Ít nhất là trông bề ngoài của nó giống một cái hòm sắt gỉ. Olivia đứng nhìn chằm chằm.
Thực tình thì nàng không mong tìm thấy một hòm báu vật.
Nàng không chắc mình muốn tìm thấy gì, nhưng chưa bao giờ nghĩ đó là cái này.
“Lạy Chúa tôi,” nàng kêu lên. “Lạy Chúa tôi.”
“Trông giống một cái hòm nhỉ,” chàng nói.
“Kia là đất?” nàng hỏi. “Hay là nó quá bẩn thỉu? Hay là bị gỉ sét?”
“Có vẻ như ban đầu nó đã được chôn ở đâu đó,” Lisle nói. “Có lẽ họ đã chôn dưới đất, nhưng rồi lại đổi ý.” Chàng thò tay vào và lần mò các mặt của chiếc hòm. Chàng kéo. Nó không nhúc nhích. Chàng kéo mạnh hơn. Nó di chuyển chừng hai phân.
Chàng rất khỏe, nàng biết điều đó. Chàng có thể bế nàng lên nhẹ bỗng. Nàng cao hơn nhiều cô gái và không hề gầy ốm. Thế mà chàng có thể nhấc lên rồi đặt xuống như thể nàng là một cái ấm trà.
“Nó nặng hơn ta tưởng,” chàng nói. “Ta cần Nichols giúp một tay.”
Chàng đi ra ngoài.
Nàng đứng lại, ngỡ ngàng nhìn ngắm cái hòm. Nàng vẫn đang cố gắng buộc bộ não của mình phải tin vào những gì đôi mắt đang thấy thì Lisle và Nichols xuất hiện với một đống dụng cụ trên tay.
Nàng đứng ra ngoài trong khi hai người đàn ông cạo đất đi.
Đây là những gì họ làm ở Ai Cập, nàng nghĩ.
Một cái tay xách lộ ra. Nichols kéo tay cầm còn Lisle giật chiếc hòm, họ lôi nó ra khỏi hốc và khệ nệ đặt xuống sàn.
“Nặng khủng khiếp,” Lisle nói. “Nhưng có lẽ một phần sức nặng là do đất cát kết bám qua nhiều thế kỷ. Chúng ta phải mang sang phòng bên kia để xem cho rõ việc mình đang làm.”
Sau khi Nichols gõ sạch đất trên tay xách còn lại, hai người đàn ông mang chiếc hòm qua phòng kế bên rồi vào phòng bảo vệ.
Nichols tiếp tục cạo đất. Một hai phút sau cậu ta ngừng tay. Khi bắt đầu lại, cậu ta làm chậm và thận trọng hơn.
Thật khó chịu khi phải đứng yên quan sát. Trong lòng Olivia cuộn lên cảm giác hồi hộp. “Đây là cách ngài xử lý những món đồ cổ, em nghĩ thế,” nàng nói. “Chẳng trách gì ngài bảo công việc ấy cần kiên nhẫn. Đây chỉ là một cái hòm thôi. Dù giàu trí tưởng tượng nhưng em chẳng tài nào hình dung nổi phải làm gì để giũa hết đất quanh một hầm mộ hoặc một ngôi đền.”
“Cát thì khác,” Lisle nói. “Và chúng ta có rất nhiều nhân công. Dù thế... Có khó khăn gì à Nichols?”
“Không hẳn, thưa ngài,” Nichols nói. “Nhưng tôi nghĩ tốt nhất là nên thật cẩn thận.”
“Nó sẽ không nổ bùm đấy chứ?” Olivia hỏi. “Ông chú Frederick có óc hài hước ghê gớm lắm.”
“Không nguy hiểm gì đâu, thưa tiểu thư,” Nichols nói. “Chỉ là những hình vẽ ở đây cho thấy người Đức thế kỷ mười sáu hoặc mười bảy đã làm ra cái hòm này.”
Nàng không hiểu biết lắm về rương hòm. Mất một lúc nàng mới tiếp nhận được thông tin này. “Người Đức,” nàng nói. “Thế kỷ mười sáu hoặc mười bảy.”
“Gì vậy?” Lisle hỏi nàng. “Sao vẻ mặt em lại thế?”
“Như thế nào cơ?”
“Như thể nó đã nổ bùm vậy.”
Nàng xích lại gần Nichols. “Những chiếc hòm thế này rất nổi tiếng,” nàng nói.
“Phức tạp,” Nichols nói.
“Tinh quái nữa,” nàng nói. “Ông chú Hubert DeLucey, người luôn mở được mọi thứ, nói rằng ông phải mất một ngày mới mở được một cái hòm như thế. Mà đấy là ông có chìa khóa đấy nhé.”
“Đúng vậy đấy, thưa tiểu thư,” Nichols nói, vẫn tiếp tục làm việc chuyên cần và tỉ mẩn. “Không ai muốn vô tình làm hỏng những chiếc hòm như thế này.”
Những ngón tay nàng ngứa ngáy muốn chạm vào nó. Nàng buộc mình phải đứng xa. Trong khi Nichols cẩn thận và kiên nhẫn cạo bỏ lớp đất dày nặng, nàng đi vòng quanh cái hòm, nghiên cứu nó.
Nó dài sáu phân, rộng ba phân, cao ba phân, được làm bắt sắt tây.
Khi Nichols xong xuôi thì mặt trời đang dần lặn xuống.
Cậu quét sạch xung quanh.
Nàng quỳ xuống trước cái hòm. Lisle quỳ bên cạnh nàng. “Những lỗ khóa giả, anh thấy không,” nàng nói. “Và những lỗ khóa ẩn. Những cái khóa ngoài. Chắc hẳn phải bắt đầu từ đó, dĩ nhiên rồi.”
“Ta nghĩ đó là phần dễ nhất,” chàng nói.
“Em cũng hy vọng vậy,” nàng đáp. “Em chỉ mới từng xem một cái giống thế này, và chưa từng có cơ hội thử mở khóa. Người ta hẳn phải mở các khóa theo một trình tự nào đó và xoay các ốc vít, đại loại thế. Ngay cả khi có chìa khóa thì mọi việc cũng chẳng dễ dàng gì, đằng này chúng ta còn không có chìa khóa.”
Lisle nhìn lên cậu đầy tớ. “Chúng ta cần nhiều nến,” chàng nói. “Một lò sưởi. Ta nghĩ chúng ta sẽ ở đây khá lâu đấy.”
Bốn tiếng sau, Olivia ngồi bên bàn, tay chống cằm, nhăn nhó nhìn cái hòm.
Mọi việc tiến triển không tốt lắm.
Sau khi nàng và Lisle cẩn thận phủi sạch bụi và tra dầu vào các ổ khóa, nàng bắt tay vào việc.
Một tiếng đồng hồ đầu tiên trôi qua, chàng bảo Nichols mang bàn ghế vào và đặt cái hòm lên bàn.
Khi giờ thứ hai trôi qua, Bailey mang trà tới cho tất cả bọn họ và một chiếc khăn dày cho cô chủ của mình.
Tới giờ thứ ba, Lisle nói, “Chúng ta nên lên ăn tối.”
“Anh đi đi,” Olivia nói. “Chừng nào còn chưa giải quyết được cái hòm này thì em chưa đi đâu cả.”
Thế là chàng bảo hai Nữ Yêu dùng bữa mà không có họ. Chàng mang sandWich và rượu vang vào phòng bảo vệ.
Olivia thử từng chiếc chìa trong bộ xà tích của nàng, và như vậy nàng phải tra ổ khóa hàng trăm lần. Nàng thử dùng cả cặp tóc, ghim cài váy, tăm, kim và dây sắt.
Giờ đây, sau một tiếng đồng hồ nỗ lực không dẫn tới đâu của nàng, Lisle nói, “Đôi khi ta phải bỏ nó ở đó một lát rồi lúc sau mới quay lại.”
Nàng nói, “Em chưa từng gặp cái khóa nào mà em không mở được.”
Chàng nói, “Em chưa từng gặp cái gì như thế này thì đúng hơn. Em cứ nghĩ nó chỉ là một cái khóa hoặc một bộ khóa. Nhưng nó là một bài toán đó. Dì Daphne đã mất bao nhiêu năm mới giải mã được những ký hiệu của ‘Ramses’ nào?”
“Đây không phải một thứ liên quan đến từ ngữ! Đây là những cái khóa, những mẩu kim loại. Đây là thứ duy nhất em không thể xử lý!” Nàng nghiêng nghiêng đầu và liếc nhìn vào một cái ổ khóa.
“Thật vô nghĩa,” chàng nói. “Em có thể làm đủ thứ kiểu vậy. Vấn đề là em chưa có lối tư duy phù hợp với những câu đố hóc búa như thế này. Nó cần kiểu tư duy bền bỉ, có phương pháp, cần cù. Đầu óc em lúc nào cũng” - chàng vẽ những vòng tròn loạn xị trên không trung - “dễ bị kích động. Đầy cảm xúc.”
Nàng lại ngẩng đầu lên, ánh mắt xanh bắn thẳng về phía chàng như một viên đạn nhức nhối.
“Ý anh là anh có thể giải quyết chuyện này?” nàng hỏi.
“Đến lúc anh nên thử rồi,” chàng nói.
“Không,” nàng nói. “Em có thể làm việc này. Và em có thể làm mà không cần sự giúp đỡ của dân không chuyên.”
Chàng dợm bước ra ngoài. Đi được nửa đường thì chợt thấy gương mặt nàng hiện lên trong tâm trí mình, và lại nghe thấy giọng điệu khinh khi của nàng khi thốt ra từ “dân không chuyên”. Chàng chống tay vào tường nhìn xuống sàn nhà, nhưng không thể kiềm chế được. Chàng bật cười. Cười khanh khách. Cười khanh khách.
Nàng đứng phắt lên. “Đồ đầu đất ngoan cố! Chẳng có gì buồn cười cả.” Chàng tóm lấy nàng, kéo lại, rồi hôn nàng. Nàng giãy giụa nhưng chỉ trong một thoáng. Sau đó nàng vòng hai tay quanh cổ chàng, hôn lại chàng, mạnh mẽ và hoang dại. Một lát sau, cơ thể nàng rung lên, nàng lui ra và cũng cười ngặt nghẽo, âm thanh thấm đẫm vị ngọt ngào ấy vọng khắp căn phòng, dội vào da thịt chàng, xuyên qua trái tim chàng một suối nguồn hạnh phúc.
“Em không làm được việc này,” nàng thừa nhận. Nàng vừa cười vừa giậm chân. “Em sắp bể óc rồi.”
Chàng lại kéo nàng sát vào mình, vuốt tay từ đỉnh đầu xuống những lọn tóc mềm như tơ lụa của nàng. “Có lẽ không phải tại em đâu,” chàng nói. “Có lẽ bộ khóa đã kẹt cứng rồi.”
“Thế thì sao được?” nàng nói. “Phải dùng búa tạ à?”
“Như thế thì em sẽ dễ chịu lắm đấy, nhưng vậy thì phá vỡ mất cái hòm và có thể cả những gì trong đó nữa,” chàng nói. “Chúng ta cần một thợ rèn.”
Đêm hôm đó
“Cô về trễ đấy Mary,” Roy nói, khiến cô hầu gái giật thót mình khi đang bước đi trên con đường trở về căn nhà nhỏ nơi cô sống cùng người anh trai.
“Anh ấy không sao đấy chứ?” cô lo lắng hỏi. “Các anh không...”
“Jock đang chăm sóc anh ta, rất cẩn thận. Nói cho cùng, đâu có muốn chuyện gì xảy ra với ngón tay của anh ta chứ nhỉ. Khi đó thì anh làm việc sao đây? Cái gì khiến cô chậm trễ thế?”
“Hôm nay là Chủ nhật,” cô gái nói. “Hầu hết mọi người đều được nghỉ nửa ngày.”
“Nhưng cô lại không nghỉ. Glaud bảo tôi thế. Lẽ ra cô phải nói với tôi, Mary ạ.”
“Họ trả thêm tiền nếu làm việc nửa ngày nghỉ ấy,” cô gái nói. “Ông biết tôi cần tiền.”
“Và cô phải biết là quán trọ đóng cửa rồi, cô không thể chuồn về nhà mà không nói gì với tôi đâu,” hắn nói. “Nếu là cô hẳn tôi đã nói ra rồi.”
Mary căng thẳng nhìn quanh.
“Không có ai quanh đây đâu,” Roy nói với vẻ mất kiên nhẫn.
“Họ đã... tìm thấy thứ gì đó,” nàng nói. “Tiểu thư và cậu chủ ấy. Mọi người đã đi hết ngoại trừ người hầu riêng của họ và họ không hề nhận ra tôi ở quanh đó. Tôi đã... nghe, đúng như ông muốn.”
“Tôi biết cô đã nghe. Nhưng mà cô đã nghe thấy gì?”
“Họ tìm thấy một cái hòm.”
Roy hít vào thật sâu rồi thở ra. “Rồi sao nữa?”
Mary lại nhìn quanh. Cô vặn vẹo hai bàn tay.
“Tốt nhất cô nên nói với tôi,” Roy nói. “Cô sẽ thấy tốt hơn. Glaud cũng thế, chắc chắn rồi.”
“Họ tìm thấy một cái hòm sắt trong phòng bảo vệ cũ ở tháp Nam và Nichols đã mất nhiều giờ để cạo đất bao quanh, họ không mở được nó nên ngày mai phải đưa tới thợ rèn, tôi chỉ biết đến thế thôi,” cô nói vội vã. “Cho tôi vào nhà, làm ơn. Glaud phải ăn khuya.”
Cô cố đi vượt qua hắn, nhưng hắn tóm lấy cánh tay cô. “Thợ rèn ư,” hắn nói. “Khi nào?”
“Sớm tinh mơ,” cô nói. “Việc ưu tiên số một. Trước khi tin đồn lan ra. Trước khi công nhân tới lâu đài làm việc. Như thế họ có thể đến chỗ thợ rèn ngay khi ông ta mở xưởng, xử lý xong mọi việc và trở về nhà mà không ai hay biết.”
Hắn thả tay cô ra. “Vào trong đi,” hắn nói. “Và nói với Jock tao bảo hắn ra ngoài ngay.”
Cô vội vã vào trong. Một phút sau, Jock ra ngoài. Roy kể lại cho gã nghe.
Thứ Hai ngày tháng Mười
Từ lâu đài tới làng không đến một dặm, một chặng đường ngắn, dù đi chậm. Lisle dắt con ngựa tới buộc vào chiếc xe kéo nhỏ, loại thường dùng vào việc đồng áng lặt vặt. Cái hòm đóng chặt, được phủ cái thảm cũ ở chuồng ngựa, đặt sau xe. Olivia đi bộ bên cạnh xe kéo. Sáng hôm ấy trời xám ngoét và lạnh ngắt, đa số công nhân vẫn chưa ra khỏi nhà. Những người họ gặp trên đường đều cúi đầu tránh rét, chỉ gật đầu chào khi họ đi qua.
Nếu vào một ngày trời sáng sủa hơn, hẳn họ đã dừng lại nhìn chăm chú. Nhưng Lisle và Olivia đã mặc thật ấm chứ không chải chuốt. Nàng mặc chiếc áo choàng nặng trịch đã giữ cho cơ thể ấm vào cái đêm nàng đợi ma. Lisle mặc chiếc áo khoác cũ kỹ nhất, cái mà Nichols đã hơn một lần cố vứt đi. Nó không xứng đáng với Bá tước Lisle, nhưng lại là chiếc áo khoác ấm nhất chàng có. Cơ thể chàng vẫn chưa thích nghi với khí hậu ở đây. Chàng chẳng biết liệu mình có thích nghi nổi hay không nữa.
Dù sao, vẻ bề ngoài của chàng không thu hút sự chú ý của ai.
Nhưng cũng chẳng có nhiều người để thu hút chú ý vào cái giờ tối đen mù đặc này. Mặt trời mới nhô ra khỏi đường chân trời - đấy là nói theo lý thuyết. Những đám mây dày che kín nó, chẳng thể nói được vùng nào trên bầu trời sáng hơn vùng nào nữa.
“Em ổn không?” chàng hỏi.
“Ồ, em ổn,” nàng đáp. “Bailey đã nhồi cho em hàng đống hàng đống quần áo. Quần lót rồi quần chẽn, áo nịt dày cộm rồi cả váy lót bằng len nữa.”
“Cảm ơn vì đã miêu tả chi tiết thế.”
“Ai mà cố lôi em ra khỏi đống quần áo này cũng chết mệt đấy.”
“Đó là một lời thách thức à?”
“Em không nghĩ tới chuyện đó. Nhưng thật là một ý tưởng thú vị đấy.”
“Chúng ta không có thời gian.”
“Chúng ta chưa bao giờ có thời gian.”
“Chúng ta chẳng thể có thời gian.”
“Em mệt mỏi vì đạo đức lắm rồi. Như thế không phải là bản năng. Đấy là chưa kể toàn bộ chuyện này thật không công bằng. Một người phát hiện ra Biển Cảm Xúc, và rồi người ấy chẳng thể làm gì với nó nữa.”
“Người ta nên khám phá ra nó vào đêm tân hôn.”
“Đàn bà nên thế, ý anh là vậy chứ gì. Đàn ông thì cứ việc khám phá ra nó bất kể khi nào họ thích, và khám phá bao nhiêu lần tùy thích. Còn đàn bà chúng em...”
“Không phải thế,” chàng phản đối. “Không phải bất kể khi nào bọn ta thích. Nếu ta được phép khám phá cảm xúc ấy bất kể khi nào ta thích, em nghĩ ta có phải sống trong tình trạng khó chịu này không? Nhưng không, chỉ có em...”
“Anh quá lãng mạn,” nàng ngắt lời.
“Em mới thế,” chàng nói. “Em luôn là người thích ánh nắng, vầng trăng và ngàn sao, và Tình Yêu Bất Tử viết hoa. Anh sẽ là một người chồng hoàn hảo, xin thông báo với em như vậy.”
“Với một cái xác ướp, có lẽ thế.”
Cả hai đều cáu tiết. Thiếu ngủ và kiềm chế nhục cảm khiến họ không vui vẻ gì.
“Anh được thừa kế một thái ấp của Hầu tước và vô khối mẫu đất, nhiều dinh thự và hàng đống tiền,” chàng nói. “Đấy là nếu cha mẹ anh không lãng phí tiền của, đuổi hết nông dân đi khiến gia đình mất hết nguồn thu nhập.”
“Anh nói nghe hấp dẫn quá nhỉ,” nàng nói.
“Tốt. Mỉa mai hay lắm. Đúng là điều người ta cần vào lúc bảy giờ sáng đấy.”
“Gần tám giờ rồi.”
“Ai nói thế? Chẳng có chút ánh nắng nào trong không gian tối bưng này.”
“Anh phải thôi nghĩ về Scotland một cách sai lệch thế đi,” nàng nói. “Anh cần phải chấp nhận nó đúng như bản chất. Theo cách riêng của nó, đây là một nơi tuyệt đẹp. Chỉ có điều không có cát, những con lạc đà hôi hám, và những cái xác ướp còn hôi hám hơn...”
“Và chẳng có cái gì ở đây tan hoang đúng cách cả,” chàng nói. “Nó không thể cứ thế chìm xuống cát một cách duyên dáng. Nhìn cái nhà thờ kia xem.” Chàng khoát tay về phía công trình nham nhở bên tay trái. “Rêu phong và nấm mốc, đá ngả màu đen sì. Một mảnh tường ở đây, mấy mái vòm cửa sổ đằng kia, cây cối mọc ra từ kẽ đá. Người chết được chôn ở dưới nhà thờ này phải không? Chôn rồi quên lãng. Ngay cả nghĩa địa kia...”
Ngay khi ấy chàng nhìn thấy chúng và vội vàng dừng ngựa. “Chạy đi,” chàng nói.
Khi chàng kêu lên, hai người đàn ông đeo mặt nạ vụt hiện ra từ cổng nghĩa địa.
Nàng không chạy mà quay người về phía nghĩa địa khi hai gã đàn ông chạy vụt từ đó ra giữa đường.
Ngựa hoảng sợ lồng lên, cái hòm dốc ra sau. Nó trượt trên thùng xe rồi lăn xuống đường. Một trong hai gã đàn ông chạy tới chỗ nó. Lisle chộp lấy hắn ta, dồn vào thành xe. Hắn cong lưng, huých vai vào người Lisle. Lisle lại túm lấy hắn ta, đánh cho một nhát rồi quẳng qua một bên. Lần này gã đàn ông ngã khuỵu xuống và nằm yên đó.
Olivia rú lên. Lisle quay về hướng nàng. Tên vô lại kia đang vật lộn với nàng. Hắn tóm cánh tay nàng còn nàng thì một tay cố giật mặt nạ của hắn, tay kia đánh hắn, chân đá liên hồi vào mắt cá của hắn.
Lisle hét lên, lao tới tên kẻ cướp.
Olivia gào to, “Coi chừng!”
Một cái gì đó đập vào sau đầu chàng.
Dù đau điếng nhưng chàng vẫn nhìn thấy gương mặt của Olivia, đôi mắt xanh mở to tròn xoe, khuôn miệng há ra thành hình chữ O.
Rồi một dòng biển đen phủ chụp lấy chàng.
“Khôôôôông! Khôôôôông!” Olivia thét lên, điên cuồng chống trả kẻ tấn công để chạy lại chỗ Lisle.
“Mặc xác cô ta đi!” Gã kia kêu to. “Này! Giúp một tay! Cái này nặng cả tấn ấy.”
Gã đàn ông bỏ nàng ra. Olivia chạy tới quỳ bên Lisle. Chàng nằm sóng soài trên mặt đất, bất động. Một vết đỏ nhuộm hồng cổ áo chàng.
“Đừng chết,” nàng kêu lên. “Anh không được chết!”
Nàng ấn ngón tay vào cổ chàng, tìm kiếm mạch máu. Ở đó. Phải. Nàng thở phào. “Lisle?”
Nàng nhìn ra xung quanh. Hai gã đàn ông đã biến mất cùng ngựa và cái xe kéo. Ở đoạn này, con đường cua gấp rồi mất hút. Cây cối um tùm phía bên kia đường. Đây là địa điểm hoàn hảo để phục kích, ẩn mình khỏi tầm nhìn của tòa lâu đài và những cánh đồng xung quanh. Tuy nhiên quanh đây cũng chẳng có ai để mà nhìn. Nhưng nàng hy vọng những người công nhân sẽ sớm đi ngang qua chỗ này.
Giờ là mấy giờ rồi nhỉ? Họ đã nhìn thấy mấy người đàn ông đi trên đường, nhưng chỉ lúc nãy thôi. Từ bấy tới giờ nàng nhớ là không thấy ai đi tới nữa. Nhưng nàng và Lisle vừa rẽ qua khúc cua ấy vừa cãi nhau nên nàng cũng không để ý tới những thứ khác.
“Cứu!” nàng kêu lên. “Có ai giúp với!”
Nàng quay lại Lisle. “Tỉnh đi anh,” nàng nói, cố giữ giọng bình tĩnh. “Anh phải tỉnh lại đấy.”
Nhẹ nhàng, thật nhẹ nhàng nàng trượt bàn tay ra sau đầu chàng, cái đầu tội nghiệp của chàng. Nó nhớp nháp.
Nàng đã thấy gã đàn ông bò dậy phía sau chàng, viên đá lăm lăm trong tay. Nàng gào lên, nhưng hắn quá nhanh, còn Lisle do mải tập trung vào nàng nên phản ứng quá chậm trước lời cảnh báo của nàng.
Rồi mọi thứ như chậm lại. Một khoảnh khắc vô tận: bàn tay cầm viên đá giơ lên... nàng, kêu to... Lisle gập người lại rồi ngã xuống đất.
“Anh phải tỉnh dậy đấy,” nàng nói. Nàng biết một chút về chuyện bị đánh vào đầu. Người bị đánh bất tỉnh càng lâu thì vết thương càng nguy hiểm. “Dậy đi anh!” Nàng vỗ vỗ vào má chàng. Nàng vỗ mạnh hơn.
Chàng nghiêng đầu từ bên này qua bên kia. Mắt chàng mở to. “Cái quái gì vậy?” chàng nói.
“Ôi, L...Lisle.” Nàng gục xuống ngực chàng.
Chàng vòng tay quanh người nàng, “Ôi,” chàng nói. “Ổn rồi.”
“Anh không bao giờ, không bao giờ được chết đâu đấy!” nàng thổn thức. “Em không thể sống thiếu anh!”
“Thật là một thời điểm hay ho để em nhận ra điều đó,” chàng nói khẽ.
Đại sảnh, lâu đài Gorewood
“Sao chúng biết được nhỉ?” Lisle nói. Chàng ngồi trên chiếc ghế gần lò sưởi. Nichols lau vết thương cho chàng và dán một miếng gạc lên đó, Olivia và hai quý bà ngồi quan sát.
Olivia đã sơ cứu cho chàng, nhưng nàng nghĩ tốt nhất nên để một người hầu cận xử lý những việc như thế này. Tuy nhiên nàng ngồi bên phải Lisle để quan sát, và để đảm bảo vết thương không tệ hơn như những gì hai người đàn ông nói. Khi cuối cùng đám thợ cũng đi qua và đặt chàng nằm lên một chiếc xe đẩy, mới đầu nhìn vết thương thật khủng khiếp. Lisle kịch liệt phản đối bị đặt lên xe, nhưng đám thợ không chịu để chàng đi bộ. Họ phớt lờ lời kêu ca của chàng. Nàng đi theo sau, tim đập thình thịch suốt dọc đường trở lại lâu đài.
Dù có vẻ cơ thể chàng vẫn mạnh khỏe như thường nhưng tâm trí nàng vẫn không nguôi nghĩ tới giây phút gã đàn ông tấn công chàng bằng viên đá, cứ tưởng chàng đã chết rồi.
Giờ vết thương đã được lau sạch, nàng có thể hiểu tại sao hai người lại xem nhẹ nó như thế.
Lisle đã đội mũ, tóc chàng lại dày. Viên đá sượt qua da khiến đầu chàng chảy máu, mà một chút máu cũng đủ gây nên cảnh hỗn loạn.
Tuy nhiên, nàng vẫn thấy run rẩy.
“Ta biết là tin đồn lan nhanh,” chàng nói tiếp, “nhưng chuyện này kỳ quái thật. Tận khuya đêm qua chúng ta mới lên kế hoạch. Ngoài Nichols, Bailey, Herrick, ai biết chúng ta đi trên đoạn đường ấy vào giờ đó nữa nhỉ?”
“Câu hỏi không phải là ai biết mà là bằng cách nào những kẻ tấn công chúng ta lại biết,” Olivia nói.
Herrick bước vào. “Thưa ngài, người hầu đi tìm kiếm vừa quay về. Tôi rất tiếc phải thông báo là họ không tìm thấy bọn côn đồ cũng như cái hòm.”
“Ta không nghĩ họ có thể bắt được chúng,” Lisle nói. “Nếu không có người đàn ông nằm trên đường ấy...”
“Glaud Millar, thưa ngài. Thợ chữa giày của làng. Hầu như đêm nào cũng say xỉn nhưng sáng nào cũng ngủ ngon ở nhà.”
Olivia nhìn lên người quản gia. “Ông nghĩ ai đó đã giúp anh ta nằm say như chết trên đường sáng nay?” nàng hỏi.
“Tôi thấy sự trùng hợp này thật đáng nghi ngờ, thưa tiểu thư.”
“Ta cũng thấy vậy,” Lisle nói. “Chuyện đó khiến thợ thuyền của chúng ta tới trễ và cho bọn tấn công thời gian bỏ trốn. Giờ chúng đã tới Edinburgh rồi.”
“Tôi thì nghĩ chưa chắc đã vậy đâu, thưa ngài,” Herrick đáp.
“Chúng lấy hòm và xe kéo và ngựa của chúng ta,” Lisle nói. “Sao chúng lại không tới Edinburgh?”
“Thưa ngài, chúng tôi rất lấy làm xin lỗi về tình hình tội phạm quanh đây. Chúng không phải những kẻ thông minh nhất. Nhưng tôi tin ngay cả chúng cũng không liều mạng xuống đường để đi tới nơi mà ai cũng nghĩ chúng sẽ tới. Hơn nữa, mọi người sẽ để ý nếu hai gã hàng xóm đột ngột biến mất. Nếu được phép, tôi xin đề nghị chúng ta nên tìm kiếm trong làng trước đã.”
Trong khi đó, trong một bụi cây cách nhà thờ đổ nát mấy mét, Jock buồn bã nhìn con ngựa ăn trộm.
“Cái hòm thì khá an toàn rồi,” Roy nói. “Giờ tất cả những gì chúng ta phải làm là chờ đợi cho tới khi mọi chuyện lắng xuống.”
“Nhưng chúng ta có thể tới Edinburgh mà,” Jock nói, “một người ngồi trên ngựa, một người trên xe với cái hòm.”
“Trong cùng cái ngày mà con trai chủ thái ấp lãnh một hòn đá vào đầu còn ngựa, xe và hòm của anh ta bị trộm ư? Trong khi vô khối người đang tìm kiếm con ngựa, xe và hòm ấy trên mọi nẻo đường ấy hả? Và chú mày nghĩ ở Edinburgh hôm nay có ai dám nhận đồ ăn cắp khi mà cả thế giới này đang đi tìm nó hả?”
“Nếu Mary nói, bọn chúng sẽ biết thủ phạm là chúng ta.”
“Còn một lý do nữa,” Roy nói. “Nếu chúng ta đi Edinburgh, cô ta sẽ thấy an toàn, và thoải mái kể ra mọi chuyện. Nhưng khi cô ta thấy chúng ta ở Crooked Crook tối nay, ngồi bên Glaud như thường lệ, cô ta sẽ ngậm miệng lại.”
“Chuyện gì sẽ xảy ra nếu không sớm thì muộn cô ta cũng khai? Tên khốn Herrick...”
“Một giọt máu đào hơn ao nước lã,” Roy nói. “Mày biết cô ta đối với anh trai mình thế nào rồi đấy. Cô ta sẽ không dám liều mạng để gã bị tổn thương gì đâu. Một khi chúng ta còn ở đây, cô nàng sẽ không dám hé răng. Rồi chúng ta sẽ đợi mọi chuyện lắng xuống, dần dần chúng ta sẽ tìm một con ngựa và xe tốt, rồi đóng gói các rương đồ đạc - để cái hòm ở một trong mấy cái rương ấy - và lên đường đi Edinburgh. Hoặc có thể là Glasgow.” Hắn suy nghĩ. “Ta biết mấy anh em ở đó. Chắc bọn họ không biết chuyện xảy ra ở đây đâu. Chúng ta sẽ tới đó.”
“Bây giờ ư?” Jock hỏi với vẻ hy vọng.
Roy liếc nhìn qua con ngựa đang lặng lẽ gặm cỏ.
“Quá liều lĩnh,” Roy đáp. “Nhưng sớm thôi. Ngay khi chúng ta có ngựa và xe mới. Cứ để con ngựa này lang thang về nhà khi nó muốn.”