thôi mà, không biết có nên đem chuyện đời viết thành kịch bản bán ấy nhà làm phim hay không?!
Nghĩ đến đây, tôi vuốt mặt cười nhẹ: “Nếu em bảo thầy sắp chết, vậy lần này em đến là để làm gì? Định đưa thầy đi cùng sao?”
“Thầy là người cuối cùng em nhìn thấy, cũng là người duy nhất em không thể nói rõ hoàn cảnh thời gian khi chết, nên em đến nói cho thầy biết cảnh tượng mà em nhìn thấy.”
Tôi dùng bàn tay đè chặt lên huyệt Thái Dương đang âm ỉ đau đớn mà hỏi: “Vậy thầy chết như thế nào?”
Giọng nói lạnh như băng của cô bé lại cất lên, kể lại những gì cô bé đã nhìn thấy trước khi chết: “Em thấy một đám khói đen khổng lồ, giữa đám khói có rất nhiều rất nhiều những gương mặt vàng như sáp nến, bọn họ mang theo đủ loại biểu cảm trên gương mặt, cả đám khói đen đều vây chặt xung quanh thầy, những gương mặt đó cũng vây lấy nhìn chằm chằm thầy… Cuối cùng thầy bị một cây trường mâu rất lớn đâm xuyên qua cơ thể, rồi dần dần bị khói đen biến hóa thành một trong số những gương mặt kia, mặt của thầy… cũng xuất hiện trong số những gương mặt thống khổ chìm trong đám khói đen đặc…”
Tôi chỉ biết ngơ ngác nghe cho hết những lời của Nhạc Lan, nhưng lần này giọng của cô bé không biến khàn như những lần tiên đoán khi còn sống, mà vẫn giữ chất thanh tao bình thường, chỉ có điều trong giọng nói vẫn lạnh lùng thờ ơ như thế, không có lấy một chút cảm tình.
Nói xong, Nhạc Lan lại im lìm ngồi yên lại bên đầu giường, không cử động thêm nữa, tôi chợt nghĩ, vì sao cô bé không chịu quay lại nhìn tôi nhỉ? Nói chuyện phải đối diện mà nói, nó ngồi xoay lưng lại như thế làm tôi bất chợt nảy sinh lòng nghi ngờ, không biết đứa bé này có thực là Nhạc Lan hay không? Hay phải nói đúng hơn là, kỳ thực, tận đáy lòng tôi vẫn là không muốn tin những gì nó nói. Vì thế, tôi cảnh giác hỏi lại: “Nhạc Lan, sao em cứ quay lưng về phía thầy như thế?”
Nhạc Lan lặng im hồi lâu, mãi sau mới nói: “Vì em đã chết rồi… Thầy sẽ sợ…”
Tôi không đáp lại, vì lúc này tôi càng hoài nghi hơn, người này tuy có giọng nói rất giống Nhạc Lan, nhưng dù sao tôi cũng chỉ mới quen biết cô bé có vài tháng, huống chi bóng người này quả thực không giống như một “con người” bình thường, có thể nào là một kẻ khác giả dạng Nhạc Lan tới truyền lệnh chết cho tôi, hay là, hay là chính nó là một phần của “thế cục”? Tôi vừa cố gắng bắt chuyện với nó, vừa cẩn thận nhích từ từ tới gần, nếu như không thể xác nhận thân phận của đứa bé này, vậy không cần phải tin nửa chữ nó nói rồi!
Tôi hỏi: “Vì sao lại phải sợ? Thầy và em cảm tình không tệ, em cũng đâu có oán hận thầy phải không? Còn nữa, em nói thầy sẽ chết ở chỗ nào?”
“Thầy sẽ chết, nhưng chết ở một nơi rất kỳ quái, nơi đó không nằm trong thành phố này. Nơi đó tứ phía đều là khói đen, giống như một ngôi mộ…”
Nghe đến đây, bất thần nhớ tới giấc mộng đáng sợ đã từng gặp, làm tôi cực kỳ kinh ngạc. Nếu chính là nơi đó, vậy đứa bé này nếu không phải Nhạc Lan thì nhất định cũng biết rất nhiều bí mật, nghĩ đến đây, tôi kích động nắm chặt vai nó mà xoay người nó về phía mình. Một gương mặt vô cùng quỷ dị đập thẳng vào mắt tôi. Tôi lập tức há hốc miệng hét to một tiếng, thiếu chút nữa trật cả khớp hàm. Đó là một gương mặt vàng vọt nhăn nheo như giấy cũ, mà trên đó kinh khủng nhất chính là đôi mắt, bởi vì nó hoàn toàn không có đôi tròng mắt, chỉ có hai hốc đen tối sẫm xung quanh trải đầy tơ máu, và một đôi môi nhăn nheo như vỏ quýt khô không có chút sắc máu.
Thế nhưng, cũng chính là gương mặt của Nhạc Lan.
Cho dù đã biến thành tình trạng vô cùng khủng khiếp, nhưng đường nét gương mặt vẫn không hề thay đổi, chỉ là đổi thành một sắc vàng ệch như sáp mà thôi. Tôi lắp bắp “Em… em…” cả nửa buổi vẫn không sao thốt lên được một câu hoàn chỉnh. Nhạc Lan lại nhẹ nhàng xoay lưng lại: “Em không còn đôi mắt nữa, cho nên cũng không còn bị nguyền rủa nữa đâu ạ. Vì vậy thầy không cần phải thương cảm cho em, em đã được giải thoát. Nếu em mà còn sống, thì đã thực sự biến thành quỷ mất rồi…”
Nhạc Lan vẫn cứ quan tâm đến người khác như thế, cho dù đã qua đời vẫn không làm thay đổi bản tính lương thiện của cô bé. Tôi lặng người ngồi thẫn thờ sau lưng Nhạc Lan, lúc này đã biết chắc chính là cô bé, cũng hiểu rõ bản thân mình quả thực đã gặp phải kiếp nạn chết người. Không biết là vì sợ đến điếng hồn, hay là vì biết chắc không có ai cứu nổi mình nên đành phó mặc buông xuôi, mà tôi chỉ cảm thấy cả hơi thở của mình cũng dường như yếu hẳn đi, cảm giác vô tư lự ban ngày cũng bị quét sạch chẳng còn lại chút tự tin nào, thay vào đó, là một sự kinh hoàng ngấm ngầm mà độc địa chưa từng cảm thụ bao giờ. Cả cơ thể chợt không rét mà run, máu trong huyết quản cũng như đông cứng hoàn toàn thành đá, lạnh đến mức tôi chỉ còn biết nắm thật chặt hai tay, dùng hết toàn bộ sức mạnh tinh thần mà ngăn cản bản thân đừng kích động hay phát điên.
Nhạc Lan vẫn cúi thấp đầu, đều đều nói: “Thế nhưng em còn biết thêm một việc nữa, là cảnh tượng em nhìn thấy khi lần đầu tiên gặp thầy. Lúc trước em không hiểu nó có nghĩa là gì, nhưng lúc này em nghĩ, có thể nó liên quan tới một cách có thể cứu mạng thầy cũng không chừng. Em đã đem nội dung cụ thể của nó viết thành một bức chúc thư gửi lại cho thầy, sau đó vì ngây thơ tin rằng mình đã thoát được cái chết, nên em lại đem bức thư đó đặt dưới tấm bia mộ của cha em rồi. Lúc đó em chỉ nghĩ, nếu thực sự thoát nạn, em nhất định đưa thầy tới thăm mộ cha em, sau đó, chọn một thời điểm thích hợp đưa cho thầy xem. Vì em cứ sợ… sợ nếu em nói ra, thầy cũng sẽ giống như những người khác ghét bỏ em…”
Tôi muốn đưa tay xoa đầu cô bé, nhưng không biết vì sao chợt cảm thấy do dự, cuối cùng, lại bỏ tay xuống. Chỉ nhẹ nhàng nói: “Không đâu, em vĩnh viễn là cô học trò ngoan của thầy, là người bạn tốt của thầy, có thể quen biết em, thầy cảm thấy rất vui.”
Cô bé sẽ gật đầu, rồi chậm rãi đứng lên. Đến lúc này tôi mới nhận ra là Nhạc Lan mặc bộ quần áo ngày khâm liệm đã mặc, trong tay còn nắm chặt một khối đá to. Viên đá Thái Sơn này là do thân thích của cô bé bỏ vào mộ, vì nghĩ cô bé khi còn sống không được bình thường, nói là để chôn cùng, nhưng thực ra là do sợ cô bé hóa thành quỷ quấy phá. Nhạc Lan chết đi rồi cũng vẫn không được người đời chấp nhận, viên đá nắm chặt trong tay cô bé mang theo một thứ cảm giác bất đắc dĩ vô cùng thê lương. Nhạc Lan khẽ nói đã đến giờ, rồi tiến ra mở cửa phòng, nhưng lại dừng lại một chút ngay trước thềm. Cô bé khẽ nghiêng người cúi thấp đầu, nhẹ nhàng nói một câu: “Thầy, bảo trọng.”
Tôi vốn muốn đáp lại một câu gì đó, nhưng cổ họng cứ như bị thứ gì chặn tắc nghẹn, không sao thốt nên lời. Tôi biết mình không có khả năng gặp lại Nhạc Lan lần nữa, trừ phi là chết, nhưng đến lúc đó mà gặp lại chẳng biết đã thành cái dạng gì rồi? Tôi cảm thấy từng đợt đau thắt dâng lên trong lòng, đến mức gần như phát điên, chỉ biết điên cuồng cào rứt tóc, trong lòng không ngừng gào thét: Không, không muốn chết, không thể chết, không muốn không còn được nhìn thấy ánh mặt trời, không muốn không thể tiếp tục nở nụ cười, không muốn… không muốn không thể ăn cơm Bạch Dực nấu nữa… Không muốn chỉ còn lại một bình tro tàn cốt lạnh, làm một u hồn mờ mịt chốn hư vô!
Cái chết thật quá khủng khiếp, quá đáng sợ, tôi nằm co mình trên giường vừa run lẩy bẩy vừa tưởng tượng miên man. Gió ngoài cửa vẫn gào thét lạnh căm căm, cánh cửa sổ ngoài hành lang theo gió đập lạch cạch, từng tiếng từng tiếng một như đập thẳng vào đáy lòng. Hóa ra, tôi cũng là một kẻ sợ chết đến vậy…
Cứ như thế mơ mơ màng màng, nửa tỉnh nửa mê đến buổi trưa hôm sau tôi vẫn nằm trên giường, cả đi làm cũng không màng. Cuối cùng miễn cưỡng xốc lại tinh thần uể oải rời giường, tôi mới nhận ra bản thân mình lúc này thê thảm đến thế nào. Cả cơ thể giống như mất ngủ trọn một đêm, mệt mỏi hư thoát lảo đảo bước trên sàn nhà như đang bước trên mây. Tôi lau mặt một cái, rồi nhìn vào gương, phát hiện bóng phản chiếu trong gương của mình như thực sự bị nguyền rủa không bằng, sắc mặt tái nhợt đến dọa người, mái tóc dài thượt che khuất cả một bên mắt. Tôi không khỏi chút giật mình thảng thốt, gương mặt này mà thực là mình sao? Vội vàng vớt nước dấp thật nhiều lên mặt, tự nhắc nhở bản thân phải thật tỉnh táo thật bình tĩnh, nếu không còn chưa kịp chết vì bị lời nguyền đeo bám thì đã chết vì sợ hãi quá mức rồi. Lại nắm chặt tay cố sức đấm một cú vào tấm gương, đương nhiên cũng không dám dùng hết sức, chỉ là tìm cách giải thoát những cảm xúc tiêu cực trong người mà thôi. Chỉ có những cơn đau đớn từ nắm tay truyền tới mới chứng minh cho tôi biết, mình vẫn còn đang sống. Một hồi lâu sau, rốt cuộc đã khôi phục lại được sự điềm tĩnh bình thường, tôi bèn lấy khăn lau khô nước trên mặt, tỉ mỉ vệ sinh lại một chút, mới ra khỏi nhà vệ sinh.
Bạch Dực không hiểu sao vẫn chưa thấy về.
Tôi rót một ly sữa uống vài hớp, thấy bao thuốc đêm qua còn để lại trên bàn vi tính, liền rút ra một điếu châm lửa rít mạnh vài hơi, nhất thời cảm thấy bình tĩnh hơn hẳn. Chậm rãi ngồi xuống ghế, đầu óc lập tức tự động nhớ tới những chuyện xảy ra đêm qua, gặp lại Nhạc Lan có lẽ chỉ là báo mộng, vì cửa trước vẫn khóa chặt, cô bé chắc chắn không thể vào được. Nhưng cũng chính vì thế mà tôi vẫn còn chút nghi hoặc, Nhạc Lan đã biết được những gì, mà giấc mộng đó liệu có đáng tin hay không?
Hút thêm vài hơi, cảm thấy cổ họng đắng nghét, tôi bèn uống thêm chút sữa rồi mở máy vi tính. Vừa mở tài khoản QQ, liền thấy có mấy tin nhắn nảy ra, nào là sao không thấy vào trò chơi, hoặc nói dăm ba câu chuyện phiếm. Duy chỉ có một tin nhắn làm tôi cảm thấy cực kỳ có hứng thú, là của một người bạn cùng học trung học, vì xa nhau đã lâu nên bình thường ít khi liên lạc. Tin nhắn của cậu ta là thấy trong blog QQ của tôi có viết những điều thú vị, nên muốn tìm tôi kể cho nghe một chuyện.
Đêm qua tôi đem mấy chuyện về “Bát khổ”, “Khởi niệm trận” vân vân viết hết lên QQ, thứ nhất là để bớt buồn chán, thứ hai cũng là để lưu lại những thông tin cho bản thân sau này phòng khi cần tới. Cậu bạn này thấy nhật ký của tôi, bèn cũng gửi lại một ít tư liệu mà cậu ta có được. Hóa ra sau khi tốt nghiệp, cậu ta liền vào bảo tàng làm hướng dẫn viên, cậu ta nhớ là gần đâu có một cuộc triển lãm, trong đó có thứ có liên quan tới những nội dung tôi đã ghi trong nhật ký. Cuộc triển lãm chủ yếu trưng bày một thứ lễ khí (đồ dùng để tế lễ) làm bằng Thanh đồng (đồng xanh) và thời Thương Chu, trên lễ khí có khắc những nội dung có liên quan tới “Bát khổ khởi niệm trận” mà tôi muốn tìm hiểu. Phía dưới trận pháp này có ghi lại rất nhiều cái tên, nhưng không phải tên của những vị tiên đắc đạo, mà toàn là tên của những ác quỷ đã hóa thành oán quỷ. Những cái tên của quỷ này bị khắc lên lễ khí Thanh đồng, dùng để trấn giữ ở ngay giữa đoạn sông nguy hiểm phong ba nhất. Người xưa cho rằng ác quỷ là những loại tồn tại mà ngay cả thần linh cũng phải kiêng dè ba phần, cho nên đây giống như là một cách đáp trả lại những vị thần “thờ ơ” làm con người cầu nguyện mãi mà vẫn không linh nghiệm. Cách suy nghĩ này cũng là thông thường đối với người cổ đại, ví dụ như những khi đại hạn dữ dội thì đem Long vương ra phơi nắng chẳng hạn.
Theo ý kiến của cậu ta thì những con ác quỷ này đã bị con người bắt được bằng cách nào đó, sau đó bị nhốt trong trận pháp đời đời không được siêu sinh, cho nên oán khí của chúng cực kỳ khủng khiếp. Lũ ác quỷ này khi còn sống đều đã sắp đắc đạo thành tiên, nhưng chỉ vì sai một ly mà đi một dặm, từ thiên đường hạ thẳng xuống địa ngục. Kết quả là không thể thành thần, mà chỉ thành quỷ.
Vừa đọc thấy tin nhắn này tôi lập tức nhắn tin lại cho cậu ta, hỏi cậu ta có thể nói rõ hơn được không. Hai mươi phút sau di động của tôi reo lên, vội vàng mở ra nghe, quả nhiên là cậu ta. Cậu ta bảo giải thích bằng QQ không rõ ràng lắm, nên muốn nói chuyện trực tiếp.
Bên kia điện thoại vang lên giọng cậu ta: “A lô, là An Tử đấy à?”
Tôi bước tới bên cửa sổ nói: “Tớ đây, Ngưu Bì Đường (da trâu đường – ý nói dai như kẹo kéo) đấy à… Ờ rồi rồi khi nào có thời gian nói chuyện nhảm hãy cãi nhau sau, lúc này tớ có chuyện quan trọng cần hỏi đây. Cậu bảo cái lễ khí Thanh đồng khắc tên ác quỷ đó còn ở lại viện bảo tàng chỗ cậu đúng không? Vậy cậu chịu khó chụp cho tớ một tấm hình, nếu có thêm ít tư liệu thì càng tốt, được không? À, gửi tới địa chỉ mail của tớ ấy!”
“Cái này… ừ thôi cũng được, khi nào tan ca tớ sẽ thừa dịp chụp cho cậu một tấm, nhưng mà tớ nói trước, cái thứ quỷ đó thực sự rất là tà đạo nha. Từ lúc nó tới đây cái viện bảo tàng này chưa có ngày nào được yên cả… Mà cậu cần nó là vì cái lời nguyền gì đó trên blog của cậu đúng không? Ban đầu tớ còn tưởng cậu chán chơi game mà chuyển qua viết tiểu thuyết huyền huyễn chứ!”
Tôi thực sự không muốn nói nhiều về chuyện này, nhưng dù sao cũng là có việc phải nhờ người ta, nên tôi cũng úp mở vài câu cho qua chuyện, những gì quan trọng nhất thì giữ kín. Dù sao đi nữa thì có thêm cậu ta biết chuyện cũng chẳng giúp được gì, nhưng ngược lại, thứ lễ khí Thanh đồng kia có thể lại giúp tôi được rất nhiều.
Cậu ta nói: “Thôi được, nếu cậu cần giúp đỡ thì tớ cũng sẵn lòng, nhưng cậu phải chờ một lúc đấy. Dù sao thì quy định cũng đã nói rất rõ ràng là trong viện bảo tàng không được phép chụp ảnh, cho nên tớ cũng chỉ phải chờ đến khi mọi người về hết rồi mới có thể lén chụp cho cậu một tấm được. Cho nên cậu đừng có hối, chờ tớ chụp được rồi sẽ gửi cho.”
Tôi vội vàng cảm ơn cậu ta rối rít, hứa sau này nhất định sẽ đền ơn xứng đáng.
Quả nhiên có quan hệ rộng rãi cũng là một chuyện rất tốt, cuối cùng cũng có được chút đầu mối, tôi cũng từ từ khôi phục lại được sự bình tĩnh thường lệ. Chuyện này vẫn cần bản thân phải tự tìm cách giải quyết là chính, chỉ có chủ động tìm hiểu, mới không lo sau này bị rơi vào thế bị động. Ngay lúc đó Bạch Dực cũng nhắn tin về, bảo là anh ta sắp về tới nhà. Anh ta xem chừng rất vất vả, nghe nói là đang ở trên xe lửa, đang trên đường về. Tôi không biết phải nói sao, chỉ đành đáp là ở đây tôi cũng đã tìm ra vài điều, chờ anh ta nhanh nhanh trở về cùng nhau nghiên cứu.
Tắt điện thoại di động, tôi lại xuống nhà tìm đại thứ gì đó ăn đỡ, sau đó lại quay lại dán mắt vào máy vi tính bồn chồn chờ tin tức từ người bạn. Nhưng ai ngờ cậu ta cũng thật lề mề, tôi đợi mãi từ trưa đến chiều khi mặt trời sắp tắt mà cậu ta vẫn chưa hề có nửa phần tin tức. Cuối cùng, khi tôi sắp đợi hết nổi chuẩn bị đi ngủ, thì màn hình QQ im lìm mới nhảy ra một tin nhắn với file đính kèm. Tôi kích động lập tức tải xuống, nhưng tốc độ tải hơi chậm, tôi nôn nóng đến mức muốn cắn răng cắn lợi, chân nhịp nhịp căng thẳng chờ nó tải xong. Tải xong rồi, lập tức vội vã giải nén, mở file ra xem, bên trong có vài bức ảnh chụp một thứ đồ Thanh đồng, cậu chàng này chụp hình vốn không chuyên nghiệp, nhiều tấm vì ngắm sai tiêu cự nên nhìn cứ nhòe nhòe lệch lệch, rõ ràng là chụp trong tình trạng cực kỳ khẩn trương. Cuối cùng tôi phải đem hết mớ hình vào chương trình photoshop chỉnh lại độ nét, mới có thể nhìn thấy những chi tiết trên hình. Trong hình là một cái vò hoa văn rồng cuộn, bốn phía chạm bốn con quỳ long[] đuôi dài, trên thân vò cũng có những hoa văn quỳ long biến thể. Hai bên hông vò có khắc rất nhiều văn tự cổ, tôi đọc không được, nhưng may mắn là bạn tôi có gửi theo một số tài liệu nội bộ của viện bảo tàng bọn họ, trong đó giải thích tất cả những điều mà cậu ta có thể biết được.
Quả nhiên đây là một loại lễ khí dùng để tế tự, khai quật được từ khu vực khảo cổ ở Trúc Ngõa huyện Bành tỉnh Tứ Xuyên, niên đại khoảng đầu thời Tây Hán, trong số những cái tên trên hông vò thì chỉ mới tìm hiểu được một cái tên, là Phàn Nhuế, là một người tu hành hơn tuổi. Truyền thuyết nói ông ta có khả năng hô phong hoán vũ, lên trời gặp tiên, ông ta được ghi chép lại trong lịch sử là vì ông ta là một cao nhân cực kỳ có tiếng tăm thời bấy giờ, triều đình từng nhiều lần muốn vời vào làm quan, nhưng những văn nhân kẻ sĩ thời xưa hầu như đều có cùng một cái bệnh, là “không ăn thóc nhà Chu”[]. Cho nên một con người lợi hại như vậy mà chỉ thoáng lướt qua trong lịch sử như một ánh nhàn nhạt, sau đó lập tức tan biến, không ngờ đến bây giờ lại xuất hiện trên cái vò này.
Bạn tôi còn đính kèm một bản báo cáo tình hình lúc khai quật được cái vò này. Nó được phát hiện ở sông Vị Thủy, từ lúc khai quật trời đột nhiên đổ mưa không ngừng, có nhiều nông dân ở trong vùng đều nói rằng đã nhìn thấy rất nhiều bóng người mờ mờ ảo ảo lướt qua trong mưa, còn nói có thể là âm binh mượn đường, nên đều đổ về nhà tìm vải đỏ cột ngang thắt lưng rồi mới dám quay lại đào. Khi đào ra được thứ nọ, họ bèn giao lại cho chuyên viên nghiên cứu, nhưng không ngờ khi mở ra thì cất giữ bên trong không phải là rượu ngon rượu quý gì cả, mà là một đống lầy nhầy không biết là cái gì màu đen thẫm, mùi hôi thối đến lợm mửa, làm không biết bao nhiêu người có mặt ở đó phải nôn thốc nôn tháo. Mọi người chịu không nổi, bèn đổ hết đám đen đen đó ra phong kín lại chờ xét nghiệm sau, còn cái vò thì mang về nghiên cứu. Nhưng chuyện lạ cũng từ đó mà liên tục phát sinh. Nhóm chuyên gia đầu tiên bắt tay vào nghiên cứu cái vò nọ đều lần lượt gặp tai nạn trong quá trình khai quật, không có một ai còn sống trở về. Nhóm chuyên gia thứ hai được phái tới lại gặp phải tai nạn xe cộ trên đường. Cho nên không ai phái thêm nhóm thứ ba nào nữa. Nhưng dù sao cái vò vẫn là một món văn vật quan trọng, huống chi sau đó cũng không xảy ra chuyện gì đáng tiếc nữa, bèn được đưa tới viện bảo tàng triển lãm, nhưng từ khi nó xuất hiện ở bảo tàng, những người ở đó chưa từng có một ngày yên ổn. Đôi khi sẽ nhìn thấy bóng rất nhiều người vây quanh nó khóc lóc, nhưng những kẻ đó lại hoàn toàn không phải là người, chưa kể thỉnh thoảng từ cái vò còn phát ra những trận hôi tanh tưởi. Giám đốc bảo tàng cũng là người hiểu biết, nhận ra cái vò này sát khí quá nặng, liền dùng hai thanh kiếm Thanh đồng thời Tây Chu trấn hai bên, mũi kiếm chĩa thẳng vào cái vò, mới chặn lại được những chuyện kỳ quái nọ.
Tôi vừa đọc xong hết mớ tài liệu thì Bạch Dực cũng vừa vặn đẩy cửa bước vào, trông anh ta như đã vất vả cả đêm nên nhìn có vẻ rất mệt mỏi. Tôi thực sự cảm thấy áy náy, liền ân cần ngã cho anh ta một ly trà, để anh ta nghỉ ngơi. Nhưng vừa uống một hai hớp, Bạch Dực liền mở miệng hỏi ngay: “Cậu bảo có phát hiện mới quan trọng, là cái gì thế?”
Tôi cho anh ta xem mấy tài liệu trước, sau đó cả hai chúng tôi cùng châu đầu vào quan sát mấy tấm hình trong máy tính. Anh ta chỉ vừa nhìn lướt qua, đã lập tức khẳng định: “Thứ này quả thực là một loại ‘trấn hà quỷ khí’ (dụng cụ ma quỷ dùng để trấn áp các con sông dữ). Ngày xưa người ta rất sợ cũng rất ghét nạn hồng thủy, cho nên thay vì dập đầu cúng tế cầu xin các vị thần linh cho khỏi nạn, thì bọn họ lại chọn cách thẳng thừng uy hiếp thần linh. Trấn hà quỷ khí là một phương pháp uy hiếp thần linh điển hình. Đúng thế, thế cục kia hoàn toàn không phải là ‘Bát khổ khởi niệm trận’, mà là một loại lời nguyền làm ột người hoàn toàn hóa thành ác quỷ… Không giúp cho người ta thành tiên, mà là đẩy người ta thành ma.”
Tôi cau mày nhìn hình một lúc lâu, cuối cùng lại nghĩ vẫn còn một vấn đề, liền hỏi: “Tức là thứ tôi gặp phải chính là lời nguyền này đó sao? Nhưng ở đây cũng rất kỳ quái này, anh xem, cái tên duy nhất mà chúng ta còn tra cứu được trên cái vò ấy mà, trong số tư liệu về ông ta tôi cảm thấy có một điểm rất bất thường. Đó là ông ta vốn là một tương táng… Tôi tìm hiểu thì thấy nghề tương táng tức là giúp người ta chọn đất để mai táng người chết hoặc xem phong thủy, nói thẳng ra là một ông thầy địa lý chuyên xem đất. Tuy tôi không hiểu lắm, nhưng tôi nghĩ những cái tên này chắc hẳn phải có điểm chung gì đó với nhau, nếu không sao lại bị chôn cùng nhau một chỗ thế này?”
Bạch Dực gật đầu, bổ sung thêm: “Nói đúng lắm, từ đó mà suy ra, giữa bọn họ chắc chắn có điểm chung nào đó, nhưng tiếc là những cái tên khác chúng ta không biết là ai. Đám khảo cổ không phải là không có năng lực, nếu bọn họ không tìm ra thì chúng ta cũng khó mà tra ra được. Nhưng hiện tại ít ra có thể xác định, thứ cậu bị trúng phải chính là Bát khổ chú biến dị này.”
Xem tài liệu xong, tôi lại nhớ đến đầu mối thứ hai, chính là giấc mộng mà Nhạc Lan thác cho tôi, còn phong thư cứu mạng mà cô bé nhắc tới nữa. Tôi vội vã kể sơ lược cho anh ta biết, nhưng ai ngờ Bạch Dực vừa nghe thế thì bao nhiêu bình tĩnh nãy giờ đều như bay biến đâu mất, anh ta gần như nhảy dựng lên, lo lắng hỏi tôi: “Còn gì nữa, nó còn nói gì nữa không?!”
[] Quỳ long: một loại động vật có hình dáng giống rồng trong truyền thuyết xưa.
[] Bá Di và Thúc Tề trung thành vua Trụ, không chịu ăn thóc nhà Chu mà ăn rau để sống. Sau có người bảo rau đó mọc trên đất Chu, cũng là của nhà Chu, liền nhịn đói mà chết.