...
Xã hội nào cũng vậy, ngoài một số ngành nghề sản xuất trọng yếu, trực tiếp tạo ra sản phẩm, thì song song cùng tồn tại với chúng, là những công việc ít người để ý, thậm chí không tên, và đồng thời, rất kén nhân lực.
“Tinh Cầu này rộng lớn, xét riêng trong nội bộ Nhân tộc phàm nhân thôi đã có vô số quốc gia, vùng lãnh thổ khác nhau. Đơn vị chủ quyền nhỏ nhất, gọi là Thành, dựa theo đánh giá về diện tích, dân số mà được chia ba cấp độ tiểu - trung - đại, người đứng đầu đương nhiên là Thành Chủ. Tỉ dụ, Giang Thành có thể xếp vào trung cấp, còn Cam Thành thì chỉ cỡ tiểu thôi...”
Trên hai tay trái phải của Nặc lão, phân biệt là hình ảnh hai toà Thành đang chầm chậm xoay, liền biểu thị rõ sự tương quan chênh lệch kích thước, quy mô, cũng như cách tổ chức giữa đôi bên. Thấy Lạc Thạch gật gù, lão mỉm cười tiếp tục.
“Chiếm giữ và thống nhất được từ ba cái Đại Thành trở lên, thì mới thành lập nên một Quốc gia tiểu cấp, năm cái - trung cấp, bảy cái - đại cấp. Tới cái thứ mười một, bắt đầu xuất hiện khái niệm Đế Quốc...”
Cảnh Môn, thực chất chỉ nhỉnh hơn Thập Minh chút ít, tức chỉ là Đế Quốc tiểu cấp. Trên nó, chắc chắn vẫn còn có trung, đại, nhiều Đế Quốc khác nữa, bất quá, bây giờ cũng chưa cần thiết để gã tìm hiểu sâu hơn.
Phương pháp phân chia thành trấn, quốc gia, ổn định như hiện tại thì cũng mới phổ biến hai ba ngàn năm gần đây, còn trước đó, hình thái bộ lạc, bộ tộc chiếm đa số. Nhận thức đã lạc hậu, thêm vào tập quán cố hữu, nên họ sống chủ yếu theo kiểu du mục, di chuyển liên tục khắp nơi. Chính vì thế, đến khi bắt đầu quyết định chọn đất an cư, xây tường dựng luỹ, liền phát sinh rất nhiều vấn đề mà trước nay họ chưa từng trải qua, đơn cử, nổi lên hai ngành nghề lạ lẫm nhưng vô cùng bức thiết, xử lý chất thải, và tử thi.
Dân du mục hoàn toàn thiếu kinh nghiệm trong những việc này, bởi sau mỗi một khoảng thời gian, họ lại vứt bỏ mọi thứ không thể mang theo để lên đường; rác rến, xác người và động vật, thậm chí, tộc nhân hay gia súc nếu bệnh tật, già yếu cũng đều chịu chung số phận.
“Nguồn cơn bệnh tật, hầu hết xuất phát từ những thứ đó. Nặc gia nghiên cứu, ngoài chữa trị, thì còn cả cách phòng chống nữa. Thế nên, ngay từ những ngày đầu, gia tộc lão phu đã rất chú trọng vào hai vấn đề phức tạp, nhưng không phải ai cũng biết và muốn biết này...”
Tảo Phu và Táng Phu, hai khái niệm nhằm ám chỉ những người hành nghề dọn dẹp, quanh năm suốt tháng tiếp xúc với toàn các vật hết hạn bỏ đi, kẻ ngoại đạo thậm chí còn chẳng nhận thức được sự đóng góp âm thầm của họ.
Tuy nhiên, Nặc gia lại không nằm trong số đó.
”Muốn việc điều trị được hiệu quả, thì luôn phải đi kèm với môi trường sạch sẽ, bệnh căn sẽ khó sinh sôi và lây lan hơn. Còn muốn diệt tận gốc, hoặc phong thật kín cơn dịch...”
Nặc lão vuốt vuốt râu, nói tới đây, mục quang liền toát lên vẻ lạnh lẽo, khiến Lạc Thạch đang tập trung lắng nghe, cũng vô thức lạnh cả sống lưng “... Chết do bệnh, xác chính là ổ dich, dân đen ngu dốt, thiếu kiến thức để xử lý, lập tức gây hoạ lớn, nhưng đồng thời, chúng cũng là trân tàng của Y Thuật Sư”.
“Tảo Phu lo xú uế, Táng Phu dọn tử thi. Mọi người có ai từng nghe qua chưa?”
Lạc Nhiễm vỗ vỗ tay thu hút sự chú ý, bọn trẻ đứa gật đứa lắc, Lạc Niên đồng thanh lên tiếng phụ hoạ.
“Chuyên lo sổ sách thu chi nên ta biết nè. Tảo phí và Táng phí thường niên của Lạc Dược Trai không nhỏ đâu a...”
“Đúng vậy, Trai chúng ta, hành y cứu người, lẽ đương nhiên sẽ phải thường xuyên chứng kiến những cảnh, vì bệnh tình quá nặng mà qua đời. Bá mẫu nhân từ, nên đã đề ra quy định, nếu chúng ta vô năng chữa trị, vậy liền lo cho họ tử tuất chu toàn. Từ đó, hiểu Táng Phu gần như bằng hữu lặng lẽ, còn táng mộ thì tương đương sân sau của Lạc gia chúng ta, cũng không sai a...”
Ở vào thời kỳ đầu mới lập nên thành ấp, do tình trạng bẩn thỉu mất kiểm soát, bắt nguồn từ chính sinh hoạt hằng ngày, khiến bệnh truyền nhiễm cứ thế hoành hành bá đạo, xác chết chồng chất cao thành đống lớn, mùi hôi thối kinh khủng, bốc lên như nhuộm xám nghoét cả bầu trời.
“Thiên Địa nhiễu nhương, ắt đản sinh yêu nghiệt. Phàm nhân khinh nhờn, tác oai tác quái, phá hoại cân bằng, lập tức gặp phải cắn trả. Từ những bãi uế thải khổng lồ tích tụ, dần hình thành Kiền Dịch () tù đọng...”
Lạc Nhiễm hùng hồn dang rộng hai tay, mặt đầy biểu cảm, thể hiện cái mức độ to lớn của thứ nó đang nhắc đến trong câu chuyện.
Khu vực Nam Cương tồn tại một loài phi trùng đặc trưng, tuy nhỏ bé nhưng sinh sôi nảy nở rất nhanh, môi trường nóng ẩm thì cực kỳ lý tưởng cho chúng phát triển, có tên Ban Văn (). Bình thường, chúng cũng chỉ chuyên hút nhựa cây làm thức ăn, rồi tìm ao tù nước đọng đẻ trứng, là kết thúc vòng đời. Bất quá, nếu Ban Văn đẻ trứng nhằm trúng Kiền Dịch, thế hệ sau liền tiến hoá thành Huyết Ban Văn, nhu cầu dinh dưỡng thay đổi, lại chuyển sang thích hút máu người.
“Huyết Ban Văn khủng bố lắm đó, huynh đệ tỷ muội nghe nó bé vậy nhưng chớ khinh thường nha. Nếu bị đốt, sau khi hút máu xong, chúng bơm ngược Kiền Tố vào nạn nhân, gây ra triệu chứng mất nước vô cùng quái dị. Càng bị đốt nhiều, càng mất nước nhanh, uống bổ sung bao nhiêu cơ thể cũng không thể giữ nổi, đến tận lúc khô kiệt mà chết mới thôi...”
Bọn trẻ trợn mắt le lưỡi, trong đầu hiện lên cái cảnh bị bu kín bởi cả mấy ngàn con Huyết Ban Văn, thì đều rùng mình cảm thán.
“Mọi người không cần phải lo lắng quá, hiện nay Tảo Phu đang làm rất tốt công việc của mình, hạn chế tối đa Kiền Dịch xuất hiện, nên Huyết Ban Văn cũng khó có thể khởi tạo nạn dịch...”
“Nhiễm đệ, nãy giờ đệ cứ kể về Ban Văn, đừng bảo với chúng ta, Ngũ Ương là cái thứ này nha...” Lạc Kỷ bỗng cất tiếng hỏi, xong ngưng lại ngó quanh, bắt gặp ánh mắt chú mục của mọi người, bèn e hèm mấy cái, đặng tiếp lời “... Là Tiểu Niệm...”
“Í ẹ!” Lạc Phấn là đứa tiếp theo kêu lên, giọng khá là thấp thỏm lo lắng “Eo, nếu là Ban Văn, vậy làm sao ăn?!”
“Mấy đứa này, tự nghĩ bản thân là mọi rợ sao?”
Phiên bà bà chợt ngắt lời, nụ cười tủm tỉm trên khuôn mặt béo núc rung rinh, rồi quay ra, nháy mắt với Lạc Nhiễm còn đang luống cuống, đoạn giải vây.
“Huyết Ban Văn có Kiền Độc, không thể ăn. Bất quá, bà bà nói mấy đứa nghe, sống trong Kiền Dịch, còn có trạch Kim Tu (), khoái ăn trứng Ban Văn. Ngày xưa, tổ tiên chúng ta đều biết nuôi Kim Tu Trạch để diệt tận gốc ‘Kiền Nạn’, hay còn kêu Ngũ Ương đó. Thứ đêm nay được cho vào, thì đương nhiên là Kim Tu Trạch rồi...”
“Đúng a, đúng a...” Lạc Nhiễm lắp bắp, gật lia lịa. Lần đầu đạt được sự chú mục của mọi người, và cũng là lần đầu gặp phải phản ứng như vậy, nên chữ nghĩa bay hết, may nhờ Phiên bà bà đỡ lời. Nó dần lấy lại bình tĩnh, điều chỉnh vốn kiến thức trong đầu, ho húng hắng mấy cái, rồi mới tiếp tục.
“Kim Tu Trạch, còn được ví von là ‘gà bùn’, bởi chất thịt trắng mịn mềm mại, nhưng không bở không tanh, vị giống với gà mơ loại ngon. Chúng thường chui rúc dưới bùn nơi đáy những con sông cạn, nên ở Nam Cương cũng không phải quá hiếm...”
Kim Tu Trạch liên tục tiết dịch nhầy bên ngoài da, tạo lớp màng cách ly bao bọc toàn thân, mang hai tác dụng chính: giữ ẩm, kể cả khi chúng nhảy lên bờ, liền có thể sống sót thêm nửa ngày nữa, và chống độc tố, tạp chất xâm nhập, nên dẫu quanh năm vùi mình trong bùn thối, thịt Kim Tu Trạch vẫn hết sức bùi thơm. Chúng bẩm sinh lại là thiên địch của các loài ký trùng đẻ trứng trong ao tù, bùn lầy, nên dễ nuôi dễ lớn, cùng với gia súc gia cầm chăn thả trên cạn, cũng đóng góp phần lớn vào nhu cầu ‘nạp đạm’ của phàm nhân.bg-ssp-{height:px}
“Loài cá này đặc điểm lạ lắm nha. Lúc mới nở, râu và da bọn chúng đều có màu nâu bùn, trưởng thành râu mới chuyển sắc vàng kim bóng bẩy, nên mới được gọi là Kim Tu đấy...”
Nỗi sợ Huyết Ban Văn của lũ trẻ đã qua đi, thay vào đó, tiếng bàn luận xì xào bắt đầu râm ran, khiến Lạc Nhiễm thầm nhẹ thở phào một cái. Gì chứ, Kim Tu Trạch thì quá quen thuộc rồi, thỉnh thoảng trong Trai, chúng vẫn được ăn món này, quả thật, ‘gà bùn’ xứng danh mỹ thực phương Nam.
Đã gần nửa đêm, mưa xuân càng nặng hạt, đêm cúng thứ tư chuẩn bị bắt đầu, mọi người lại hướng bếp lửa, im lặng cầu bình an.
...
Bầu trời Noạ Bức Sơn, sấm nổi ầm ĩ, mây xám kéo về kín đặc trên đầu. Lôi điện chớp giật, cuồng phong thịnh nộ thét gào, Khinh Vũ chẳng thấy đâu, chỉ có một vùng giông tố đang quần nát thiên không.
Mục tử đậu trên vách đá tại một hang động u tối, cách biệt với gió bão bên ngoài, im lìm chìm trong Thổ Nạp, vòng Nội Ngã Chu Thiên nhịp nhàng xoay chuyển.
Thú tộc cũng sử dụng Nguyên lực để tu luyện, nên Thú Tu Ngũ Cảnh tương tự Nhân Tu, cùng có năm cảnh giới để bước vào: Hoán Cốt, Tẩy Tuỷ, Dựng Khí, Lập Thần, Tụ Tinh, nhưng vẫn mang chút sai khác ‘nho nhỏ’.
Dựng Khí Cảnh giúp ngưng tụ Nội Đan, nền móng cơ bản cho Tu Nguyên Giả tu luyện về sau, đối với Nhân tộc thì là Tụ Khí Châu, còn Thú tộc, lại tạo ra Ngạ Thú Đan.
Bên trong không gian Khí Hải Huyệt, tia Tinh Hồn Nội Thị của Mục tử mờ ảo phiêu phù, chăm chú ngắm quả cầu lơ lửng ở chính giữa, đương chầm chậm xoay. Tạp khí theo Chu Thiên vận hành chạy khắp cơ thể, Nguyên lực từ đó được tinh lọc ra, chảy về Khí Hải, khiến phần đáy đan điền manh nha xuất hiện chất lạ, trông tựa sương trắng bạc, bất tụ bất tán, cứ thế sóng sánh dập dềnh.
Ngạ Thú Đan nhìn thoáng qua giống như khối thịt tròn đỏ hỏn, thớ gân đan xen nổi lên, thi thoảng lại phập phồng, và đặc biệt là, trên bề mặt nó tồn tại một cái khe nứt nhỏ, co giãn cử động tuần hoàn, trùng khớp với nhịp ‘hô hấp’ của viên nhục cầu.
“Khai Khẩu...” ‘Mục tử’ lẩm bẩm, rồi bất chợt, mắt lấp loé tinh quang, đoạn đề thăng sức tập trung “... Thử Nha ()”.
Đồng thời theo mệnh lệnh, khe nứt kia lập tức mở rộng, để lộ ra thứ nhọn hoắt bên trong - một chiếc răng giống như của dã thú đã cứng cáp thành hình. Ngân vụ từ bên dưới đan điền tự động cuốn lên, cái miệng liền tham lam há to, ngoạm lấy miếng lớn, cả quả Ngạ Thú Đan khẽ rung rinh hưởng ứng đầy khoan khoái.
Điểm phân biệt giữa Thú Tộc và Nhân Tộc nói riêng, và các Đại Tộc khác nói chung, ảnh hưởng vô cùng rõ rệt tới con đường tu tập về sau, qua đó hình thành nên phong cách chiến đấu đặc trưng của mỗi bên, đều hoàn toàn nằm ở cái viên Nội Đan này. Chỉ cần nhìn thôi, cũng đủ cảm thấy Ngạ Thú Đan ngập tràn Thú tính, cắn nuốt Nguyên khí cực kỳ dữ dội.
Thú Tộc, càng chiến càng cuồng, không hẳn là không có lý do.
...
“Nhị ca, nhị ca... Nguy rồi!” Tiếng Noạ Bức Vương bỗng vang lên trong đầu Mục tử, khiến nó đành rời khỏi Nội Thị, sử dụng Viễn Lý Hồn Giao đáp lời, giọng pha lẫn bực dọc.
“Mau nói! Nếu không phải tin khẩn yếu, vậy lũ dơi các ngươi nhổ sẵn lông đợi đi...”
“Thực sự nguy to, nhị ca, cơn bão ngoài kia, mỗi giờ lại mạnh hơn một chút, bọn đệ sắp tới cực hạn rồi... Hức hức”
Mục tử trầm ngâm, Đại Bức tiếp tục kêu váng.
“Thêm nữa, không hiểu sao, Nhục Mễ đã bắt đầu có dấu hiệu bước vào giai đoạn chín nẫu, dần nhỏng cao. Chúng sắp sửa hoá bướm đến nơi a...”
Nhục Mễ vốn không phải thực vật, ‘chín nẫu’, tức ám chỉ Sô Điệp chuẩn bị thành công biến thái, phá kén chui ra, thời điểm đó Nhục Mễ sẽ mất hết giá trị. Biểu hiện dễ thấy nhất, chính là trạng thái ngóc lên, trực bay đi của chúng; lúa chín thì cúi đầu, còn đám ‘gạo thịt’ vàng ươm kia, hoàn toàn ngược lại.
“Cái gì? Khốn kiếp, lúc nào không chín, sao lại chọn ngay lúc này?”
Nó trợn mắt chấn kinh, chửi đổng mấy câu, rồi vội vàng lướt khỏi hang. Gió cứa vào mặt đau buốt, dẫu cho lớp lông vũ của bạch kiêu khá dày, nhưng vẫn khiến Mục tử rùng mình.
Tiếng sấm rền gõ vào màng nhĩ, lôi vân dập dờn, từng tia sét rơi xuống rạch nát thinh không, nó ngây người, trong đồng tử dần dâng đầy hung tượng.
Ba đàn Noạ Bức đang miệt mài duy trì tường dơi, chao liệng theo quỹ đạo uốn lượn kỳ dị, nhưng trước cơn bão điên loạn ngoài kia, dường như cũng không thấm vào đâu. Mặc dù huy động toàn bộ số dơi trên núi, áp dụng cả biện pháp xa luân chiến, nhưng mới chỉ một ngày đêm liên tục quần thảo, chúng đã chạm mức giới hạn chịu đựng.
Nhị Bức và Tiểu Bức thấy cứu tinh xuất hiện, thì đồng thời kêu toáng cầu cứu, bất quá, Mục tử vẫn ngơ ngác nãy giờ, mắt vô thần hướng bầu trời vần vũ, đoạn thẫn thờ lẩm bẩm.
“Cảnh tượng này...”
(): chất thải lỏng.
(): con muỗi vằn.
(): râu vàng.
(): nhe răng.