Trước kia Từ đại nhân cũng giống với mọi người, có sự tín nhiệm không hề lý trí với An Định hầu đại diện cho Huyền Thiết doanh, tựa hồ chỉ cần là nơi có Cố Quân, dẫu long đàm hổ huyệt cũng có thể xông vào, trời sập đã có y gánh… Đương nhiên, sự tín nhiệm này trước mắt đã tan biến sạch.
Từ phó đốc sát sứ mặt mày xanh xám, còn ôm một chút hi vọng cuối cùng mà hỏi: “Đại soái… Chẳng lẽ lần này qua sông cũng là ngài cố ý làm vậy?”
“Làm sao có thể?” Cố Quân ù ù cạc cạc nhìn hắn, “Ôi, ta đã sớm nói với Phụng Hàm công rồi, thứ này nhất định không hề ổn đâu. Huyền ưng có thể bay nhanh là vì lên trời có thể dùng sức người điều khiển, ông ta làm cái đống to như thế, gió êm sóng lặng thì thôi, gặp chút mưa gió là phải nghỉ, lên chiến trường không phải nộp mạng cho người ta à – Ngươi xem, quả nhiên phải nghỉ rồi.”
Cát Thần nôn ra mật xanh mật vàng, nước mắt giàn giụa: “Hạ quan… trở về, trở về nhất định nói với Phụng Hàm công.”
Từ Lệnh sợ vỡ mật, không lạc quan được như Cát linh xu, hắn có cảm giác, e là mình không về được nữa.
May mà còn có kẻ biết nói tiếng người, Trường Canh quay đầu cười nói với phó sứ: “Đừng nghe y, y chỉ hù dọa ngươi thôi. Nơi đây đất đai bằng phẳng, trong tầm mắt không nhìn thấy doanh trướng trú quân, chứng minh tiên phong quân địch căn bản không ở gần, tối nay lại có mưa dông, tiếng nổ hòa với tiếng sấm, y sớm tính toán rồi, sẽ không dẫn đến nhiều quân địch, tối đa là lính tuần phòng cảnh tỉnh tới xem thôi.”
Cố Quân cười xấu xa.
Từ Lệnh cơ hồ lệ nóng tràn mi nhìn Nhạn thân vương, điểm khác không bàn, riêng trí tuệ và dũng khí lâm nguy không biến sắc của Nhạn vương gia là hắn đã phục sát đất, lập tức chân tâm thành ý nói: “Vương gia cơ trí.”
“Cơ trí gì,” Trường Canh xua tay, “Bị y lừa từ nhỏ đến lớn, phải có kinh nghiệm chứ.”
Từ Lệnh: “…”
Không biết vì sao, hắn cảm thấy trong dăm ba câu Nhạn vương nói tới Cố Quân có sự thân mật khác thường.
Đêm mưa mai phục trong cỏ dại mùi vị không hề dễ chịu, may mà lính tuần phòng Tây Dương tới cũng nhanh, chẳng qua giây lát đã có kẻ nói tiếng phiên bang chửi bới chạy tới, mặt đất rung nhẹ truyền đến tiếng vó ngựa, Cố Quân mới còn cợt nhả chợt cau mày, thấp giọng nói: “Kỳ lạ!”
Từ Lệnh thấy y giật mình thì hoảng sợ, vội hỏi: “Cố soái, cái gì kỳ lạ?”
“Chạy tới có… ba, bốn, năm… sao chỉ có lèo tèo vài người vậy?” Nhạn vương bên kia hạ giọng nói, “Tuần phòng của người Tây Dương không khỏi như trò trẻ con?”
“Không biết,” Cố Quân lắc đầu, “Xử lý trước rồi tính sau – có ai biết tiếng phiên bang xì xà xì xồ đó không?”
Y vừa dứt lời, ánh mắt mọi người không hẹn mà cùng tập trung vào Nhạn vương, Trường Canh cùng hai mươi mấy thân vệ vẻ mặt như gào khóc đòi ăn này ngơ ngác nhìn nhau chốc lát: “Đều nhìn ta làm gì?”
Cát Thần ngạc nhiên hỏi: “Vương gia vậy mà cũng không biết nói tiếng phiên bang à?”
Trường Canh chẳng hiểu gì sất: “… Ta đúng là có biết nói vài câu tiếng địa phương Tô Châu, nhưng biết nói tiếng phiên bang bao giờ?”
Thì ra là hơn một năm nay, mọi người hoặc cảm thấy y khó lường, hoặc cảm thấy y tâm cơ thâm trầm, hoặc chỉ đơn thuần cảm thấy y là người tài ba, đều cho rằng bất kể gặp phải chuyện gì, y đều nên có biện pháp, cái gì cũng nên biết một chút.
Đúng lúc này, Từ phó sứ bên cạnh đột nhiên nói: “Hạ quan kỳ thực biết chút chút.”
Những ánh mắt vừa nhìn chằm chằm Nhạn vương tập thể dời đi – còn thêm phần của chính Nhạn vương.
Từ Lệnh ho một tiếng, rốt cuộc không rụt rè, nói: “Không giấu gì Vương gia, năm ấy Vương gia và Cố soái thủ cổng kinh thành, bá quan đi theo Thánh thượng tới dưới cổng thành, hạ quan cũng chen thân trong đó, cảm nhận được sự bách vô nhất dụng của thư sinh, song lục nghệ chưa thông, ra trận giết địch hữu tâm vô lực, liền hạ quyết tâm học tiếng phiên bang, nếu tương lai tái chiến, thân không thể mặc cương giáp, có thể đi theo làm tùy tùng cho chúng tướng quân, làm chân sai vặt học tiếng, cũng coi như không uổng kiếp này thác sinh vào tấm thân bảy thước.”
Câu cuối cùng nghe thật hùng hồn. Kỳ thực trong đoàn người này, trừ Từ phó sứ ra, không phải người từng trải thì là quạ đen Huyền Thiết doanh, kẻ gian trá, kẻ giảo hoạt, cước trình cực nhanh, giỏi liều mạng cũng giỏi giết người, dọc đường kinh hiểm liên tục, đổi thành ai khác chắc đã sớm suy sụp, làm khó Từ đại nhân một thư sinh nhược chất, với suy nghĩ vì sinh dân lập mệnh, lại có thể cắn răng chịu đựng.
Xã hội nhiễu nhương, mà dưới vòm trời này có một thư sinh.
Ngay cả Cố Quân cũng cọ cằm, ngại không trêu hắn nữa.
“Đợi lát nữa phải làm phiền Từ đại nhân rồi,” Ánh mắt trêu đùa của Cố Quân trầm xuống, trong mắt như có hàn thiết quang, “Đến rồi!”
Đang nói thì một đội lính tuần phòng Tây Dương khinh giáp đã tới trước mắt. Một kẻ gạt đám đông bước ra, đi vài vòng quanh ngọn lửa và xác đại điêu mưa xối một lúc lâu chưa tắt, xì xồ nói câu gì đó.
Từ Lệnh thì thào: “Hắn nói ‘Mưa to như vậy, vốn không nên tự dưng bốc cháy, trong khu vực này không có người ngoài, rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì’.”
“Trong khu vực này không có người ngoài” là ý gì?
Cố Quân mới nghiêng đầu, tay lính Tây Dương kia đã nhặt dưới đất lên một mảnh xác đốt hết, lật qua lật lại, bỗng nhiên nhảy vọt lên ba thước, lại xì xồ câu gì đó.
Từ Lệnh vội nói: “Hắn nói ‘Trên đây có dấu hiệu của xưởng quân sự của người Đại Lương, có gian tế Đại Lương trà trộn vào rồi’ – Cố soái, họ đã bắt đầu căng thẳng, chúng ta bị phát hiện rồi sao?”
Gỗ có thể đốt trụi, nhưng đá và sắt lá thì không thể, chắc là dấu hiệu của Linh Xu viện bị nhận ra rồi.
Từ Lệnh: “Cố soái, chỉ sợ đám rợ này sẽ cảnh báo gọi…”
Cố Quân đặt một tay lên cát phong nhận bên hông, nghiêng đầu nhìn Trường Canh, Trường Canh thong thả lấy ra một cái thiên lý nhãn có thể kẹp trên mũi, ngón tay nhẹ nhàng lau bọt nước trên thấu kính, hơi gảy dây cung, dường như lắng tai xác định xem nó có bị ẩm hay không, sau đó dưới ánh nhìn chăm chú của Từ Lệnh đang há hốc mồm, chậm rãi kéo cung.
Cố Quân vung tay, hai mươi mấy thân vệ Huyền Thiết doanh mau chóng xuyên qua cỏ dại.
Chỉ thấy một tay lính tuần tra Tây Dương tháo một cây tù và sừng trâu giắt trên hông, hít sâu một hơi, đang tính để lên miệng thổi cảnh báo, thì một mũi thiết tiễn bỗng phá không bay đến, xuyên vào từ tai trái không lệch chút nào, đương trường bắn đầu kẻ này thành một quả dưa hấu nát đỏ trắng lẫn lộn.
Óc hắn bắn đầy người đồng đội, ngay sau đó, vài bóng đen như sét đánh lao tới trước mặt binh lính Tây Dương chưa kịp phản ứng, cát phong nhận trên không phát ra tiếng rít nhỏ liên tiếp, như thể thái rau, chớp mắt mấy cái đầu liền rơi xuống đất, còn lại một kẻ chưa kịp xuống ngựa, hoảng hốt giơ hai tay lên, sợ gần chết mà nhìn sát thủ đột nhiên chui ra từ cỏ dại.
Đến lúc này, Từ Lệnh mới thở phào, đờ đẫn nói nốt câu vừa rồi: “… Gọi đồng bọn tới.”
Cố Quân vỗ vai hắn, thành khẩn trả lời: “Giờ thì không gọi được nữa rồi – lột sạch hắn, trói lại mang đi, nơi đây không nên ở lâu, rút trước!”
Hai Huyền Thiết thân vệ nghe vậy hăm hở bắt tên lính Tây Dương kia, tháo giáp soát người như bóc vỏ tỏi, lột sạch sẽ, sau đó trói tay lính như bạch trảm kê chưa chín kỹ ấy thành một con heo đợi làm thịt, bịt miệng xách đi. (Bạch trảm kê là một món ăn chế biến từ gà)
“Ta thấy bên kia có một thôn nhỏ, mượn tạm một chỗ thẩm vấn xem.” Trường Canh vừa đi vừa nói, “Bình thường nơi gần sông kiểu này, khi chiến loạn ai có thể chạy đều chạy hết, trong nhà sợ là chỉ còn lại vài người già yếu, mười hộ trống chín, đợi lát nữa gặp người, cũng vừa vặn hỏi dân địa phương về tình hình trong vùng thất thủ, chỉ là còn phải nhờ Từ đại nhân đi trước, các huynh đệ Huyền Thiết doanh lúc không nói chuyện không nhúc nhích cũng luôn đằng đằng sát khí, đừng để họ làm lão bách tính sợ.”
Từ Lệnh vội nói: “Vâng, hạ quan tuân mệnh.”
Nói đoạn hắn trộm nhìn Trường Canh một cái, Nhạn vương đã bị mưa dầm ướt đẫm, một lọn tóc rơi xuống thái dương, ướt sũng nhỏ nước. Rõ ràng là y bước nông bước sâu đi trong bùn lầy đất hoang không một bóng người, mà thần sắc tựa hồ vẫn là vẻ chẳng để tâm bất biến, trên người đeo cây cung vừa kéo liền long trời lở đất kia.
Trường Canh vô tình ngẩng đầu lên, vừa vặn chạm phải ánh mắt Từ Lệnh, liền ôn hòa hỏi: “Từ đại nhân muốn nói gì với ta?”
Từ Lệnh sắc mặt thay đổi mấy lần, rốt cuộc vẫn nuốt lại lời nói ùa lên môi, chỉ khách khí lắc đầu.
Đoàn người đi vào thôn nhỏ, thấy tĩnh mịch vắng tanh như thôn ma, trừ tiếng mưa gió và tiếng bước chân họ ra thì chẳng còn động tĩnh gì khác, từng cánh cửa sài rách nát nửa mở nửa đóng, cỏ dại trong viện mọc cao hơn nửa bức tường, đập vào mắt toàn là ngói vỡ cột gãy, có nhà ngoài cửa còn treo cái yếm màu xanh lá cây của em bé, bùn nhỏ tong tong, đã thành một mảnh vải rách.
Trong thôn rộng rãi nhất là từ đường, đại viện từ rất xa đã có thể trông thấy, cho người ngoài dừng chân được.
Cát Thần lấy một cây gậy cỡ bằng tiểu hỏa chiết cất trong lòng, mở nắp che, bên trong liền hắt ra ánh sáng nhàn nhạt, ngói trên đỉnh từ đường đã sứt mẻ, ngoài trời đổ mưa to, trong này mưa nhỏ rơi, bàn ghế lớp đổ lớp hỏng, chỉ có góc nhà có vài mảnh vải rách, in ấn hoa màu trắng của vùng Giang Nam, mang máng còn đọng lại sự phồn hoa của tam thu quế tử.
Từ Lệnh ngắm nghía từ đường trong ngoài một phen, hỏi: “Hình như không có người, Cố soái, dân địa phương chưa chạy hết chứ?”
Cố Quân cũng hơi nhíu mày, kêu mấy thân vệ đi tìm kiếm bốn phía, cúi người nhặt mảnh vải in hoa ở góc tường.
“Lần trước khi ta đến Giang Nam, đang là xuân về hoa nở.” Cố Quân nói, “Rực rỡ gấm hoa, gió mát hất tới, ngay cả tạo phản cũng thong thả, chuẩn bị ít thương thuyền chứa đầy hương nén lén vận chuyển tử lưu kim…”
Y còn chưa dứt lời thì một thân binh đã rảo bước xông tới: “Đại soái, ngài mau nhìn xem, phía sau từ đường… ở hậu viện có…”
Cố Quân nhướng mày: “Có cái gì?”
Thân binh nọ vẻ mặt úp mở, tránh ánh mắt Cố Quân, khó khăn nói: “… Người trong thôn.”
Tiểu thôn Giang Nam uốn lượn quanh co, trong thôn có một dòng sông nhỏ, nhà dân hai bên dựng theo dòng nước, róc rách không phân nam bắc đông tây, mà giờ đều đổ nát cả, bốn tảng thạch bài “trung hiếu tiết nghĩa” ở cửa từ đường đã vỡ một nửa, đá vụn lăn đầy vào cỏ dại, Từ Lệnh không biết đá phải thứ gì, cúi đầu nhìn, suýt nữa nhảy dựng lên – lại là một bộ hài cốt.
Từ Lệnh: “Đây… đây…”
Trong khi nói chuyện, Nhạn vương đã dẫn đầu vào hậu viện từ đường – chỉ thấy bài vị tổ tông ngổn ngang khắp nơi, di tích thần phật sập bị bụi phủ, mà trên phiến đá đen sì, vô số thi hài đầu mình hai ngả xếp chỉnh tề, nam nữ già trẻ chẳng khác gì nhau, trên hốc mắt sâu hoắm của bộ xương đã bám đầy mạng nhện.
Từ Lệnh rùng mình, vô thức vịn khung cửa.
“Nơi này bốn bề thoáng đãng,” Trường Canh trầm mặc rất lâu, mới thấp giọng nói, “Nam bắc có ngoại hải và vận hà, đông tây quan đạo có thể đi khắp nơi, ngày xưa người qua kẻ lại không dứt. Nơi đây lại lắm bình nguyên, dị tộc chiếm đóng thời gian dài, nhất định khó có thể tiếp tục, người của chúng ta cũng rất dễ dàng trà trộn vào, ta nghĩ họ… chỉ đành dọn dẹp triệt để một phen.”
Từ Lệnh nghệt mặt hỏi: “Thế nào là triệt để?”
“Phái trọng giáp tàn sát cả thôn,” Trường Canh thấp giọng nói, “Vạch một vòng tròn, đuổi những người trong vòng lại một chỗ, dọn dẹp sạch sẽ, không cho người sống tiến vào nữa, sau đó chỉ cần phái người phong tỏa mấy quan đạo lớn, thì sẽ không xuất hiện chuyện mấy ngàn Huyền Thiết doanh giả danh thương nhân lẩn vào Tây Nam như năm đó – giờ thì ta đã hiểu vì sao lính tuần phòng ban nãy chỉ có vài mống.”
“… Bởi vì nơi đây căn bản là khu không người.” Trường Canh đang nói chợt đạp bụng tù binh Tây Dương một phát, tù binh nọ suýt nữa bị cú đá chứa cơn giận này đá lòi ruột, kêu cũng không được, đành phải nằm dưới đất rên hừ hừ như giết heo.
Cố Quân lấy vật chiếu sáng trong tay Cát Thần, rọi sáng một khúc gỗ ngâm mục, trên có một hàng chữ khắc bằng móng tay-
Một thân binh hỏi: “Đại soái, cái gì thế?”
Cố Quân đọc khẽ: “… Di dân lệ tận Hồ trần lý()… chữ lý chỉ có một nửa.”
Dưới cây cột gỗ to ấy có một hài cốt đã nát, bạch cốt lốm đốm, rất đáng sợ, chỉ có một ngón trỏ bị côn trùng gặm sạch còn đang chỉ vào dòng chữ kia không chịu từ bỏ.
Phảng phất vẫn chất vấn trong im lặng: “Vùng cá gạo ma trơi lập lòe, vương sư tướng quân thiết kỵ ở đâu?”
Dầm mưa cả đêm, tận đến lúc này, hơi lạnh rốt cuộc mới thấm từ xương cốt ra.
Mà bốn chữ “Giang Nam thất thủ” này cũng viết ra mạnh mẽ cứng cáp chưa từng thấy, trong từ đường nhất thời lặng ngắt như tờ.
Không biết qua bao lâu, Trường Canh mới đẩy nhẹ Cố Quân: “Đừng nhìn nữa, Tử Hi, đêm dài lắm mộng, chúng ta rời khỏi đây trước, hội hợp với Chung lão quan trọng hơn.”
Cố Quân siết chặt tay, nghe tiếng thẳng lưng dậy, không biết thế nào mà trước mắt lại tối sầm, lảo đảo nửa bước mới đứng vững, Trường Canh hoảng sợ đỡ tay y: “Sao vậy?”
Ngực Cố Quân khó chịu một trận, cảm giác thể hư bất lực nhiều năm chưa từng cảm thụ tự nhiên trỗi lên, nhất thời hoang mang sinh ra cảm giác yếu ớt không cách nào tả nổi – từ sau khi bị thương ở vùng Tây Quan, vô luận y kiêng rượu hay giảm thuốc, đều không cách nào ngăn cản thân thể này ngày càng kém đi, giống như toàn bộ nợ nần ngày trước đang kéo nhau tìm đến.
Hiện giờ đối mặt với lời chất vấn của một hài cốt, y chẳng nói được gì, trong lòng thậm chí sinh ra một chút yếu đuối thấp thỏm – Cố Quân nghĩ: “Khi nào thì ta có thể giành lại Giang Nam? Ta còn… tới kịp không?”
Song nghi ngờ và ưu tư chất chứa trong lòng Cố Quân chỉ sinh ra một chớp mắt, thoáng cái đã bị y dằn xuống – chí ít nhìn từ bên ngoài, y đã khôi phục như thường.
“Không sao,” Cố Quân nghiêng đầu nhìn Trường Canh một cái, rút tay ra, điềm nhiên nói với Từ Lệnh: “Từ đại nhân, hỏi con khỉ lông trắng đó xem hang ổ chúng ở đâu, có bao nhiêu người, bao nhiêu giáp, cương giáp giấu ở nơi nào? Hỏi một lần không nói thì cắt một ngón tay hắn, nướng chín cho hắn một bữa ăn ngon.”
Nghe đồn rất nhiều binh lính Tây Dương là dùng tiền mua, không có tiết tháo không sợ chết gì đó, hàng loạt thủ đoạn vừa lừa vừa dọa của Cố Quân còn chưa kịp dùng, thân vệ mới giơ cát phong nhận thì hắn đã khai hết.
Quả như Trường Canh nói, hàng dải bình nguyên ở bờ sông bị họ dọn dẹp thành khu không người, mỗi khu vực chỉ để lại một trạm gác bảo vệ, một trạm gác chỉ có hơn chục người, phần lớn là kỵ binh.
“Đại bộ đội một phần làm tiên phong, giằng co với Chung tướng quân, một phần…” Từ Lệnh khó khăn mím môi, phiên dịch, “Cướp bóc khắp nơi, bức bách tù binh làm lao dịch làm thợ mỏ làm nô lệ, thứ cướp được vận chuyển về nước, bịt miệng đám người muốn hạ bệ Giáo hoàng.”
Lúc này mưa rào đã tạnh, mây đen chợt tan, lộ ra ánh trăng mỏng manh, phóng nhãn nhìn về nơi xa, toàn là mây mù dày đặc, mà thịnh cảnh khôi lỗi trồng trọt bận rộn ngoài đồng, nông dân uống trà luận việc quốc gia khó xuất hiện nữa.
Từ Lệnh thấp giọng nói: “Hạ quan vốn tưởng rằng lưu dân Giang Bắc đã là khốn khổ lắm rồi, nhưng họ còn có lều cỏ che mưa, một ngày còn có hai bát cháo loãng để lĩnh…”
Trường Canh: “Nhiều lời vô ích, chúng ta đi, để tên chó Tây kia dẫn đường, đến trạm gác của chúng.”
Hai thân vệ Huyền Thiết doanh lập tức theo lời vác tay lính Tây Dương kia lên.
“Nhạn vương điện hạ!” Từ Lệnh rảo vài bước, gọi Trường Canh lại, “Ta và chó Tây Dương, khi nào thì đánh một trận được?”
Trường Canh không dừng bước cũng không hề ngoảnh lại đáp: “Nếu có thể thuận lợi dàn xếp lưu dân Giang Bắc, ông trời thương đừng giáng thiên tai, nghỉ ngơi dưỡng sức một hai năm, chờ tới khi mười tám bộ đạn tận lương tuyệt, một lần nữa thông con đường tử lưu kim Bắc cương, ta không tin chúng ta không làm gì được đám chó Tây Dương này!”
Chỉ là hiện giờ trong triều tối tăm rối loạn, cất bước khó khăn, hàng vạn hàng ngàn lưu dân còn đang trôi giạt khắp nơi, nói gì nghỉ ngơi dưỡng sức, nhất trí đối ngoại?
Từ Lệnh hít sâu một hơi, vành mắt đỏ hoe, đuổi theo Nhạn vương, ghé vào tai y nói thấp mà nhanh: “Vương gia có biết lúc trước ngài ở trong triều cải cách động tác quá lớn, sớm có kẻ coi ngài là cái đinh trong mắt… Không nói chuyện khác, chỉ tính lần này Nam hạ tra án, giả như Dương Vinh Quế kia thật sự tham ô không báo, mấy ngày nay tất nhiên nghe được phong thanh, nếu hắn đập nồi dìm thuyền, có thể đổi hết vàng bạc tài vụ trong phủ thành phong hỏa phiếu, rồi nói Vương gia ngài để thúc đẩy phong hỏa phiếu không từ thủ đoạn, hạ các loại chỉ tiêu không thể hoàn thành cho quan viên địa phương, họ ăn hối lộ phạm pháp là bất đắc dĩ, Đốc sát viện và Ngự sử đài tất nhiên nghe tiếng gió mà cùng tấn công – đến lúc đó ngài phải làm thế nào?”
Trường Canh nở nụ cười như có như không: “Nếu thực sự có ai có thể tiếp nhận loạn cục này, thu hồi Giang Nam, yên ổn tứ phương, ta thu dọn hành lý cút đi thì có hề gì? Từ đại nhân, những gì ta làm, không hề vì bản thân, cũng không phải để được họ khen ngợi – ai muốn tố tội thì cứ việc, ta tự vấn xứng với thiên lý lương tâm, nửa đêm canh ba ngủ ở Sở quân cơ hay thiên lao đại ngục đều thế, không có tổ tông tới tát một phát, ngoài ra…”
Y không tiếp tục nữa, trên khuôn mặt trẻ tuổi anh tuấn như thoáng qua nét cười khổ mỉa mai, Từ Lệnh tựa như nhìn thấy sự cô phẫn và bất đắc dĩ quanh quẩn cạnh Nhạn vương, trong lòng chấn động mạnh, mặt đau rát-
Ngự sử đài bị Nhạn vương làm mất mặt trước đám đông không phải một lần, từ lâu đã hận không thể bắt được thóp để cắn chết đảng Nhạn vương.
Mà Đốc sát viện là nơi “thanh lưu” trong triều tụ tập – đều giống Từ Lệnh, không muốn dựa thế quyền quý, cũng không thèm nhập bọn với thương nhân toàn mùi tiền, tự xưng là chỉ trung với quân, coi hành vi của Nhạn vương là uống rượu độc giải khát, thêm lưu ngôn phỉ ngữ khắp nơi, họ luôn cảm thấy Nhạn vương là một quyền gian lòng dạ thâm sâu, đùa bỡn Hoàng đế trong tay.
Từ Lệnh lần này theo Nhạn vương Nam hạ, điều tra tham quan ô lại là một phương diện, quan trọng hơn là, nhân lúc thế gia và tân quý đấu thành một đôi gà chọi mắt đỏ, hai viện thanh lưu đã tính toán liên thủ hạch tội Nhạn vương kẻ đầu têu, mục đích của Từ Lệnh chuyến này không hề đơn thuần, vừa là Hoàng đế Long An không yên tâm về Nhạn vương Lý Mân, cũng là hai viện muốn bắt lấy chứng cứ Nhạn vương có tâm bất thần-
Có người vì Giang Nam Giang Bắc trước mắt hoang tàn mà hao tâm tốn sức, cho dù thủ đoạn hơi mạnh – họ lại ở trong triều chờ tóm lỗi lầm của người ta, vậy rốt cuộc là ai đang hại nước hại dân?
Từ Lệnh không tự chủ được hơi nghẹn ngào: “Vương gia…”
Trường Canh hơi nhướng mày, không hiểu lắm: “Từ đại nhân sao vậy?”
Từ Lệnh nhất thời không nói nên lời.
Cố Quân chẳng rằng chẳng nói dẫn đường đằng trước, Từ Lệnh thư sinh kia tự cho là nhỏ giọng thì thầm, thực tế với nhĩ lực của Cố soái khi không điếc, ở nơi thuận gió sớm nghe không sót một chữ.
Y liếc thấy thân binh bên cạnh nghe mà kích phẫn không thôi, lại thoáng nhìn Cát Thần thần sắc mập mờ, đại để biết “sự cố” vào lầm trận địa địch lần này là từ đâu mà đến.
—
Câu này trích trong bài “Thu dạ tương hiểu xuất ly môn nghênh lương hữu cảm” của Lục Du, tạm dịch: Người dân sót lại trong vùng giặc Hồ chiếm khóc cạn nước mắt.