Không biết rốt cuộc là Bồ Tát ở chùa Phúc Duyên linh nghiệm, hay là lời vàng ý ngọc của Tề Thịnh hiệu nghiệm, sau khi từ Thúy Sơn trở về, bà dì xuất hiện đều đặn hàng tháng của tôi quả thực không đến viếng thăm nữa.
Thư kí Tả Ý nhớ những chuyện này còn rõ hơn tôi, mỗi ngày đều bấm đốt ngón tay tính toán mấy lần. Đến giữa tháng Bảy, cuối cùng không kiên trì được nữa, bèn kiến nghị với tôi bằng giọng run run: “Nương nương, hay là gọi Tống thái y đến bắt mạch đi, có lẽ đã có tiểu điện hạ rồi đấy ạ!”
Tôi nhìn cô đếm đi đếm lại đã mấy lần, liền gật đầu.
Tả Ý thấy tôi ưng thuận, vội quay người sai Phúc nhi, người nhanh nhẹn nhất chỗ tôi, đến Thái y viện mới Tống thái y.
Tôi còn chưa gặm xong miếng dưa hấu thì Phúc nhi đã đưa Tống thái y đang thở hổn hển chạy vào điện.
Tả Ý mang tới cho tôi một cái gối để đặt tay lên đó.
Mọi người trong phòng căng thẳng nhìn Tống thái y, mong đợi ông ta sẽ nói ra tin mừng kia.
Tống thái y một tay vân về chòm râu, cúi đầu trầm ngâm một lát rồi mới đưa mắt nhìn tôi, nói với vẻ bình thản: “Xin nương nương đổi tay kia”.
Mọi người nín thở, suýt nữa thì ngã cả xuống.
Chỉ duy có tôi là vẫn bình tĩnh, nhanh chóng đổi tay kia.
Tống thái y lại bắt mạch cẩn thận, một lúc lâu sau rồi mới đứng dậy, từ từ quỳ xuống trước tôi: “Chúc mừng nương nương, nương nương có thai rồi ạ”.
Hay rồi, cả cung Hưng Thánh bỗng “ồ” lên. Chưa đến nửa ngày sau thì cả hậu cung cũng “ồ” lên. Hoàng hậu vừa sinh chưa được một năm, giờ đã lại có thai, tình cảm của Hoàng thượng và Hoàng hậu thật thắm thiết biết bao. Ai còn dám nói Hoàng hậu không được sủng ái nữa, không được sủng ái mà ba năm hai lần mang thai sao?
Tề Thịnh biết tin đến thăm tôi, ánh mắt dừng lại trên bụng tôi một lát rồi ghé sát vào tai tôi, hạ giọng trêu: “Đúng là một mảnh đất tốt”.
Tôi khiêm tốn đáp: “Chủ yếu là nhờ có trâu tốt”.
Tề Thịnh trợn tròn mắt, đưa tay ôm lấy eo tôi, vùi đầu vào hõm vai tôi bật cười. Thấy các cung nữ vẫn đang đứng trong điện, tôi dùng cái quạt trong tay gõ nhẹ lên vai Tề Thịnh, nói với vẻ nghiêm túc: “Chú ý hình ảnh”.
Tề Thịnh vẫn ôm tôi thêm một lúc nữa rồi mới buông ra, đỡ tôi ngồi xuống ghế mềm bên cạnh.
Tôi thấy tâm trạng của Tề Thịnh rất tốt, cân nhắc một lát rồi ra hiệu cho đám cung nữ trong điện lui ra, sau đó thương lượng với anh ta: “Thần thiếp mang thai rồi, trước mắt sợ không thể hầu hạ Hoàng thượng được, chi bằng sắp xếp lại thứ tự cho các cung để mọi người đều thoải mái, sau này không lộn xộn nữa”.
Tề Thịnh không nói gì.
Tôi nhìn điệu bộ biết anh ta hẳn không vui vẻ, nhưng vì không muốn để mình trở thành mục tiêu công kích của đám đông, tôi chỉ còn cách liều mạng đẩy anh ta đi chỗ khác. Cho dù không phải phi tần của hậu cung thì chí ít cũng để anh ta ở lại cung Đại Minh trông coi Giang Thị.
Tôi quan sát kỹ sắc mặt của Tề Thịnh, khẽ cắn môi rồi lại nói: “Cổ nhân chẳng phải đã nói, không nhìn những gì bất chính, không nghe những tiếng dâm thanh, không nói những lời kiêu ngạo, như vậy mới có thể dưỡng thai được, cho nên…”.
Tề Thịnh ngắt lời tôi: “Nàng thấy ta chiếm phần bất chính hay là dâm thanh?”.
Tôi không khỏi ngớ người trước câu hỏi của Tề Thịnh, chỉ còn biết cúi đầu ấp a ấp úng.
Tề Thịnh lạnh lùng hừ một tiếng: “Nàng đừng cho rằng ta không biết suy nghĩ của nàng, nhưng việc gì cũng có giới hạn của có, nếu thái quá thì đến cùng sẽ không giải quyết được hậu quả đâu”.
Nói xong Tề Thịnh liền đứng dậy ra về.
Kể từ sau khi Tề Thịnh đăng cơ thì cái cảnh người phủi tay áo bỏ đi trước một lời nói không hợp ý mình đã lâu lắm rồi không thấy nữa. Nhìn dáng vẻ tức giận của Tề Thịnh khuất dần ngoài cửa điện, tự nhiên tôi thấy anh ta thế này đáng yêu hơn, cũng cảm thấy yên tâm hơn.
Theo thông lệ, Tề Thịnh một khi đã nổi giận thì vài ngày sau sẽ không ngó ngàng gì đến tôi. Không ngờ, lần này vừa ra về, ngay chiều hôm đó anh ta đã sai người mang đến cho tôi Tứ thư Ngũ kinh và vài chồng binh thư, sử thư, còn đặc biệt truyền khẩu dụ, để nuôi dạy con từ trong bụng mẹ, tôi nhất định phải đọc những cuốn sách đó, thuộc lòng được thì càng tốt.
Tôi lật Binh thư, nhìn lại Sử thư, A di đà Phật, người đến một câu chuyện trong này còn không đọc được như tôi mà anh ta lại bảo học thuộc! Tề Thịnh ơi là Tề Thịnh, anh muốn gián tiếp giết tôi phải không?
Tiểu nội thị mang sách đến nhìn tôi với vẻ mặt thông cảm, an ủi: “Nương nương không cần lo lắng. Hoàng thượng đưa ra những quyển sách này để nương nương dưỡng thai, nếu như không muốn xem, nương nương bảo người khác đọc cho nghe là được. Tất cả cũng chỉ vì muốn tốt cho tiểu điện hạ thôi ạ”.
Tôi gật đầu, tự mình đọc thì như trúng thuốc mê, để người khác đọc cho nghe thì sẽ như được thưởng thức nhạc khúc cho tâm hồn rồi.
Tiểu nội thị lại chỉ vào hai ma ma vẫn đang cúi đầu đứng ở bên cạnh, nói: “Hoàng thượng còn bảo nô tì đưa Ngô thị và Dương thị đến, nói họ đều là những người đã từng hầu hạ Hoàng hậu nương nương lúc sinh công chúa Vĩ Nguyên, nương nương dùng họ cũng quen thuộc hơn”.
Bị mấy chồng sách đè nén, tinh thần tôi vẫn chưa hồi phục lại nên lúc này nghe nói vậy chỉ gật đầu, nhìn hai người này cũng quen mặt, liền bảo Tả Ý đưa họ đi sắp xếp chỗ ăn ở.
Đêm hôm đó tôi đích thân đến cung Đại Minh tạ tội với Tề Thịnh: “Thần thiếp sai rồi”.
Tề Thịnh đưa mắt nhìn tôi, hỏi: “Thật biết sai rồi chứ?”.
Tôi thành thật gật đầu: “Thực sự biết sai rồi ạ”.
Tề Thịnh lại hỏi: “Sai ở đâu?”.
Với thái độ thành khẩn, tôi đáp: “Chỗ nào cũng sai”.
Tề Thịnh nghe xong khẽ hừ một tiếng lạnh lùng, lại cầm tấu chương lên, cúi đầu xem.
Tôi thấy vậy biết là không ổn, suy nghĩ một lát đổi giọng: “Thần thiếp sai ở chỗ bên cạnh có đại thụ mà không biết dựa vào, lại muốn tự mình vác mấy cây củi với viên đá lừa đi dựng lều che nắng”.
Tề Thịnh lúc này mới cười, bỏ tấu chương xuống, đứng dậy nói: “Đi nào”.
Tôi sững sờ: “Đi đâu ạ?”.
Tề Thịnh kéo tay tôi đi ra ngoài, đầu hơi cúi xuống nhìn tôi, trong mắt có chút khinh thường, trả lời đơn giản nhưng dứt khoát: “Đến cung của nàng!”.
Lúc đó tôi không hiểu, anh ta đến cung của tôi thì cứ việc đến, tại sao trong mắt lại hiện vẻ khinh thường? Nhưng đến khi Tề Thịnh quẳng một tập Sử thư ra trước mặt tôi thì tôi lập tức hiểu ra.
Tề Thịnh đã thay thường phục, dựa vào ghế mềm cạnh cửa sổ với vẻ lười biếng, nói giọng ông lớn: “Đọc một đoạn nghe nào”.
Nụ cười như có như không trên mặt đã tố cáo anh ta. Chẳng cần đoán cũng biết, anh ta đang nhớ đến tình cảnh tôi đọc quyển giới thiệu người nhà họ Trương trước đây.
Hẳn là anh ta lại muốn lôi tôi ra làm trò vui rồi.
Tôi lật tập Sử thư từ đầu đến cuối không có lấy một chữ cái dấu câu nào trước mặt, nói với vẻ rất lạnh lùng: “Thiếp cảm thấy đọc cái này không bằng đi học nữ công gia chánh. Biết đâu lại là con gái cũng nên”.
Tề Thịnh nhướng mày lên cười cười, rút quyển sách khỏi tay tôi, nói: “Cũng được, vậy mời Hoàng hậu thêu hà bao cho trẫm, nhân tiện tu thân dưỡng tính luôn”.
Nhìn anh ta cười tít đến nỗi chẳng thấy tổ quốc đâu, tôi mới chợt hiểu, thì ra cái bẫy đang ở đây chờ tôi.
Tôi lén thương lượng với Tả Ý, nhờ cô bí mật giúp tôi thêu hà bao cho Tề Thịnh.
Tả Ý lúc đầu từ chối vì thêu không đẹp, tôi nghe thấy thế rất vừa lòng, nói: Như vậy càng tốt, ngươi mà tìm một người có tay nghề tinh xảo đến thì dù ta có tin, Tề Thịnh cũng sẽ không tin đâu!
Tả Ý bị tôi dồn ép đến rối cả lên, gạt nước mắt nói: “Nương nương, Hoàng thượng nào thiếu gì hà bao, cái mà ngài muốn là tấm lòng của nương nương. Nếu Hoàng thượng biết hà bao là do nô tì thêu thế nào cũng sẽ trút giận lên nô tì, cái mạng nhỏ của nô tì khó mà giữ được!”.
Thế rồi Tả Ý khóc như mưa, trông thật đáng thương, tôi không muốn lại làm ra chuyện gì ảnh hưởng đến mạng người nên đành thôi.
Nhưng nếu bảo tôi cầm kim lên thêu hà bao thì thà để tôi mò từng chữ một trong mấy tập Sử thư kia còn hơn.
Áp lực tinh thần lớn, chuyện ăn uống của tôi lập tức có vấn đề, thỉnh thoảng lại buồn nôn, món ăn không hợp khẩu vị cũng có thể khiến tôi nôn ra cả mật xanh mật vàng.
Có một lần đúng lúc Tề Thịnh ở bên cạnh, thấy cảnh ấy sắc mặt lập tức thay đổi, vừa giúp tôi vỗ lưng, vừa vội vàng sai người mời thái y.
Tôi súc miệng, nhân cơ hội này giở vờ yếu ớt bám vào tay áo anh ta, hỏi: “Hoàng thượng, có thể đồng ý với thần thiếp một chuyện không?”.
Trước mặt mọi người, Tề Thịnh và tôi cùng phối hợp đóng vở “Đế Hậu tình sâu nghĩa nặng”, anh ta nắm tay tôi thật chặt, giận dữ nói: “Có chuyện gì thì cứ nói, những gì nàng muốn trẫm đã bao giờ không đồng ý sao?”.
Nghe lời này, mặc dù rất muốn lườm anh ta một cái nhưng tôi vẫn nhẫn nại, nói: “Cái hà bao kia có thể không thêu nữa được không?”.
Tề Thịnh sững sờ, dở khóc dở cười gật đầu.
Tống thái y đến rất nhanh, đi cũng nhanh, chỉ căn dặn vài câu: Hoàng hậu bị ốm nghén, nếu như không phải dùng thuốc thì tốt nhất đừng dùng. Hoàng thượng đừng lo lắng, chỉ cần chịu đựng mấy tháng là ổn thôi.
Tề Thịnh thở phào một tiếng, ngoảnh lại bình thản bảo Tả Ý chuẩn bị lại cơm canh cho tôi.
Tôi buồn bực, đây là ốm nghén sao? Tại sao hồi mang thai Uy nhi tôi lại ăn ngon miệng, người béo hơn đến mấy cân?
Kể chuyện này với Lục Ly, Lục Ly quan sát kỹ xung quanh rồi mới nháy mắt ra hiệu nói: “Nương nương khi mang thai lần thứ nhất chẳng phải… lần ấy…cái đó đó sao! Đúng không? Đúng không?”.
Tôi sững sờ, lúc này mới hiểu ý của cô. Lần mang thai trước tôi và cô chỉ lo giả vờ, làm gì còn thời gian để nghĩ tới chuyện nôn hay không nôn.
Lục Ly đã trải qua giai đoạn đầu không ổn định của thai kỳ, cuối cùng cũng được Triệu vương thả ra, việc đầu tiên là tiến cung thăm tôi.
Tôi và Lục Ly lâu ngày không gặp, đương nhiên không thể thiếu cảnh cô lau nước mắt, cảm thán: “Nương nương cuối cùng cũng qua được giai đoạn đầu rồi, chỉ mong lần này là một tiểu hoàng tử”.
Trong đầu tôi luôn ám ảnh câu chuyện của Tam tục sư, vừa nghe nhắc đến việc sinh con trai, con gái liền phát hoảng lên, cũng không tiếp lời Lục Ly, vội quay đầu căn dặn Tả Ý ở bên cạnh: “Ngươi hãy đến cung Đại Minh hỏi xem Hoàng thượng có bận không, bữa trưa có qua dùng cơm không. Nếu người không qua được thì chúng ta giữ Lục Ly lại ăn trưa”.
Tề Thịnh và Lục Ly không ưa nhau, chuyện này mọi người trong cung Hưng Thánh đều biết. Tả Ý cũng không nghĩ nhiều, đáp lại một tiếng rồi quay người đi ra ngoài.
Tôi gọi cô ta lại, dặn: “Linh hoạt một chút, đừng để Hoàng thượng biết Lục Ly đang ở đây”.
Tả Ý chạy một mạch ra ngoài.
Tôi nhìn xung quanh, khẽ hỏi Lục Ly: “Em nghĩ cách tra xem bọn Hoàng thị thế nào mà vẫn chưa có thai. Cũng gần nửa năm rồi, sao không có động tĩnh gì?”.
Lục Ly ngạc nhiên: “Nương nương…”.
Tôi nói khẽ: “Việc sinh được con trai hay con gái chưa thể nói trước được, lỡ ta lại sinh con gái, có người trong số họ sinh được con trai thì cũng coi như là bù đắp”.
Nói thẳng ra, tôi cảm thấy người đông lực lượng lớn, đã có nhiều mảnh đất dùng được như thế, tội gì tôi phải chịu một mình chứ.
Lục Ly chần chừ một lát rồi hỏi: “Nương nương vẫn chưa thật tin tưởng Hoàng thượng?”.
Tôi hỏi lại cô ta: “Em bây giờ có hoàn toàn tin Triệu vương không?”.
Lục Ly nghĩ một lát rồi gật đầu: “Nô tì biết phải làm thế nào rồi”.
Hai chúng tôi lại nói chuyện khác. Lục Ly giới thiệu cho tôi mấy người đáng tin trong cung, bảo tôi có thời gian thì thử đi xem xét, nếu có thể dùng được thì lôi kéo họ về, trong tay có người để dùng vẫn tốt hơn.
Hai chúng tôi đang nói đến đây thì Tả Ý từ cung Đại Minh trở về, bảo Tề Thịnh không có ở đó.
Lục Ly vừa nghe Tề Thịnh không có ở cung Đại Minh lập tức hứng thú bừng bừng, hai mắt sáng lên đề nghị với tôi: “Nương nương, hai chúng ta đến cung Đại Minh đi, xem con tiện nhân Giang thị bây giờ thế nào rồi”.
Nói xong Lục Ly đứng dậy, chống tay vào eo định đi luôn.
May mà thân thể tôi lúc này nhanh hơn cô, liền đưa tay ra kéo lại. Trời, nha đầu này, ngươi tưởng ta không biết ngươi có ý gì à? Chẳng phải ngươi muốn vác cái bụng này đến chọc giận Giang thị sao? Chúng ta có thể bớt làm mấy việc mà những phụ nữ độc ác hay làm được không?
“Thôi đi, em ít nghĩ đến cô ta thôi, không sợ sau này sinh con ra sẽ giống cô ta à?”
Lời nói này có tác dụng hơn bất cứ cái gì, Lục Ly lập tức ỉu xìu, ở lại cùng tôi ăn cơm trưa rồi ngoan ngoãn quay về phủ Triệu vương.
Khi tôi mang thai được ba tháng thì nhà họ Trương tiến cung hỏi thăm. Lần này Trương lão thái thái không đến, người đến là mẹ của Trương thị, bà Phạm thị và đại đường tẩu Bạch thị.
Sắc mặt của Phạm thị còn tệ hơn lần trước, vừa nhìn thấy tôi đã mừng đến phát khóc, vừa lau nước mắt vừa nói: “Từ khi ra khỏi cung lần trước mẹ liền ăn chay niệm Phật cầu xin Bồ Tát phù hộ cho con. Không ngờ lại linh nghiệm thế, con quả nhiên sắp hết khổ rồi”.
Bạch thị là người có tính cách hoạt bát, thấy Phạm thị khóc mỗi lúc một sướt mướt vội đi lên phía trước đưa khăn tay cho bà, khuyên: “Đại bá mẫu đừng khóc nữa, nương nương mang thai là chuyện tốt mà. Người khóc như vậy, chẳng phải sẽ làm nương nương không vui sao”.
Nghe Bạch thị nói vậy, Phạm thị ngừng khóc, lau nước mắt rồi căn dặn tôi mấy việc cần chú ý trong thời kỳ mang thai: “Việc ăn uống nhất định phải chú ý, nhất thiết không được để người khác lợi dụng sơ hở. Còn bên Hoàng thượng, thân thể con bây giờ thế này, tốt nhất là chọn mấy đứa nha hoàn có thể tin tưởng được, dung mạo đẹp một chút…”.
Tôi vừa nghe bà nói một thôi một hồi và có hơi hướng chuyển sang chuyện đấu đá trong cung, bèn vội vàng ngắt lời bà, quay sang hỏi Bạch thị: “Việc chuẩn bị hôn sự của Trà Trà thế nào rồi?”.
Ánh mắt Bạch thị liền sáng lên, đáp: “Lần này đến, lão thái thái còn bảo thần thiếp chuyển lời tới nương nương, việc hôn sự của Tam cô nương, muốn xin ý kiến của nương nương”.
Bạch thị mới chỉ nói một nửa nhưng ý thì đã quá rõ ràng. Hoàng hậu ta đây bỗng nhiên chuyển từ tình trạng suýt bị phế truất thành được Hoàng thượng sủng ái, thế là nhà họ Trương trở nên mâu thuẫn, không biết nên tiếp tục đầu tư vào Sở vương hay là thẳng tay cắt đứt quan hệ luôn?
Phạm thị thì vẫn đang luôn miệng dạy dỗ làm thế nào để nắm được trái tim của Tề Thịnh trong thời kỳ mang thai: “… thời điểm thế này càng không thể vì được sủng ái mà kiêu ngạo. Đàn ông đều ham của lạ, chỉ cần trái tim người ở bên con thì không gì mạnh bằng!”.
Tôi “vâng” một tiếng qua loa, rồi trong lúc Phạm thị dừng lại lấy hơi, nói với Bạch thị: “Lòng vua khó đoán, Tam nha đầu cứ chiếu theo những gì đã quyết định mà làm thôi. Dù sao cũng không phải chuyện xấu”.
Bạch thị là người thông minh, nghe xong liền gật gật đầu, không nói tiếp nữa, chỉ nghe Phạm thị vẫn đang ra sức dạy dỗ, vào lúc thích hợp còn đưa cho Phạm thị cốc trà để thấm giọng.
Phạm thị nói nửa ngày trời, cuối cùng cũng đến đoạn kết, nội dung chính là không có gì ngoài việc bảo tôi phải hiểu rõ một đạo lý: Nếu đã không có cách gì để quản lý được thể xác của người đàn ông thì phải nắm giữ được trái tim của anh ta.
Tôi nghe mà đau cả đầu, trong lòng rất cảm khái. Cung đình quả là làm bằng sắt thép, mỹ nữ nhiều như nước nhưng không cách nào mài mòn được. Ở đây, nữ nhân khổ, nam nhân khổ, Hoàng thượng lại càng khổ hơn.
Có lẽ Tề Thịnh cũng cảm thấy mình làm Hoàng thượng quá vất vả nên kể từ sau khi tôi mang thai, anh ta cũng chẳng mấy khi triệu bọn Hoàng thị vào cung nữa. Đợi qua tháng Chín, giai đoạn ốm nghén của tôi kết thúc, anh ta liền thôi luôn việc gọi người, mỗi ngày ngoài lúc đến cung của tôi một lần, thời gian còn lại đều ở cung Đại Minh với Giang thị.
Khi bọn Hoàng thị đến vấn an tôi, trong lời nói khó tránh bộc lộ ý tứ oán trách Tề Thịnh.
Tôi chán nản gõ vào trán họ mà dạy bảo: “Các ngươi cũng không tự kiểm điểm mình đi. Nếu nói về dáng vóc, ai mà chẳng mạnh gấp trăm lần cái người ở cung Đại Minh kia! Không giữ được trái tim Hoàng thượng thì cũng thôi đi, ngay cả thân thể người các ngươi cũng chẳng giữ được, thật phí công ta cả ngày lo lắng thay các ngươi”.
Đám đàn bà này vốn đầy một bụng oán trách, nghe tôi dạy bảo một hồi thì cũng dịu lại. Mọi người nói xem, kỹ năng của bản thân không bằng người khác thì làm gì được?
Đợi họ ra về, Tả Ý bưng bát cháo tổ yến đến cho tôi, nói thầm: “Lần đầu tiên nô tì cảm thấy có Giang thị ở cung Đại Minh là một việc tốt”.
Tôi nghe vậy thì sững sờ, suy nghĩ một lát, cảm thấy lời Tả Ý cũng có phần đúng. Có Giang thị ở cung Đại Minh làm mục tiêu để thu hút hỏa lực của mọi người, quả nhiên giảm bớt đi rất nhiều chuyện cho tôi.
Những ngày sau đó trôi đi êm ả, sang tháng Mười một bụng tôi lại nổi rõ hơn. Uy nhi không những đã đi vững mà còn biết nói những từ đơn giản. Hằng ngày khi Tề Thịnh vừa bước vào cửa điện, nó là người đầu tiên chạy tới ôm lấy hai chân Tề Thịnh, gọi to: “Phụ hoàng”.
Tề Thịnh rất vui, trước tiên là bế Uy nhi lên đi vài vòng trong điện, sau đó hai cha còn cùng đến quan sát cái bụng của tôi.
Bên ngoài băng tuyết đầy trời, trong phòng ấm áp tràn ngập tiếng cười nói vui vẻ, đúng là cảnh tượng phu thê ân ái, cha hiền con hiếu. Đôi lúc khi bị không khí nóng bức trong điện làm hoa mắt, tôi nghĩ đây chính là cảnh tượng “vợ” con hiếu thuận, gia đình yên ấm, nếu có thể mãi mãi như vậy thì cũng tốt.
Ngày mùng Chín tháng Mười hai, Nhà xí huynh chính thức lấy con gái của Trương Linh, tướng phủ thành Tịnh Dương, làm vợ. Nhà họ Trương nắm giữ binh quyền ở biên cương phía Bắc, lại có hai người con gái được gả vào hoàng thất, lúc này có thể nói là quyền khuynh thiên hạ.
Có điều đây chỉ là cách nhìn của người ngoài, phải là người nhà họ Trương thì mới biết được mùi vị trong đó chẳng dễ chịu chút nào.
Tôi, Hoàng hậu Trương thị vẫn là trưởng nữ chính của nhà họ Trương, là người duy nhất trong hậu cung của Tề Thịnh sinh hạ được công chúa, giờ lại đang mang thai, địa vị không nhỏ. Còn Tam cô nương lại là trưởng nữ chi thứ hai của nhà họ Trương, trước mắt trở thành Sở vương phi, mà những người thông minh thì đều biết Sở vương và Hoàng thượng không ưa gì nhau.
Con gái của một gia đình lại được gả cho hai phe cánh đối lập, như vậy, nếu người lãnh đạo Trương gia không đủ thực lực thì sẽ xảy ra chia rẽ nội bộ. Ai mà chẳng có tâm tư? Đứa trẻ dù thế nào cũng là ruột thịt do mình sinh ra.
Mỗi khi nghĩ đến đây, tôi thật khâm phục Tề Thịnh, đồng thời cũng xua tan suy nghĩ “vợ con hiếu thuận, gia đình yên ấm”. Tên nhóc này từ trước đến giờ chưa làm gì vô ích, làm cái gì cũng đều có mục đích cả. Nếu như dựa vào cái cây lớn là anh ta để tránh mưa thì sớm muộn gì cũng sẽ bị sét đánh, chi bằng nghĩ cách tự dựng một cái nhà thì vẫn tốt hơn!
Chiến sự ở Vân Tây rất thuận lợi, trong khoảng thời gian ngắn ngủi hơn nửa năm, Dương Dự đã bình định được Vân Tây. Xem ra mùa xuân sang năm là có thể kết thúc cuộc chiến sự này rồi.
Tình hình trong triều rất tốt, hoàng gia cũng liên tiếp có chuyện vui.
Không khí cưới vợ náo nhiệt của đồng chí “thanh niên lớn tuổi” Sở vương vẫn chưa qua thì trong phủ Triệu vương lại truyền ra tin vui, cô nàng Lục Ly trải qua hai ngày một đêm vất vả, cuối cùng đã sinh cho Triệu vương một bé trai bụ bẫm.
Triệu vương rất phấn khởi, lúc đến báo tin mừng với Thái hoàng thái hậu còn cười ngốc, vừa nói vừa khua chân múa tay: “Nó to thế này này, ôm mà trĩu hết cả tay, khuôn mặt tròn bụ bẫm đến nỗi hai mắt híp cả lại”.
Thái hoàng thái hậu rất vui mừng, cứ nhắc đi nhắc lại: “Lục Ly là một con nha đầu tốt”.
Tôi vừa nghe nói đứa trẻ to như vậy lập tức thấy đồng cảm với Lục Ly, vội bảo Tả Ý mang một bọc lớn thuốc bổ đến thăm sản phụ.
Tả Ý trở về nói sắc mặt sản phụ hồng hào, tinh thần rất tốt, còn bế cả đứa bé lên cho cô xem, nói khẽ: “Đứa trẻ như thế này, có đánh chết Giang thị cũng không sinh được!”.
Nghe nói vậy, tôi biết là mình đã không lo lắng vô ích. Một ngày còn Giang thị, Lục Ly còn chiến đấu, đừng nói là sinh một đứa, mà sinh liền hai đứa, với khí thế như chẻ tre của cô, có lẽ điều đó không chỉ dừng lại ở lời nói thôi đâu.
Nhưng có một điều tôi thực sự không hiểu, đó là tại sao Lục Ly lại thù hận Giang thị đến thế?
Năm nay hoàng gia có hoàng tôn, ăn Tết sẽ rất náo nhiệt đây.
Trong bữa tiệc gia đình Tết Nguyên tiêu, cơ thể tôi đã rất nặng nề, chỉ ngồi một lúc cũng không chịu nổi. Tề Thịnh thấy vậy liền xin cáo từ Thái hoàng thái hậu và Tống thái hậu, đích thân dìu tôi trở về cung Hưng Thánh.
Vì là ngày rằm, trời quang mây tạnh, ánh trăng chiếu rọi khắp nơi, ngay cả đèn lồng cũng không cần dùng tới. Đi được hai bước tôi bỗng làm biếng, thương lượng với Tề Thịnh: “Có thể dùng xe kéo bộ không?”.
Tề Thịnh dùng cánh tay đỡ lưng tôi, cười: “Lười vừa thôi, ma ma Ngô đã căn dặn rồi, nàng phải đi bộ nhiều”.
Chẳng còn cách nào, tôi thở dài, ưỡn cái bụng rồi tiếp tục nặng nề bước từng bước về phía trước. Đi được một lát, tôi quay lại thấy các cung nữ và nội thị đều tụt lại phía sau, tôi liền khẽ hỏi Tề Thịnh: “Bao giờ động đến Sở vương”.
Tề Thịnh nghe vậy, im lặng chốc lát rồi đáp: “Đợi Dương Dự từ Vân Tây trở về”.
Tôi thoáng nghĩ cũng hiểu ý định của Tề Thịnh. Đại tướng Dương Dự như thế, cho dù trong tay không có binh quyền cũng không thể xem thường, để ông ta ở cạnh mình sẽ yên tâm hơn.
Tề Thịnh dừng lại, đột nhiên nói: “Nàng…đừng suy nghĩ lung tung”.
Tôi hờ hững gật đầu, trong lòng thầm than, mắt thấy cơ hội tốt như thế sắp đến, tôi có thể không suy nghĩ nhiều được sao? Ồ? Đúng rồi, cụm từ “cơ hội tốt” có dùng ở đây được không nhỉ?
Tháng Hai, hết thời kỳ ở cữ tròn một tháng, Lục Ly bế đứa bé vào cung vấn an, sau khi rời khỏi chỗ Thái hoàng thái hậu liền đến thẳng cung của tôi. Cô bảo nhũ mẫu bế đứa bé lên cho tôi xem, sau đó nhân lúc Tả Ý đưa nhũ mẫu ra hậu điện cho em bé ăn và bên cạnh tôi chẳng có ai, liền nhẹ nhàng nói với tôi: “Thần thiếp đã cho người điều tra, Hoàng thượng trước đây thực sự có gần gũi với mấy người kia, xong việc cũng chưa từng ban cho ai thuốc tránh thai, nhưng không biết tại sao vẫn không thấy họ có động tĩnh gì”.
Tôi nghe vậy thì trong lòng càng thấy nghi hoặc. Thông thường nếu ngẫu nhiên có mảnh đất không màu mỡ mà chẳng canh tác được gì là chuyện bình thường, nhưng ở đây bao nhiêu đồng ruộng như thế mà đến cây cỏ cũng không mọc thì quả là không bình thường.
Trên mặt Lục Ly tỏ rõ sự thất vọng, cô khẽ nói: “Trước đây nô tì còn cho rằng vì trong lòng Hoàng thượng đã có nương nương, những chỗ khác chỉ làm cho phải phép, không ngờ quả thật đã gần gũi với bọn họ rồi”.
Tôi nghe những lời này thì không nhịn được cười. Tề Thịnh nói thế nào thì cũng là một người đàn ông trẻ tuổi tinh lực đang thịnh, bọn Hoàng thị kia lại đều là những phi tần danh chính ngôn thuận của anh ta, họ vào hậu cung này là để chăm sóc hầu hạ anh ta, dựa vào cái gì mà bắt người ta phải hao mòn chứ.
Điều này thì quả là rất vô nhân đạo!
Lục Ly quan sát sắc mặt tôi, lại đưa ra chủ kiến: “Nương nương, chi bằng chúng ta nhân cơ hội này, lén rót cho Hoàng thị kia một bát hoa hồng, triệt để xóa bỏ hậu họa sau này. Dù sao trước đây họ đã không sinh được, sau này có không sinh được cũng không thể đổ lỗi lên đầu chúng ta”.
Cô nói với vẻ rất bình thản, tôi thì thấy kinh hồn bạt vía. Nếu không phải vì cơ thể nặng nề thì có lẽ đã nhảy dựng lên rồi.
Lục Ly ơi là Lục Ly, cô đã làm mẹ rồi, sao có thể thoải mái làm những chuyện độc ác như thế được?
Tôi vội tiến đến bịt miệng cô lại, nói: “Em thôi đi! Triệt đường con cái của người khác sẽ bị tổn hại âm đức đấy!”.
Tôi vừa dứt lời thì Tề Thịnh đi từ bên ngoài vào.
Lục Ly lập tức sợ hãi đứng lên, cúi đầu xuống hành lễ với Tề Thịnh, run rẩy nói: “Hoàng thượng”.
Tề Thịnh lạnh nhạt liếc Lục Ly, chẳng thèm để ý, hỏi thẳng tôi: “Người đâu hết rồi? Ngay cả người hầu hạ bên cạnh cũng không có sao?”
Đây là lúc bàn bạc cho người khác một bát hoa hồng làm sao có thể để người hầu ở bên cạnh chứ.
Tôi thấy sắc mặt Tề Thịnh không tốt, đành phải giải thích: “Này nhi khóc ầm lên muốn nhìn em bé, thiếp không chịu được ồn ào nên bảo mọi người đưa hai đứa trẻ ra hậu điện chơi rồi”.
Tề Thịnh nghe vậy chỉ thờ ơ gật đầu.
Lục Ly thận trọng quan sát Tề Thịnh rồi vội quỳ gối hành lễ nói: “Thần thiếp rời phủ đã lâu, cũng đến giờ phải về rồi. Thần thiếp xin cáo từ”, nói xong đến cả con của mình cũng quên, cô cúi đầu men theo góc tường đi ra ngoài.
Tôi dở khóc dở cười, vội gọi lại, nhắc cô nhớ đem đứa bé ở hậu điện về.
Đến khi Lục Ly đem đứa trẻ đi rồi sắc mặt của Tề Thịnh vẫn không tốt lên, tôi bất đắc dĩ nhìn anh ta, khuyên: “Lục Ly cũng chỉ là một cô bé, chàng đường đường là một đấng nam nhi, có cần phải tính toán với cô ấy thế không?”.
Mày kiếm của Tề Thịnh hơi nhíu lại, nhìn tôi hồi lâu rồi hỏi: “Nàng còn nhớ lần say rượu ở Trương gia năm đó không?”.
“Còn nhớ”, tôi gật đầu, đó chẳng phải là lần uống rượu say rồi lên giường với Tề Thịnh sao.
Thấy tôi trả lời tùy tiện, sắc mặt Tề Thịnh càng sầm sì, lại hỏi: “Vậy nàng còn nhớ sau khi say rượu đã nói câu gì không?”
Đã say rượu thì không thể nói ít rồi. Tôi tập trung suy nghĩ một hồi vẫn không sao nhớ ra được câu anh ta muốn hỏi, đành thành khẩn lắc đầu.
Tề Thịnh tối sầm mặt lại, nghiến răng kèn kẹt nói: “Nàng nói… ‘Lục Ly, hay là hai chúng ta… đi ngủ đi’”.
Tôi nghe mà sững sờ, đến khi phản ứng lại thì miệng tôi đã há ra từ lúc nào, không sao khép lại được.
Tề Thịnh mặt mày lạnh lùng đi đến trước mặt tôi, định ôm lấy eo tôi nhưng bụng tôi giờ đã khá to, cả hai tay anh ta cũng không vòng qua được, cuối cùng đành đặt một tay lên eo tôi, tay kia nâng nhẹ cằm tôi lên, lạnh lùng hỏi: “Nàng nói xem, ta chưa giết Lục Ly có phải là đã nương tay với cô ta rồi không?”.
“Nương tay, thực sự là nương tay với cô ta rồi”, tôi ngơ ngác đáp lại, sau đó lại vội vàng giơ tay lên thề: “Hoàng thượng, quan hệ giữa thiếp và Lục Ly rất trong sáng, thân hình của cô ta còn không bằng cả Giang thị, nếu thiếp là đàn ông thì dạng thiếp thích cũng phải là Hoàng thị kia cơ. Chàng đều đã qua đêm với họ, chẳng lẽ lại không biết sự khác biệt đó? Có như thế ngủ mới thoải mái…”.
Gân xanh trên thái dương Tề Thịnh lại nổi lên, tay đang nâng cằm tôi trượt xuống cổ, oán hận nói: “Trương Bồng Bồng, ta thật sự rất muốn bóp chết nàng!”.
Vừa sang tháng Ba, bầu không khí trong cung Hưng Thánh càng ngày càng căng thẳng, lão đại của các cung lại bắt đầu cử bà đỡ đến chỗ tôi, đều rất quen mặt, hóa ra đều là những người mà lần trước khi tôi sinh Uy nhi đã đến phục vụ. Tôi rất vui, trong lòng cảm thấy rất dễ chịu, người quen thì thật dễ làm việc, cái khác tạm thời không nói đến, ít ra tụ tập đánh bài cũng thuận tay, toàn người quen cả mà.
Tề Thịnh lần nảy rất thẳng thắn, bảo người thu dọn đồ dùng trong cung Đại Minh chuyển tới ở luôn trong cung Hưng Thánh.
Tôi không thấy Giang thị đi cùng, không nhịn được, hỏi: “Có cần đưa Giang thị đến hầu hạ chàng không? Dù sao thì cũng dùng quen rồi”.
Tề Thịnh nhìn tôi với vẻ khinh thường: “Bây giờ ta không chấp nhặt với nàng”.
Uy nhi lạch bạch từ hậu điện chạy lại, nhảy thẳng vào lòng Tề Thịnh gọi: “Phụ hoàng!”.
Tề Thịnh bế con bé trên tay mình, vui vẻ hỏi: “Hôm nay con có nghe lời mẫu hậu không?”.
Uy nhi cật lực gật đầu, sau đó ngoảnh lại chỉ vào bụng tôi gọi to: “Em trai, em trai”.
Tề Thịnh càng vui mừng hơn, dụi đầu vào người con gái, cười: “Này nhi muốn có em trai à?”.
Uy nhi bị anh ta làm cho cười khanh khách, vẫn gật đầu, miệng không ngừng gọi: “Em trai, em trai”.
Tả Ý ở bên cạnh cười trêu chọc: “Lời của con trẻ là đúng nhất, lần này nương nương nhất định sẽ sinh một tiểu điện hạ”.
Thôi đi, đứa bé mới một tuổi rưỡi, biết em trai với em gái là cái gì chắc? Tất cả chẳng phải đều do các người dạy sao?
Tôi bĩu môi vẻ coi thường, tay chống vào eo đứng lên, kéo tay Uy nhi lại và hỏi: “Này nhi muốn có em gái hay em trai?”.
Uy nhi nói: “Em trai, em trai”.
Tôi đổi lại cách hỏi: “Này nhi muốn có em trai hay em gái?”.
Uy nhi không do dự trả lời: “Em gái, em gái”.
Tôi nhìn Tề Thịnh vẻ khinh thường: “Đó, thấy chưa? Con nó đâu đã hiểu em trai, em gái là gì, chỉ biết lặp lại hai từ cuối cùng của chàng thôi”.
Tề Thịnh nhìn tôi rồi lại nhìn con gái trong lòng, đột nhiên bật cười thành tiếng, thơm lên má Uy nhi rồi lại bất ngờ ghé đến gần hôn chụt một cái lên mặt tôi, khẽ cười nói: “Là con trai hay con gái đều tốt cả, cũng đâu có gấp, cứ sinh từng đứa từng đứa một”.
Tôi đờ ra, Tả Ý ở bên cạnh thì bật cười một tiếng, sợ tôi nổi cáu liền vội vàng cúi đầu xuống.
Tề Thịnh đưa Uy nhi trên tay cho nhũ mẫu, quay người lại đỡ tôi đến bên giường, hỏi: “Hai ngày nay con còn hay đạp lung tung nữa không”.
Tôi lắc đầu, gần đây cái bụng đã trễ xuống rõ ràng, bé con ở trong bụng cũng yên tĩnh hơn, theo như cách nói của ma ma Ngô thì chỉ khoảng vài ngày nữa là tôi sinh.
Quả nhiên, đêm ngày Mười hai tháng Ba, bụng tôi đột nhiên lên cơn đau.
Tề Thịnh đang ngủ bên cạnh giật mình tỉnh giấc, lo lắng hỏi: “Làm sao thế?”.
Tôi cố gắng chịu đựng cho qua cơn đau rồi mới bình tĩnh đáp: “Có khả năng sắp sinh rồi”.
Tề Thịnh đờ ra, sau đó không còn bình thản được nữa, quên cả việc choàng áo, thoắt một cái đã chui ra khỏi giường, lên tiếng gọi: “Người đâu, người đâu”.
Vừa gọi một cái, cả đoàn người trong nội điện vội vàng kéo đến. Mấy bà đỡ lúc nào cũng trong trạng thái trực chiến, vội vàng tiến lên phía trước khám qua cho tôi, bảo cung nữ đỡ tôi đến phòng sinh. Kết quả là, các cung nữ vừa mới tiến lại gần, còn chưa kịp làm gì thì đã bị Tề Thịnh gạt ra. Anh ta ôm lấy tôi rồi trực tiếp bế tôi vào phòng sinh.
Tôi sợ Tề Thịnh căng thẳng quá mà lỡ tay làm rơi mình, vội vàng sợ hãi ôm chặt lấy cổ anh ta, động viên: “Đừng lo, đừng lo, chưa sinh ngay được đâu. Hơn nữa con nó còn ở trong bụng thiếp, chàng lo lắng cũng chẳng được việc gì”.
Không dè, Tề Thịnh không những không cảm kích, còn giận dữ trừng mắt với tôi.
Phòng sinh đã được chuẩn bị từ lâu rồi, Tề Thịnh vừa đặt tôi xuống giường thì đã bị bà đỡ mời ra ngoài. Trước khi đi anh ta còn nắm chặt lấy tay tôi, nói bằng giọng rất bình tĩnh: “Đừng sợ, ta sẽ luôn ở bên ngoài chờ nàng”.
Câu nói của Tề Thịnh khiến tôi không thể thờ ơ, chỉ có thể nắm lấy tay anh ta, nói: “Có chàng ở bên cạnh, thiếp không sợ gì cả”.
Tề Thịnh nghe được câu nói của tôi, cuối cùng cũng buông tay ra, lòng đầy mãn nguyện đi ra ngoài.
Nói thực lòng, nhìn dáng người khỏe mạnh, rắn chắc của Tề Thịnh khuất dần ngoài cửa điện, trong lòng tôi lại thấy rung động. Có điều còn chưa kịp phân tích rõ ràng thì bụng tôi lại lên cơn đau, thế là tôi chẳng thể tập trung mà cảm nhận đó là cảm giác trái tim rung động hay do quá hoảng sợ nữa.
Cũng may, việc sinh con cũng là trước lạ sau quen, lần này thời gian sinh nở nhanh hơn nhiều so với lần sinh Uy nhi, đến cả số bữa ăn giữa chừng cũng ít hơn lần trước một bữa.
Vào chính ngọ ngày hôm sau, tôi đã suôn sẻ cho ra đời một bé trai nặng ba cân rưỡi, mẹ tròn con vuông.
Bà đỡ bế đứa trẻ ra ngoài cho Tề Thịnh xem, Tề Thịnh vô cùng vui mừng, ban thưởng cho tất cả người làm ở cung Hưng Thánh, ngay cả tiểu nội thị mà Thái hoàng thái hậu phái đến hỏi thăm cũng được mười lạng bạc.
Tôi vẫn đang nằm trên giường, nghe được tin này thì tức giận đến đập tay bồm bộp lên giường. Thằng cha này thật chẳng biết gì, thoáng cái đã vứt đi mấy nghìn lạng bạc trắng, đúng là đồ phá gia chi tử!
Tả Ý đến kéo chăn đắp cho tôi, khẽ khuyên: “Nương nương chợp mắt một chút đi”.
Vật lộn cả nửa ngày, người mệt rã rời nhưng tôi vẫn khăng khăng lắc đầu, nói với cô: “Ngươi bảo người bế đứa bé lại cho ta nhìn”.
Tả Ý vâng lời đi ra ngoài, một lúc sau thì lại là Tề Thịnh bế đứa bé đi vào. Thấy tôi nhìn, miệng Tề Thịnh nở một nụ cười rạng rỡ rồi cẩn thận đặt đứa trẻ vào lòng tôi, khẽ cười: “Nhìn xem, có phải là nó giống ta hơn không? Mọi người đều nói là giống ta cả”.
Bộ dạng rất đắc ý của Tề Thịnh khiến tôi cảm thấy rất không vừa mắt. Chẳng qua chỉ là những lời nịnh hót của đám người hầu, vậy mà anh ta cũng cho là thật.
Khi Tiểu Yến Tử vừa được Càn Long nhận làm con gái, đám người Lệnh phi còn nói Tiểu Yến Tử và Càn Long giống nhau như đúc! Nhưng kết quả thì sao? Tiểu Yến Tử và Càn Long có chút quan hệ huyết thống nào với nhau không? Rõ ràng là không, đã thế lại còn làm mẹ Tiểu Yến Tử phải gánh chịu hư danh.
Tề Thịnh đưa ngón tay ra chạm nhẹ vào má đứa trẻ, đột nhiên nói khẽ: “Tề Hạo, gọi là Tề Hạo”.
Tôi sững người, còn chưa kịp nghĩ xem đó là chữ nào thì Tề Thịnh đã cầm lấy một tay tôi, dùng ngón tay từ từ vẽ chữ “hạo” trên lòng bàn tay.
Tề Thịnh viết rất nhẹ nhàng, động tác giống như tình nhân đang nhẹ nhàng vuốt ve nhau, đầu ngón tay mặc dù quét qua lòng bàn tay tôi nhưng mỗi lần dường như đều quét vào tận đáy lòng, khiến tôi không khỏi rung động. Thế nhưng vẻ mặt Tề Thịnh vẫn rất nghiêm túc, chăm chú viết từng nét từng nét một.
Một hồi lâu sau Tề Thịnh mới viết xong chữ này, ngước mắt nhìn tôi, hỏi: “Được không?”.
Trong lòng bàn tay vẫn còn cảm giác râm ran, tôi đang ngơ ngẩn, nghe Tề Thịnh hỏi vậy mới bừng tỉnh, thầm nghĩ: May mà đứa trẻ này không cần tham gia cuộc thi nào, nếu không, đợi nó viết xong tên thì mọi người đã làm xong hai câu hỏi lựa chọn rồi, đảm bảo đến vòng gửi xe cũng chẳng qua được.
Thấy Tề Thịnh vẫn đang nhìn mình, tôi nói: “Thiếp cứ cho rằng chàng còn phải đi trên con đường có cây tươi tốt đến tối cơ đấy”.
Tề Thịnh hơi nhướng mày, đôi mắt ẩn chứa nụ cười, sáng long lanh: “Nàng cũng biết ý nghĩa của chữ ‘Uy’[]?”.
[] Uy: là tả cảnh cây cối tươi tốt, cành lá sum sê rủ xuống
Có gì mới mẻ đâu? Cho dù không biết, chẳng lẽ tôi lại không tra từ điển được sao?
Theo phản xạ tôi hơi bĩu môi, Tề Thịnh lại bật cười, sai nhũ mẫu bế Tề Hạo mới chào đời đi, sau đó cẩn thận đỡ tôi nằm xuống, nói bằng giọng dịu dàng: “Nàng ngủ một giấc đi”.
Tôi lập tức ngoan ngoãn gật đầu nghe theo. Đây cũng giống như làm việc vất vả tăng ca ban đêm, công việc cuối cùng cũng hoàn thành tốt đẹp, dù là vất vả mệt mỏi đến đâu thì cũng đã đợi được đến lúc ông chủ tới hỏi han, giờ là lúc trèo lên giường để ngủ bù rồi.
Tôi ngủ rất say, khi tỉnh dậy đã là ngày hôm sau. Tề Thịnh không ở trong nội điện, nghe nói là bên Vân Tây có sứ thần đến, anh ta không tiện tiếp kiến quan lại nước ngoài ở chỗ tôi nên đã quay về cung Đại Minh.
Tôi đắn đo suy nghĩ, sau đó lấy lý do để thuận tiện cho Tề Thịnh giải quyết việc triều chính, sai người thu dọn đồ đạc của Tề Thịnh đóng gói mang đến cung Đại Minh.
Tả Ý hết lời khuyên tôi: “Nương nương hà tất phải như vậy, người khác đòi ân sủng như thế này còn chẳng được, nương nương cần gì phải đẩy Hoàng thượng đi”.
Trước giọng điệu này của Tả Ý, tôi lại lần nữa phải nghiêm túc giáo dục tư tưởng cho cô, chỉ ra một cách rõ ràng rẳng, tôi là Hoàng hậu, là chủ của hậu cung, nên đầu tiên là không thể phá vỡ phép tắc. Trước khi tôi sinh, Tề Thịnh ở trong cung của tôi cũng là hợp tình hợp lý, còn có thể ỷ vào lý do “Đế Hậu tình sâu nghĩa nặng”, nhưng giờ việc sinh nở đã xong, lại dựa dẫm tiếp thì hơi quá. Trở thành hoàng hậu độc chiếm sủng hạnh của Hoàng thượng thì lại gây phiền phức cho các vị quan ngự sử.
Bất quá cứ việc gì tốt quá cũng hóa dở, tôi phải duy trì khoảng cách như gần như xa, phải kiên định đi trên con đường làm hoàng hậu của mình.
Vả lại, thân là Hoàng hậu, có được sự kính trọng của Hoàng đế thì còn hữu dụng hơn cả sự sủng ái, cũng lâu dài hơn.
Đương nhiên, còn một điều quan trọng nữa mà tôi chưa nói với Tả Ý, đó chính là tôi ở cữ sắp phát điên rồi, nếu như Tề Thịnh còn ở bên cạnh thì hai người thế nào cũng có chuyện lôi thôi với nhau!
Sau khi đồ đạc được chuyển đến cung Đại Minh, Tề Thịnh cũng không có phản ứng gì, rất bình tĩnh sống trong cung Đại Minh, đêm đến còn cho gọi Vương chiêu dung đến hầu hạ.
Sự việc này đã gây ra sự phản ứng rất lớn ở trong cung, thông tin được truyền đi như tốc độ ánh sáng, có lẽ bên kia Vương chiêu dung vừa bước lên long sàng của Tề Thịnh thì thông tin đã truyền đến cung Hưng Thánh bên này rồi.
Tôi luôn cho rằng việc nữ nhân ở hậu cung chỉ đặt tiêu điểm vào phần thân dưới của Tề Thịnh là không thích hợp, cần phải biết rằng thân trên và thân dưới của người đàn ông luôn có mối quan hệ như anh em, rất mật thiết nhưng hoàn toàn không phụ thuộc vào nhau.
Tiếc là chị em phụ nữ từ trước đến nay vẫn không hiểu rõ điều này.
Do vậy, tháng ở cữ của tôi chưa buồn bực, khó chịu gì thì Tả Ý đã tỏ ra sầu muộn lắm rồi.
Tôi thực ra rất hiểu suy nghĩ của cô nhóc này, cô luôn mong được nhìn thấy một truyện cổ tích tình yêu kiểu “dù có ba ngàn giai lệ vây quanh thì ta vẫn chỉ yêu mình nàng” ở tôi và Tề Thịnh, nhằm thỏa mãn giấc mộng màu hồng trong lòng thiếu nữ.
Tả Ý và cả Lục Ly trước đây, cùng rất nhiều cô gái trẻ trong hậu cung đều tràn đầy ảo tưởng. Họ thông minh nhưng lại non nớt, luôn ảo tưởng trên thế gian này có một tình cảm chân thành tha thiết nhất, có một người đàn ông có thể yêu một người con gái như tính mệnh.
Cho dù người con gái ấy không phải là bản thân họ, cho dù họ chỉ là một khán giả trong câu chuyện tình này, thế nhưng họ vẫn rất xúc động. Sau đó, dùng tình cảm ấy nâng đỡ họ vượt lên sự giày vò và hao mòn tuổi xuân cùng máu thịt của đời con gái trong chốn hậu cung.
Nhưng cuộc sống đâu phải truyện cổ tích.
Đang suy nghĩ mông lung như vậy thì tôi đột nhiên nhận thấy mình có vẻ nhàn cư vi bất thiện quá, đến cả hoạt động tâm lý cũng phải miêu tả đầy nghệ thuật như thế. Tôi không kìm được thở dài một tiếng, thầm nghĩ rằng việc sinh con nhiều quả nhiên không có một chút lợi ích nào.
“Không được, không được…”, tôi lẩm bẩm nhắc lại hai lần, trở mình rồi yên tâm ngủ tiếp.
Ngủ đến lúc nửa đêm, đang mơ màng thì tôi cảm thấy có ai đó đang nằm sát lại từ phía sau, sau đó kéo tôi vào lòng, từ từ ôm chặt.
Trong hậu cung, có lẽ chỉ có Hoàng đế mới dám trèo lên giường của Hoàng hậu vào thời điểm này.
Tôi không hề sợ, chỉ hơi ngạc nhiên, mí mắt trĩu xuống, cũng chẳng quay đầu lại, chỉ mơ màng hỏi: “Sao lại đến đây vào lúc này? Vương thị đâu?”.
Tề Thịnh ở đằng sau không trả lời, nhưng lại nhẹ nhàng tì cằm lên vai tôi.
Vẫn trong trạng thái nửa mê nửa tỉnh, tôi làu bàu không rõ tiếng: “Như vậy là không được, đâu ra cái kiểu ngủ nửa chừng rồi bỏ chạy như thế, mau quay về đi”.
Tề Thịnh im lặng một lúc rồi đột nhiên nói khẽ: “Chẳng ra gì… thật sự chẳng ra gì”.
Cơn buồn ngủ cứ kéo tôi xuống, cũng chẳng nghĩ gì nhiều, buột miệng: “Không ra gì thì đổi người khác, nếu thực sự không được thì lại tuyển thêm mấy người mới…”.
Nói chưa hết câu thì đã cảm thấy cánh tay ôm eo tôi siết chặt như muốn trừng phạt
Động tác ấy của Tề Thịnh gần như đánh bật hẳn cơn buồn ngủ của tôi.
Tôi cảm thấy làm hoàng hậu thật chẳng dễ dàng gì. Ngày thường lao tâm khổ tứ đã đành, vất vả sinh con xong rồi, thế mà ngay cả thời gian nghỉ sinh cũng không được yên. Tôi điều chỉnh cảm xúc của mình, quay đầu lại, trịnh trọng hỏi Tề Thịnh: “Có phải gần đây áp lực lớn quá phải không? Nếu thấy không khỏe thì cho gọi thái y đến khám xem thế nào, cắt vài thang thuốc bổ uống thử xem”.
Giọng Tề Thịnh thể hiện rõ sự tức giận: “Trương Bồng Bồng, nàng không làm ta tức chết không được à?”.
Tôi lập tức thức thời ngậm miệng lại, nhẹ nhàng vỗ vào cánh tay Tề Thịnh, ý nhắc anh ta nới lỏng ra một chút, sau đó tự tìm một vị trí thoải mái hơn trong lòng Tề Thịnh, “Ngủ thôi, thiếp vẫn đang trong tháng ở cữ”.
Tề Thịnh im lặng, chỉ nhẹ nhàng thở dài một tiếng, một lúc lâu sau đột nhiên nói một câu không đầu không đuôi: “Ta muốn động thủ”.
Tôi cố gắng hết sức để mình không cứng người lại, một lúc sau, khi cảm thấy mình có thể hoàn toàn làm chủ được giọng nói rồi mới bình tĩnh đáp: “Làm đi, chỉ cần không phải tội danh mưu phản là được”.
Một khi dính dáng vào mưu phản thì liên lụy đến rất nhiều người, đầu rơi không kể xiết.
Tề Thịnh im lặng hồi lâu, khẽ đáp: “Được rồi”.
Đầu tháng Năm, Dương Dự dẫn quân đánh bại chủ lực của quân phiến loạn Vân Tây, bắt được hơn ba mươi người của Vân Tây gồm Đế vương, các phi tần, thế tử, quận chúa…, đồng thời tịch thu ấn tín, kim bài sắc chỉ, vàng bạc in gia huy, đến lúc này thì Vân Tây đã hoàn toàn thuộc về Nam Hạ. Tin chiến thắng truyền về Thịnh Đô, cả nước vui mừng, Tề Thịnh phong cho Dương Dự là Bình Tây hầu, đồng thời trong chỉ dụ còn ca ngợi Dương Dự có thể sánh với Mạch soái.
Tháng Tám, Dương Dự phụng mệnh hồi kinh, Tề Thịnh ban tặng cho ông ta hàng nghìn mẫu đất phì nhiêu và rất nhiều vàng bạc châu báu, cùng một thôn trang của hoàng gia ở Thúy Sơn. Quyền thế của gia tộc Dương thị ở Thịnh Đô lúc này vì thế trở nên rất lớn, Dương Nghiêm là con út của Dương Dự cũng nhờ nước lên thì thuyền nổi, mặc dù tuổi còn trẻ nhưng cũng được phong Hầu.
Dương Nghiêm ngày càng ngông cuồng, dám ngang nhiên đến cung Hưng Thánh thăm tôi.
Bây giờ tôi đã hoàn toàn trở thành bà nội trợ, đi đến đâu cũng đều ôm Tề Hạo trong lòng, tay thì dắt Tề Uy, thiếu mỗi nước bụng mang thai nữa thôi.
Dương Nghiêm nhìn tôi với vẻ xem thường, châm biếm: “Người còn có thể không có tiền đồ hơn chút nữa được không?”.
Tôi chẳng thèm đáp lại sự khiêu khích của anh ta, đi thẳng đến ngồi dưới bóng mát của cây trong sân, trước tiên bảo nhũ mẫu dẫn Tề Uy đi rồi sai Tả Ý pha trà, sau đó vừa trêu đùa với Tề Hạo đang nằm trong lòng, vừa tùy tiện hỏi Dương Nghiêm: “Sao bỗng dưng lại nhớ đến ta”.
Dương Nghiêm nhướng mày: “Nếu như không đến thì vở kịch lần này làm sao giống thật được? Hoàng thượng sao có thể tin rằng Dương gia nhà thần còn chưa biết tai vạ sắp xảy ra!”.
Dương Nghiêm vốn là người vô tâm, là một thiếu niên lâu lâu lại mắc vài lỗi, ấy thế mà bây giờ lại nói câu nào câu nấy đầy khiêu khích như thế này, tôi cũng không biết nên nói gì, im lặng một lát mới hỏi anh ta: “Dạo này sống thế nào?”.
Dương Nghiêm liếc xéo tôi một cái, nửa cười nửa không: “Chẳng lẽ người không biết hiện tại thần là người đàn ông độc thân được tranh giành nhiều nhất Thịnh Đô sao? Ngưỡng cửa nhà thần đều bị mấy bà mai giẫm hỏng hết rồi”.
Thấy anh ta như vậy, trong lòng tôi không khỏi cảm thấy xót xa. Người ngoài nhìn vào thì thấy náo nhiệt, nhưng sự náo nhiệt đó chỉ là cảnh tượng giả dối mà Tề Thịnh cố tình tạo ra. Rất nhanh thôi, tất cả những điều đó sẽ mau chóng tiêu tan theo cách thảm hại nhất.
Điều tàn khốc nhất là mặc dù Dương gia biết rõ trước mắt là vực sâu vạn trượng nhưng lại không thể không tiếp tục bước tới.
Dương Nghiêm ngẩng đầu lên, ánh mắt trống rỗng nhìn cành lá tươi tốt phía trên, lẩm bẩm hỏi: “Người nói xem làm như vậy có đúng không? Lấy tính mạng của mười mấy người nhà thần để đặt cược cho một giao ước bằng miệng”.
Tôi nghĩ đi nghĩ lại rồi đáp: “Với danh tiếng của Mạch soái, Hoàng thượng sẽ không dám lấy tính mạng của các ngươi đâu. Hơn nữa, đừng quên là còn có ta nữa, làm sao có thể để người nhà các ngươi chết”.
“Người?”, Dương Nghiêm nhếch miệng châm biếm, “Dựa vào việc người đã liên tiếp sinh con cho Tề Thịnh?”.
Tôi trừng mắt nhìn anh ta, chỉ mới sinh có hai đứa thôi, sinh con liên tiếp cái gì chứ?
Dương Nghiêm im lặng một lúc rồi khẽ nói: “Nhiều khi thần thật không thể hiểu được các người, người, Cửu ca và cả cha thần nữa, đặc biệt là Cửu ca và cha thần. Thần không biết vì sao họ lại lấy tính mạng người nhà ra để đánh cược một ván bài nguy hiểm như vậy. Nếu đổi lại là thần thì thà rằng đá ngọc cùng vỡ, liều mạng một phen chứ không thể cứ nhân nhượng vì đại cục thế này mãi được”.
Tôi nhìn vào khuôn mặt trẻ trung mà thẳng thắn của Dương Nghiêm, khẽ thở dài một tiếng: “Thật ra, họ cũng là liều một phen, nhưng theo một cách thức khác mà thôi. Đi vào chỗ chết để tìm đường sống”.
Dương Nghiêm nghe xong thì hừ lạnh một tiếng, nói: “Nếu thần không ra tay trước thì cuối cùng cũng bị người khác ra tay, đi vào chỗ chết để tìm đường sống thì rồi cũng chỉ là chờ chết mà thôi, thà rằng cứ chủ động trước.”
Tả Ý đã bưng trà đến, cung kính để tách trà bên cạnh tay của Dương Nghiêm.
Tôi nhìn Tả Ý, trong đầu tự nhiên nảy ra một ý, liền cười hỏi anh ta: “Ngươi nói bây giờ có nhiều người muốn làm mối cho ngươi phải không?”.
Dương Nghiêm gật đầu: “Rất nhiều”.
Tôi lại hỏi: “Thế đã có ai hợp ý chưa?”.
Dương Nghiêm lắc đầu.
Tôi liền chỉ vào Tả Ý đang đứng bên cạnh, cười hỏi: “Ngươi xem nha đầu bên cạnh ta thế nào?”.
Dương Nghiêm nổi tiếng là mặt dày, nghe vậy ngẩng đầu lên quan sát kỹ Tả Ý một hồi lâu khiến Tả Ý vừa thẹn vừa lúng túng, cố gắng cúi đầu thật thấp xuống đến nỗi cằm gần chạm cả vào ngực.
Dương Nghiêm đánh giá xong, gật đầu vẻ nghiêm chỉnh đáp lại tôi: “Rất được”.
Tả Ý thẹn tới mức tai đỏ rực lên, không kiên trì thêm được nữa, vội vàng quỳ gối về phía tôi rồi bỏ chạy ra ngoài như bị lưu manh đuổi sau lưng.
Dương Nghiêm nhìn theo bóng Tả Ý, khóe miệng nhếch lên lộ rõ vẻ chế nhạo, sau đó ngoảnh đầu nhìn tôi, hỏi: “Người nói xem bây giờ thần có nên lấy vợ không? Đến khi sự việc xảy ra, cũng kéo thêm được một nhà nữa, đông người càng vui mà!”.
Tôi cười: “Được chứ, ngươi thấy ai chướng mắt nhất thì hãy cố mà lấy cho được con gái rượu của người ấy đi”.
Dương Nghiêm cười lạnh: “Vậy thì người mà thần cần lấy nhất là công chúa Vĩ Nguyên của người rồi”.
Công chúa Vĩ Nguyên là phong hiệu của Uy nhi, chỉ nghe cái tên này cũng biết được vị trí của con bé trong lòng Tề Thịnh rồi.
Tôi tự cho mình là một phụ huynh tiến bộ, luôn cho rằng tuổi tác không phải là vấn đề, huống chi tôi còn đổi luôn cả giới tính cơ mà. Nghe anh ta nói vậy cũng chẳng tức giận, chỉ nhún nhún vai, thản nhiên đáp: “Không sao, chỉ cần ngươi kiên trì luyện tập, bảo đảm thể xác và tinh thần khỏe mạnh, đợi hai mươi năm nữa nếu Uy nhi đồng ý lấy ngươi, ta sẽ không cấm cản. Hơn nữa, có câu: ‘Nhạc mẫu xem con rể, càng xem càng ưng’ mà”.
Nói xong, tôi nheo mắt đánh giá Dương Nghiêm từ đầu đến chân một lượt.
Dương Nghiêm nghe xong, khuôn mặt tuấn tú bỗng biến đổi như đèn màu, ban đầu là đỏ rực, sau đó xám lại và cuối cùng là tái nhợt, giận dữ nói: “Người mẹ như ngươi thật hiếm có”.
Tôi cười rồi cao giọng gọi cung nữ đến thay ly trà cho Dương Nghiêm.
Nhân lúc cung nữ còn chưa đến, Dương Nghiêm đứng lên, phủi vạt áo của mình, đe dọa tôi bằng một giọng nói âm trầm: “Người cũng biết thủ đoạn của thần rồi đó, người nói thì phải giữ lấy lời, nếu không thần nhất định không bỏ qua đâu”.
Tôi không thèm ngẩng đầu lên, đỡ Tề Hạo trên đùi, chế giễu: “Thủ đoạn gì? Trèo lên cây hay trèo tường?”.
“Người!”, Dương Nghiêm định nổi cáu nhưng kìm nén được, khom lưng nghiêng người nhìn tôi, trên mặt đã khoác lên nụ cười quen thuộc: “Thần sẽ đem người ra khỏi cung rồi vất xuống Uyển Giang, để người trôi theo sông hàng trăm dặm”.
Tôi nhớ đến tình cảnh bị rơi xuống nước trên sông Uyển Giang lần đó, bất giác rùng mình một cái.
Dương Nghiêm dường như cảm thấy mình cuối cùng cũng đã tìm lại tự tin, cười to hai tiếng rồi nghênh ngang ra về.
Tháng Mười, đang lúc nhà họ Dương danh tiếng nổi như cồn ở Thịnh Đô thì có ngự sử vạch tội Dương Dự là tự cao tự mãn, nuôi dưỡng nô lệ ở trang trại, chiếm đoạt ruộng đất của nông dân, ức hiếp dân thường, hung ác ngang ngược. Tề Thịnh liên tiếp ra mười mấy đạo chiếu chỉ, chẳng ngờ không những không làm dịu chuyện này xuống mà còn càng khiến các ngự sử phản đối thêm mạnh mẽ.
Ngày Mười một tháng Mười, hai vị ngự sử đầu tiên tố cáo Dương Dự đột nhiên bị giết tại nhà, chuyện này lập tức làm kinh động trong ngoài triều đình. Ngày Mười ba tháng Mười, quan chủ quản Đô Sát viện dẫn theo trên dưới một trăm thuộc hạ kéo đến cung Đại Minh, đồng loạt quỳ gối yêu cầu Tề Thịnh điều tra đến cùng vụ án này.
Trước áp lực của hệ thống quan văn, Tề Thịnh chỉ còn cách ra lệnh cho Đại Lý tự, Hình bộ và Đô Sát viện cùng xem xét vụ án này.
Sau đó thì hay rồi, chẳng những các đầu mối đều chĩa vào hết Bình Tây hầu Dương Dự, cho rằng ông ta là giết người cho hả giận, mà ngay cả những hành vi không hợp pháp của Dương Dự hồi còn trong quân ngũ trước đây như: tham ô lương thực và lương bổng của quân đội, tự tiện bãi miễn và đề bạt thăng quan quân, độc đoán chuyên quyền, … cũng bị lôi ra, tội danh càng lúc càng nhiều. Dựa vào những đầu mối này, người ta đã nhanh chóng lần ra được mối quan hệ qua lại mật thiết giữa Sở vương và con trai út Dương Nghiêm của Dương Dự, tiếp đó, ngay cả nhạc gia của Sở vương là Trương Linh cũng bị liên lụy.
Đại Lý tự, Bộ hình và Đô Sát viện đều không khỏi sửng sốt, đám người này mặc dù không ai nói ra nhưng đều hiểu, nếu theo đến tận cùng thì tiếp theo sẽ đến Thượng thư Bộ hình Trương Phóng. Mà hai con gái của Trương Phóng, một gả cho Hạ gia, một trong hai gia tộc đứng đầu trong quân hiện nay; một được gả cho Hoàng đế đương triều Tề Thịnh.
Trừ khi đám người này muốn nhổ tận gốc Hoàng hậu là tôi, còn nếu không, việc này sẽ phải dừng lại.
Có lẽ, đám ngự sử của Đô Sát viện lúc đầu quỳ gối trước cung Đại Minh cũng không ngờ rằng sự việc lại ra nông nỗi này, một lúc lôi ra ba gia tộc lớn nhất, lại còn đụng chạm đến cả Hoàng hậu là tôi nữa. Được lắm, vừa vặn có thể lập một bàn mạt chược, đến cả Sở vương cũng không có tư cách ngồi chơi, chỉ có thể đứng bên quan sát.
Nghe nói quan chủ quản của Đô Sát viện cuống quýt cả lên, người đứng đầu Đại Lý tự cũng chẳng mạnh mẽ hơn bao nhiêu, tóc trên đầu mỗi ngày rụng cả một búi lớn, cứ đà này chẳng mấy chốc có lẽ sẽ hói nửa đầu mất.
Khi Lục Ly tiến cung nói chuyện này, tuy nét mặt có vẻ nhẹ nhõm nhưng một số hành động vô thức đã cho thấy sự căng thẳng trong lòng cô. Sau đó, có lẽ cảm thấy cứ phải giữ bộ mặt tươi cười ấy rất mệt nên không thèm giả vờ nữa, nóng lòng hỏi tôi: “Nương nương, Hoàng thượng liệu có nhân cơ hội này để triệt để loại bỏ nhà chúng ta không? Nếu như bị khoác cho tội mưu phản, chẳng những người nhà đều chết, mà đến cả nương nương cũng sẽ bị liên lụy”.
Tôi uể oải nằm lên chiếc giường mềm trong tẩm điện, thờ ơ đáp: “Hiện tại Hoàng thượng không muốn phế hậu, sẽ không lôi nhà ta vào tội mưu phản đâu”.
Chỉ cần không phải tội mưu phản, thì vụ trọng án làm rung chuyển trời đất này cuối cùng cũng chỉ là sấm sét to, mưa lại nhỏ mà thôi.
Dương Dự là con trai trưởng của Mạch soái, vì thể diện của Thành Tổ, Tề Thịnh cũng không dám giết con cháu của Mạch soái, nhà họ Dương sẽ không có chuyện gì.
Nhà xí huynh là anh em ruột của Tề Thịnh, là con trai độc nhất của Tống thái hậu, nếu như anh ta cả gan giết chết Nhà xí huynh thì Tống thái hậu sẽ đến Hàm Nguyên điện của cung Đại Minh mà thắt cổ tự vẫn, còn chưa kể trong tay Tống thái hậu vẫn nắm giữ di chiếu của Tiên đế để lại, trong đó nói rằng không cho phép Tề Thịnh sát hại anh em. Tóm lại, Nhà xí huynh cũng không thể chết được.
Vấn đề còn lại là việc nhà họ Trương bị liên lụy theo. Trương gia có Hoàng hậu là tôi, người đã sinh hạ con trưởng cho Tề Thịnh, nếu Tề Thịnh không muốn phế hậu thì anh ta cũng không thể giết nhà họ Trương.
Phân tích như vậy, cảm thấy Tề Thịnh thực ra cũng rất ấm ức. Mất bao nhiêu công như vậy, khó khăn lắm mới tóm được cả lũ những kẻ gây trở ngại, nhưng vì vướng phải mối quan hệ qua lại phức tạp, chồng chéo nhau mà cuối cùng một người cũng không thể giết được.
Có lúc tôi nghĩ, nếu là Tề Thịnh thì mình sẽ làm thế nào.
Có lẽ tôi không có được sự kiên nhẫn như Tề Thịnh, cũng không xem xét, cân nhắc được nhiều như anh ta, mười phần thì có đến tám, chín phần sẽ nghiến răng, quyết tâm giải quyết triệt để đám ong nuôi trong tay áo này. Mặc kệ Mạch soái Mạch soái gì, mặc kệ di chiếu di vật gì, cứ triệt tận gốc rồi tính sau!
Quả nhiên không ngoài dự liệu, vụ án điều tra đến Trương Linh thì dừng lại.
Qua ba lần hội thẩm thì tấu chương được dâng lên Tề Thịnh, tội trạng to nhỏ được liệt ra chi chít, đến cả việc thuộc cấp của Trương Linh cưỡng ép một phụ nữ góa chồng cũng được đề cập đến, chỉ duy nhất hai chữ “phản nghịch” là không thấy xuất hiện.
Vụ án đã điều tra xong, vấn đề còn lại là phán quyết như thế nào?
Dương Dự mặc dù mang tội giết người nhưng ở chiến trường cũng lập không ít công trạng, cuối cùng phán quyết tước bỏ chức tước, toàn gia quyến đến Lĩnh Nam.
Nhà xí huynh thì bị giáng từ Sở vương xuống thành Quận vương, phạt ba năm lương bổng.
Về phần Trương Linh thì đơn giản rồi, trực tiếp khai trừ khỏi quân ngũ, mãi mãi không được phục chức.
Kết quả này mặc dù tệ hơn so với dự liệu của Nhà xí huynh, nhưng cũng không chệch quá xa. Chuyện này được nhắc đi nhắc lại mãi đến tận tháng Ba, “Vụ án Ngự sử bị sát hại” ầm ĩ này mới lắng xuống.
Ngày Mười hai tháng Ba là tròn sinh nhật một tuổi của Tề Hạo.
Do sự liên lụy của “Vụ án Ngự sử bị sát hại” trước đó khá rộng, đại thần trong triều dù có hay không liên quan đều theo vụ việc cả nửa năm trời, bản thân Tề Thịnh dường như cũng cảm thấy ngại nên muốn nhân cơ hội này làm dịu bớt bầu không khí trong triều, liền ra ý muốn tổ chức sinh nhật thật lớn cho trưởng hoàng tử.
Tôi thực sự rất thích không khí náo nhiệt, nhưng vì danh tiếng của hoàng hậu, không thể không ra vẻ hiền lương đến cung Đại Minh khuyên Tề Thịnh phải tiết kiệm, không nên tổ chức sinh nhật linh đình cho Tề Hạo.
Tề Thịnh đang đứng trước thư án tập viết, nghe tôi nói thế liền đưa mắt lên nhìn, hỏi: “Nàng thật sự nghĩ vậy chứ?”.
Tôi luôn tuân theo nguyên tắc: “Chuyện nhỏ phải nói thật, chuyện lớn phải hạn chế nói dối tối đa”, vì vậy liền lắc đầu, đáp: “Thiếp cũng muốn tổ chức náo nhiệt, tốt nhất là nhân dịp này đại xá thiên hạ, như vậy sẽ khiến mọi người đều biết được vị trí của Hạo nhi trong tim chàng”.
Tề Thịnh khẽ bật cười: “Thế thì được rồi”.
Tôi cũng cười theo, chủ động đến bên mài mực giúp Tề Thịnh, nói: “Tất cả là để đỡ mang tiếng thôi. Thiếp đến đây một chuyến cũng chỉ để nói với chàng cho phải phép, chàng nghe thì nghe, không nghe thì thiếp càng vui!”
Tề Thịnh dừng bút, ngẩng đầu nhìn tôi, một lát sau đột nhiên nói: “Ta muốn lập Hạo nhi làm thái tử”.
Tôi rất ngạc nhiên, buột miệng nói: “Đừng, chuyện này để sau hãy tính”.
Tề Thịnh quan sát tôi thật kỹ, hỏi: “Nàng nói thật hay nói dối vậy?”.
Tôi định “dùng tình cảm để chinh phục lòng người” nên nghiêm nghị nói: “Chàng cũng có hơn mười năm làm thái tử rồi, chẳng lẽ còn không biết mùi vị của việc làm thái tử là việc khó thứ hai, hà tất phải để Hạo nhi chịu khổ”.
Tề Thịnh nhướng mày: “Nàng cảm thấy làm thái tử phi còn khó hơn làm thái tử sao?”.
Tôi cũng đã quen với việc không nắm trọng tâm câu nói của Tề Thịnh, vì thế chẳng thèm để ý, chỉ nói: “Hoàng thượng hiện tại còn trẻ, sức khỏe tốt, sau này nếu có thể tránh xa tửu sắc, chăm tập luyện, ngủ sớm dậy sớm, ít lao tâm thì việc sống đến bốn, năm mươi năm nữa cũng không thành vấn đề”.
Lời này có vẻ còn lọt tai, Tề Thịnh chầm chậm gật đầu.
Tôi lại nói: “Do vậy, nếu bây giờ lập Hạo nhi làm thái tử thì nó sẽ phải làm đến năm bốn mươi, năm mươi tuổi. Chàng xem đã có vị thái từ nào chịu đựng được bốn, năm mươi năm chưa?”.
Tề Thịnh im lặng nhìn tôi, không nói gì.
“Hiện tại nó còn nhỏ, không biết sau này lớn lên sẽ thế nào, liệu có thực sự gánh vác nổi giang sơn này không”, tôi dừng lại, cụp mắt xuống, tiếp tục nói: “Mà Hoàng thượng vẫn còn trẻ, sau này càng ngày càng nhiều con trai hơn, biết đâu sẽ có một đứa còn được chàng yêu thương quý mến hơn Hạo nhi phải làm thế nào?”.
Tề Thịnh vẫn im lặng, tôi đang cúi đầu nên không biết vẻ mặt của anh ta lúc này thế nào, dù vậy tôi vẫn có thể đoán được, nói khẽ: “Trong hoàng thất, việc cha con ghen ghét nhau, anh em tàn sát nhau từ trước đến nay chẳng hiếm, nửa đời trước của thiếp đã chứng kiến nhiều, nửa đời sau không muốn phải nhìn thấy nữa”.
Một lúc lâu sau mới nghe Tề Thịnh khẽ thở dài một tiếng, nói: “Ta biết rồi”.
Quả nhiên, sinh nhật tròn một tuổi của Tề Hạo mặc dù được tổ chức linh đình nhưng hoàn toàn không nhắc gì đến việc lập thái tử. Sau đó mấy ngày tôi lại đến cung Đại Minh thì phát hiện ra một sự việc rất lạ lùng.
Đồng chí Tiểu Giang, người hơn mười mấy tháng qua ngày nào cũng như ngày nào, chịu thương chịu khó, đầy tinh thần trách nhiệm, luôn giữ đúng vị trí công tác của mình đột nhiên không thấy đâu.
Tiểu nội thị đến gần tôi, khom lưng rất tôn kính, khẽ nói: “Là Hoàng thượng sai người đưa đi ạ, nô tài cũng không biết đã đưa Tô cô nương đi đâu”.
Việc này khiến tôi rất ngạc nhiên, tò mò hỏi: “Đang yên đang lành, sao lại phải đưa đi? Còn quay trở lại không?”.
Tiểu nội thị cẩn thận nhìn sắc mặt tôi, nói: “Nô tài cũng không rõ chuyện gì. Hay Hoàng hậu nương nương tự mình hỏi Hoàng thượng vậy?”.
Ta hỏi? Ta có quyền gì mà hỏi? Giang thị lại không phải người thuộc biên chế hậu cung, tiền lương trước nay cũng không nhận từ chỗ ta. Hơn nữa ta phải hỏi thế nào? Hỏi Giang thị lần này là nghỉ phép hay nghỉ hưu non? Có tiền đền bù không? Sau này liệu có còn phải đóng bảo hiểm, lo chỗ ăn chỗ ở cho cô ta không?
Thấy tiểu nội thị bên cạnh vẫn đang nhìn, tôi gật đầu qua loa, đến khi gặp Tề Thịnh thì vờ như không biết gì, cũng chẳng nhắc tới.
Tề Thịnh cũng không đề cập đến chuyện đó, chỉ nói: “Hạo nhi ngày một lớn, không thể để nó lớn lên trong tay đàn bà được. Từ ngày mai trở đi, hằng ngày nàng đều phải mang nó đến đây, ta muốn tự mình dạy bảo nó”.
Cách nghĩ “giáo dục từ nhỏ” của Tề Thịnh là tốt, nhưng cách làm thì lại khiến người ta không dám gật bừa. Đến nhà trẻ cũng chỉ nhận trẻ đủ ba tuổi, thế mà anh lại bảo một đứa bé mới vừa tròn một tuổi hằng ngày phải học cách quản lý nhà nước sao?
Tôi dở khóc dở cười nhưng thấy Tề Thịnh rất nghiêm túc, không giống đang đùa, đành phải gật đầu đồng ý.
Ngày hôm sau, quả nhiên Tề Thịnh phái tiểu nội thị đến cung Hưng Thánh giục tôi. Chẳng còn cách nào khác, tôi đánh dày mặt mà bế Tề Hạo đến cung Đại Minh điểm danh.
Khi Tề Thịnh tiếp kiến triều thần, tôi phải ở sau bình phong bế con nghe. Khi Tề Thịnh phê duyệt tấu sớ, tôi phải bế con ngồi trên giường nhỏ bên cạnh anh ta.
Lúc mới bắt đầu, Tề Hạo chưa quen với môi trường mới, tỏ ra rất trật tự, ngoan ngoãn ngồi trong lòng tôi. Nhưng chưa được hai ngày thì nó không chịu ngồi yên nữa, cứ nhoài người đòi xuống, sau đó chập chững đi ra ngoài bình phong.
Tề Thịnh đang ở ngoài nghe mấy viên quan của Hộ bộ, Lại bộ tấu trình, tôi không dám lên tiếng gọi con, chỉ có thể túm lấy cổ áo của nó mà lôi lại. Không ngờ động vào ổ kiến lửa, Tề Hạo mở to mắt lên nhìn tôi, bộ dạng tủi thân mếu máo, vài giây sau khóc tướng lên.
Tôi dỗ mãi không được, đang lo đến vã mồ hôi, chỉ hận là không thể dùng tay bịt miếng nó lại thì Tề Thịnh từ phía trước bình phòng bước vào, bế nó ra ngoài đặt lên đùi, vừa nhẹ nhàng dỗ dành, vừa thản nhiên bảo Thượng thư Hộ bộ tiếp tục nói.
Tôi ngồi đằng sau bình phong, mọi người bên ngoài phản ứng thế nào tôi không nhìn được, chỉ biết là Thượng thư Hộ bộ trình tấu không còn được trôi chảy như lúc trước.
Về sau cảnh tượng trở thành Tề Thịnh bế con tiếp kiến triều thần ở bên ngoài bình phong, tôi một mình chăm chú lắng nghe ở sau bình phong. Hai lần đầu, triều thần còn ngạc nhiên, về sau thì có vẻ bình tĩnh hơn.
Hơn một tháng trôi qua, tôi không rõ Tề Hạo có mở mang được tí kiến thức nào không, nhưng tôi đã biết hết các sự vụ trong triều rồi. Thỉnh thoảng Tề Thịnh nổi cơn lười, tôi còn đọc tấu chương giúp anh ta. Mặc dù cách ngắt câu không được lưu loát nhưng Tề Thịnh đều có thể hiểu rõ ràng, sau đó nhắm mắt đọc lời phúc đáp cho các bản tấu đó.
Tôi cầm bút lông nguệch ngoạc ghi lại trên giấy, kẹp vào các bản tấu để Tề Thịnh đích thân chép lại lần nữa.
Lần đầu tiên Tề Thịnh nhìn thấy chữ viết của tôi, hồi lâu chẳng nói gì, sau đó chỉ vào các dòng chữ, hỏi với vẻ vô cảm: “Nàng viết cái gì vậy?”.
Nhất thời tôi không biết Tề Thịnh chế giễu chữ viết rời rạc của mình, hay là vì đọc không được kiểu chữ giản thể ấy, suy nghĩ một lúc mới đáp: “Đây gọi là chữ giản thể, là dạng chữ đơn giản hóa các nét của chữ phồn thể mà chàng dùng. Chàng không thấy như thế này đơn giản dễ học hơn sao?”.
Tề Thịnh nhìn kỹ chữ viết của tôi, từ chối cho ý kiến, chỉ nói: “Sau này đừng viết kiểu chữ này, để người khác nhìn thấy thì không ổn đâu”.
Tôi gật đầu đồng ý, nhưng đến lần sau, theo bản năng tôi vẫn viết chữ giản thể.
Sau vài lần như vậy, Tề Thịnh cuối cùng cũng nổi giận, không thèm ngồi ghế mềm nữa mà đứng dậy đến giám sát bên cạnh tôi.
Tôi cầm bút đứng đờ ra đó, mực trên ngòi bút nhỏ giọt rơi hết xuống mà vẫn không viết nổi một chữ.
Tề Thịnh liếc tôi, hỏi: “Sao thế?”
Trán đầy mồ hôi, tôi ấp úng một hồi lâu, xấu hổ trả lời: “Không biết viết”.
Tề Thịnh bối rối: “Không biết viết cái gì?”
Tôi lau mồ hôi, đáp: “Chữ phồn thể, chưa học qua nên không biết viết.”
Tề Thịnh kinh ngạc nhìn tôi: “Lúc nãy không phải nàng biết nên mới đọc được sao?”
Tôi đáp: “Nhìn chữ thấy quen quen nên đọc bừa, tú tài biết chữ cũng chỉ biết một nửa thôi mà!”
Tề Thịnh nhìn tôi, không nói câu nào.
Từ đó trở đi tôi lại có thêm việc để làm: khi Tề Thịnh ngồi phê tấu sớ thì tôi đứng bên cạnh tập viết chữ. Cứ như vậy, phần lớn thời gian trong ngày tôi đều phải ở cung Đại Minh, có lúc Tề Thịnh bận quá, tôi còn phải tăng ca đến tận khuya, sau đó thì ở lại cung Đại Minh luôn cho tiện.
Tôi tính sơ sơ, trước mắt ngoài việc gánh vác trọng trách đại tổng quản hậu cung, tôi còn làm cả công việc của thư ký riêng và trợ lý sinh hoạt, thỉnh thoảng còn phải thị tẩm nữa… Xem ra, tôi cũng là một người đa nhiệm phết đấy chứ.
Càng mệt tôi càng nhớ Giang thị, thấy đồng chí Giang đúng là một thanh niên có lý tưởng, có tham vọng, có khả năng, chịu thương chịu khó. Nếu cô ta vẫn còn ở cung Đại Minh thì Tề Thịnh sẽ không sai bảo tôi như gia súc thế này.
Trong tháng Năm, tấu sớ đến từ Giang Bắc đột nhiên nhiều lên, phần lớn đều là chuyện trong quân. Tôi linh cảm thời điểm Tề Thịnh ra tay với Bắc Mạc đã gần kề.
Một hôm, tôi cùng Tề Thịnh tăng ca đến tận khuya, lại phải cùng anh ta tập thể dục trên giường xong mới nhân cơ hội nói: “Thiếp muốn về cung Hưng Thánh”.
Hơi thở của Tề Thịnh còn ổn định, một lúc sau mới hỏi: “Tại sao?”.
Tôi dùng cái chăn mỏng che ngực, nhổm người lên nhìn Tề Thịnh, đáp: “Bởi vì thiếp là Hoàng hậu, phải cai quản tam cung lục viện, cả ngày ở tiền triều thì làm được cái gì? Hôm qua Hoàng thị và Lý thị chỉ vì hai xấp vải mà cãi nhau, muốn nhờ thiếp dàn xếp lại bị chặn ở ngoài cung Đại Minh không cho vào. Hai người ấy đành phải khóc lóc tìm đến Thái hậu, lúc đó sự việc mới được giải quyết”.
Tề Thịnh nghiêng đầu yên lặng nhìn tôi, tôi cũng không lẩn tránh mà thẳng thắn nhìn lại.
Không bao lâu, tôi không nín được bật cười, đưa tay khẽ đẩy vào người Tề Thịnh, nói: “Luyện tập đấu mắt à, trong màn tối thế này, đến cả mắt cũng chẳng nhìn rõ thì có ra vẻ quyến rũ mấy cũng bằng không thôi”.
Tề Thịnh cũng bật cười rồi cười kéo tôi vào lòng, bộ ngực vạm vỡ của Tề Thịnh cũng rung lên vì cười, phải một lúc sau mới hết. Sau một hồi im lặng mới nghe thấy tiếng anh ta nói: “Ta phải đi đánh Bắc Mạc, đó là di chỉ của Thành Tổ”.
Người tôi bất giác cứng đơ lại, tim cũng đập mạnh hơn hẳn. Để tránh bị Tề Thịnh phát hiện, tôi vội để tay vào ngực anh ta, kéo giãn khoảng cách giữa hai người, hỏi lại bằng giọng khàn đặc: “Chàng muốn thân chinh đi sao?”.
Tề Thịnh không nói gì, chỉ đưa tay đặt lên ngực tôi.
Tim tôi đập như trống dồn nhưng cơ thể thì không dám động đậy dù chỉ là một chút, đành để mặc bàn tay nóng ran thô ráp của Tề Thịnh chạm vào chỗ chỉ cách trái tim tôi một lớp xương thịt.
Trong bóng tối, tôi vẫn lờ mờ nhìn thấy khóe miệng Tề Thịnh dường như khẽ nhếch lên, sau đó anh ta nói bằng giọng chậm rãi: “Đừng sợ, nếu ta không trở về thì nàng đưa Tề Hạo lên làm hoàng đế, vừa vặn hoàn thành ước mơ làm thái hậu của nàng”.
Rõ ràng là giọng điệu đùa cợt nhưng từng chữ đều như sấm rền trong lòng tôi. Tim tôi thật không có chút tiền đồ, đập càng ngày càng nhanh, mỗi dây thần kinh đều căng lên như dây thép rồi rối nùi thành một bó. Bất giác tôi nuốt nước bọt, cân nhắc xem phải nói gì để thể hiện lòng trung thành của mình.
Trong bóng tối, ánh mắt Tề Thịnh như lưỡi kiếm vô hình, dường như có thể trực tiếp xuyên thấu lòng người.
Tôi há miệng một lúc mà vẫn không thốt được câu nào.
Lời nói của Tề Thịnh rõ ràng không phải là ý muốn nhất thời, vậy việc anh ta gọi tôi đến cung Đại Minh giúp đỡ mình giải quyết chính sự là muốn thăm dò hay là đào tạo nghiệp vụ trước khi nhậm chức đây?
Và lúc này, anh ta muốn có đáp án như thế nào?
Cân nhắc một hồi, trái tim cũng đã ổn định trở lại, tôi bình tĩnh hỏi: “Nếu như Lão cửu không phục thì làm thế nào?”.
Tề Thịnh nhẹ nhàng thốt lên một từ: “Giết”.
Ừm, vẫn lời ít ý nhiều như trước nay!
Tôi thán phục nhìn Tề Thịnh, hỏi: “Ý kiến hay! Quả là ý kiến hay! Vấn đề là… giết thế nào?”.
Tề Thịnh lại cười, nhẹ nhàng vuốt ve lưng tôi, đáp: “Ta giúp nàng giết, trước khi chuyển giao quyền trượng cho nàng, ta sẽ thay nàng trừ bỏ hết những cái gai trên đó”.
Tôi ngỡ ngàng nhưng vẫn tươi cười, nhẹ nhàng nói: “Ừ, có điều, chàng đừng giao cho thiếp một cây trượng đã được mài trơn bóng nhé. Như thế đâm người khác cũng không đau đâu”.
Tề Thịnh nghĩ một chút rồi gật đầu: “Được”.
Tôi thấy bất luận anh ta có tin hay không thì cũng phải ra vẻ cho anh ta xem mới được, thế nên tôi vùi đầu vào ngực Tề Thịnh, nghẹn lên nghẹn xuống mấy lần mới hỏi bằng giọng khàn khàn: “Không thể để người khác đi được sao?”.
Tay của Tề Thịnh vuốt dọc theo sống lưng tôi lên tới đầu, sau đó ngón tay quấn quấn nhưng sợi tóc mai bên thái dương, khẽ trả lời: “Không ai thích hợp hơn ta”.
Lời của Tề Thịnh rất thật.
Các tướng soái đời Thành Tổ cơ bản đều đã bị Diêm Vương mời đi ăn uống hoa tửu rồi, chỉ còn sót lại có một vài người thì cũng đều là những ông già bảy, tám mươi tuổi chẳng mong đợi gì được.
Đời thứ hai, Dương Dự là tướng tài lại không thể dùng, Trương Linh thì vừa bị Tề Thịnh lôi xuống ngựa. Còn lại một người của Tiết gia và Mạc gia, tuy mãnh tướng không ít, song đều không thể đảm nhận được vị trí chủ soái.
Đến đời cháu thì đều còn trẻ, phần lớn là hữu dũng vô mưu, thiếu kinh nghiệm trận mạc nên càng không dám dùng.
Tính đi tính lại, chỉ có Tề Thịnh là phù hợp. Từ nhỏ Tề Thịnh đã đọc binh thư, có tư chất thiên bẩm, được Thành Tổ vô cùng yêu mến, còn tự mình dạy dỗ. Lúc rảnh rỗi, hai ông cháu ngoài bàn bạc chiến thuật trên sa bàn ra, còn thường xuyên mang quân lên thảo nguyên Tây Hồ thực chiến khiến dân chúng nơi đó rất căm giận.
Cho đến lúc Tiên đế kế vị thì người dân trên thảo nguyên mới có được cuộc sống yên ổn.
Tiên đế là trí thức, chỉ một lòng phát triển kinh tế văn hóa, vì nể mặt Thành Tổ nên không thể không lập Tề Thịnh làm thái tử nhưng trong lòng lại không xem đứa con giỏi võ này ra gì.
Tề Thịnh cũng tự biết mình, bản thân không được phụ hoàng yêu mến thì dứt khoát không lượn lờ trước mặt để người ngứa mắt, thường xuyên tự xin đi biên cương phía bắc tuần sát. Một năm thì phải đến bảy, tám tháng là sống trong các doanh trại quân đội ở Giang Bắc, vô cùng quen thuộc với Giang Bắc và Bắc Mạc.
Lần này Hoàng thượng là chủ soái thân chinh đến Bắc Mạc, chỉ cần không phạm lỗi như Triệu đại ca Triệu Quát thì sẽ thích hợp hơn bất cứ ai.
Triệu Quát là con trai Triệu Xa, danh tướng thời chiến quốc. Triệu Quát rất thông minh, nói về quân sự thì đến Triệu Xa cũng không thắng được, nhưng lại không có kinh nghiệm trận mạc. Bốn mươi vạn quân nước Triệu do Triệu Quát dẫn đầu bị tiêu diệt trong thời gian ngắn, bản thân Triệu Quát cũng tử trận.
Tôi và Tề Thịnh cứ nằm như vậy một lúc, bầu không khí có chút tịch mịch, đột nhiên Tề Thịnh cười khẽ một tiếng nhẹ nhàng hỏi tôi: “Nàng không nỡ xa ta sao?”.
Câu hỏi này gây khó cho tôi rồi.
Nếu tôi đáp là “không nỡ”, anh ta chắc cũng chẳng tin, nhưng nếu nói “nỡ” thì anh ta lại không vui. Tôi nghĩ đi nghĩ lại, quyết định không trả lời thẳng là tốt nhất.
Tôi ngẩng đầu lên khỏi ngực Tề Thịnh, nửa đùa nửa thật nói: “Hai chúng ta cùng nhau đi đến ngày hôm nay, con cũng đã có hai đứa rồi, nếu nói là không liên quan gì đến nhau thì rõ ràng nói láo. Chàng đề phòng thiếp, thiếp dè chừng chàng, đây là điều rất bình thường. Sự tin tưởng không phải là dựa vào ngôn từ để duy trì, để thời gian trả lời mới chính xác. Chàng muốn thân chinh xuất trận thiếp không cản, thiếp sẽ dốc lòng thay chàng cai quản Thịnh Đô. Chàng trở về, thiếp sẽ tiếp tục làm hoàng hậu của chàng. Nhưng nếu như thực sự chàng không trở về được, thiếp cũng sẽ không nói những lời ‘sống cùng sống, chết dùng chết’ để lừa dối chàng, thiếp chỉ có thể cố gắng hết sức để bảo vệ Uy nhi và Hạo nhi thôi, ngôi vị hoàng đế có thể giữ được thì giữ, không giữ được thì thôi, không gì quan trọng hơn việc tiếp tục sống”.
Tề Thịnh nghe vậy, một hồi lâu sau vẫn im lặng, cuối cùng nói với vẻ dở khóc dở cười. “Nàng chẳng có chút khí phách nào thế?”.
“Khí phách”, tôi cười, cố ý phả hơi thở vào mặt Tề Thịnh: “Nếu thiếp có thứ đó thì đã chết tới cả trăm ngàn lần rồi, sao có thể cùng chàng nằm trên một chiếc giường như lúc này?”.
Lần này Tề Thịnh không cười nữa, chỉ chăm chú nhìn tôi một lúc, sau đó nhẹ nhàng nói: “Cả ngày mệt rồi, ngủ đi”.
Tôi nghe theo, vùi đầu vào ngực anh ta, bụng thầm rủa: Ngủ cái khỉ gì! Nghe tin xong đầu óc tỉnh như sáo luôn rồi, ngủ được mới lạ!
Không lâu sau lại nghe thấy Tề Thịnh hỏi: “Không ngủ được à?”
Tôi im lặng rồi khẽ “ừ” một tiếng.
Tề Thịnh cười: “Ta cũng thế, nếu đã vậy thì đừng ngủ, làm lại lần nữa đi”.
Nói chưa hết câu thì anh ta đã nằm đè lên người tôi.
Lúc đầu tôi chẳng có chút hứng thú nào, nhưng nghĩ lại, nếu anh thực sự bị Nhà xí huynh giữ lại ở Giang Bắc thì có lẽ tôi thành góa bụa mất, đến lúc đó muốn ngủ với đàn ông cũng chẳng dễ dàng gì. Nghĩ vậy tôi cũng trở nên nhiệt tình, hai chúng tôi cứ quấn lấy nhau cho tới khi trời gần sáng mới ngủ thiếp đi.
Tháng Năm, Tề Thịnh quả nhiên tuyên bố muốn tuần sát phương Bắc.
Hoàng đế đi tuần sát vốn là việc lớn, nhưng do Thành Tổ khá coi trọng việc phòng ngự biên cương phía Bắc, cứ hai, ba năm lại đến Giang Bắc một chuyến nên mọi người cũng không coi đây là việc gì trọng đại.
Đến đời Tiên đế, người lại yêu thích cảnh non nước hữu tình của Giang Nam, không thích phong cách quê mùa tua du lịch cưỡi ngựa một tháng tới biên cương phía Bắc. Thế nhưng ông lại không thể tự tiện phá bỏ quy tắc của Thành Tổ, nên sau hai lần nếm trải đắng cay đã linh hoạt thay đổi lại, việc tuần sát biên cương phía Bắc được đổi thành hoàng đế góp tiền, thái tử góp sức.
Khi còn là thái tử, tổng cộng Tề Thịnh đã đến tuần sát phương bắc ba lần, lần cuối cùng đã bị anh em Sở vương âm mưu hãm hại, suýt nữa thì chết trên sông Uyển Giang.
Lúc đó tôi vẫn là Thái tử phi Trương thị, ban ngày còn kéo Dương Nghiêm vượt qua nửa sông Uyển Giang, đến đêm đã lại ôm lấy Sở vương Tề Hàn trôi qua Cửu Khúc Hiệp, làm cho tôi sau này nhìn thấy dòng nước nào chảy cũng sợ.
Đây là lần đầu tiên Tề Thịnh tuần sát phương bắc từ sau khi đăng cơ, thanh thế tất nhiên là lớn hơn nhiều so với lúc làm thái tử. Tuy nhiên, chỉ có một số trọng thần biết lần này, anh ta mượn danh nghĩa đi “tuần sát phương bắc” để “thân chinh xuất trận”, những người còn lại chỉ cho rằng Tề Thịnh đi du ngoạn bằng kinh phí triều đình nên chẳng mấy lưu tâm, thậm chí có ngự sử còn đả kích chuyến đi lần này của Tề Thịnh là hành vi phung phí của công.
Ruồi nhặng tuy không cắn người nhưng lại rất phiền phức!
Tôi đưa cho Tề Thịnh cả chồng tấu sớ, hỏi anh ta: “Không có cách nào để đám người này im miệng được sao?”
Tề Thịnh tiện tay lật giở rồi ném sang một bên, cười: “Họ tự nói tự nghe thôi, nàng lo công việc của mình đi, để ý đến họ làm gì!”
Anh thì thoải mái rồi, đến khi anh phủi mông đi đánh Bắc Mạc rồi, người ở lại Thịnh Đô chịu trận chẳng phải là tôi sao?
Tôi thành khẩn nhìn Tề Thịnh, thương lượng: “Hay là chàng mang luôn đám người này theo, lúc rảnh rỗi còn có vài người để tán chuyện?”
Tề Thịnh hé mắt ra nhìn tôi, nói: “Không được, lần này người đi đã nhiều rồi, còn lại để cho nàng”.
Trong lòng tôi biết rất rõ, việc này chỉ có “không muốn mang theo”, chứ không có “không thể mang theo”, anh còn mang theo được cả Triệu vương và Sở vương cơ mà, còn sợ thêm mấy cỗ xe ngựa cho đám ngự sử đó dùng sao?
Đúng vậy, lần “tuần sát phương bắc” này, Tề Thịnh lệnh cho Triệu vương và Nhà xí huynh cùng ngự giá.
Khi mới nghe được thông tin này, tôi còn sững ra mất hai giây, nhưng rất nhanh đã hiểu được dụng ý của Tề Thịnh. Anh ta không tin tưởng hai huynh đệ này, thà giữ họ bên mình còn yên tâm hơn là để họ ở lại Thịnh Đô.
Trước khi chuẩn bị khởi hành, Nhà xí huynh cuối cùng cũng vượt qua rất nhiều trở ngại để được gặp tôi tại chỗ Tống thái hậu, mang cho tôi tờ thánh chỉ thật hơn cả thật. Đó là di chiếu được viết ra bằng khẩu khí của Tề Thịnh, cũng có thể xem như là chiếu ngự phế ngôi, chiếu thư thể hiện tình cảm dào dạt, tài văn chương nổi bật, câu chữ ngắn gọn chặt chẽ, khái quát “sự thật” về một vị hoàng đế vì không nghe quần thần khuyên can, cứ khăng khăng tiến quân Bắc phạt để cuối cùng vùi thây nơi chiến trường.
Câu này đủ dài chưa? Đọc đã tốn sức chưa? Đừng vội oán giận, cái này so với bản thánh chỉ gốc mà tôi xem thì đã đơn giản hơn nhiều, ít ra thì tôi cũng thêm mấy cái dấu phẩy vào rồi.
Cũng may là dạo trước, dưới áp lực của Tề Thịnh, tôi đã ngụp lặn trong văn ngôn, cũng có thể hiểu đến bảy, tám phần thánh chỉ này.
Phần cuối cùng của thánh chỉ, Tề Thịnh chuyển giao ngôi vị hoàng đế cho trưởng hoàng tử Tề Hạo.
Nhà xí huynh đợi tôi xem xong thì lấy lại bản thánh chỉ, cười nhạt, nói: “Để an toàn, trước tiên cái này cứ cất ở chỗ Thái hậu. Nếu chuyện Giang Bắc không thành, hoàng hậu coi như mình chưa từng nhìn thấy, còn nếu chuyện Giang Bắc thành…”
Anh ta nói đến đây rồi dừng lại, im lặng nhìn tôi.
Tôi bật cười, nói: “Nếu như việc của ngươi thành công rồi, thì ta dùng thánh chỉ này để đưa trưởng hoàng tử lên ngôi, sau đó lệnh cho ngươi và Trương Phóng cùng hỗ trợ việc triều chính. Có điều, ngươi cũng phải chú ý, nếu để Bắc Mạc chiếm thể thượng phong, một khi bọn họ thừa thắng tiến vào thì muốn đuổi ra cũng không dễ dàng đâu”.
Nhà xí huynh gật đầu, trịnh trọng nói: “Thần cũng là con cháu của Thành Tổ, tất nhiên sẽ không để quân Bắc Mạc vượt qua Tĩnh Dương, cũng mong hoàng hậu giữ lời.”
Việc giữ lời, không thể trông cậy vào một câu nói mà còn phải xem hành động nữa. Tôi không nói gì, chỉ khẽ nhếch khóe miệng, sau đó đứng lên đi ra ngoài. Vừa đến cửa thì Nhà xí huynh gọi to ở đằng sau, khi tôi quay đầu nhìn anh ta thì không nói, chỉ im lặng nhìn tôi.
Tôi hỏi: “Còn chuyện gì nữa sao?”
Nhà xí huynh chỉ cười nhạt, khẽ lắc đầu.
Tôi thật sự, thật sự là không thể chịu được cái kiểu nghệ thuật như có như không này, cảm thấy ê hết cả một bên răng, vội vã quay người mang theo hai tiểu mĩ nữ mà Tống thái hậu ban tặng đi về cung Hưng Thánh.
Trong hậu điện, Tả Ý vừa chỉ huy đám cung nữ tắm rửa cho Tề Uy và Tề Hạo xong, trông cô cũng chẳng khác gì trải qua một trận thủy chiến, nước trên tóc vẫn còn đang nhỏ giọt, nghe nói tôi về liền chạy ra nghênh đón, ân cần hỏi: “Nương nương, không có chuyện gì chứ ạ?”
Cô hỏi xong mới nhìn thấy hai tiểu mĩ nhân ở đằng sau tôi, khuôn mặt lộ rõ vẻ kinh ngạc. Tôi giới thiệu sơ qua hai tiểu mĩ nhân với Tả Ý, là những người thân thích xa đến không thể xa hơn của Tống thái hậu, bề ngoài là phái đến để chăm sóc Hoàng thượng và Hoàng hậu, nhưng ý sâu xa bên trong là mong tôi giúp đỡ bố trí công việc để làm sao có thể leo lên được long sàng của Tề Thịnh.
Tả Ý vừa nghe vừa bĩu môi, đợi khi mọi người ra hết mới nói với tôi: “Nô tì cứ nghĩ Thái Hậu mời nương nương qua là có chuyện gì, hóa ra lại là sắp đặt tay chân. Nương nương đừng có khách khí với họ, cứ để họ ở lại cung chăm sóc nương nương, xem họ có sống được đến khi hoàng thượng đi tuần sát phương bắc trở về không”.
Hai tiểu mỹ nữ kia đều mười lăm, mười sáu tuổi, vừa vặn là độ tuổi của những nụ hoa e ấp, khiến người ta nhìn vô cùng thích mắt, tôi quả thật có ý định giữ chúng bên mình, nhưng dù sao cũng là người do Thái hậu phái đến, vẫn phải nói với Tề Thịnh một tiếng mới được.
Tề Thịnh vừa nghe Thái hậu đem tặng hai người họ hàng xa thì mày kiếm lập tức nhíu lại: “Cũng không biết Thái hậu lấy đâu ra lắm họ hàng thân thích thế, vẫn chưa hết cơ à?”.
Tôi nghiêm mặt không nói, nhưng trong lòng thì thầm kêu: Thế thì có gì là lạ đâu! Nếu đang ở thời hiện đại, vòng vèo một hồi thì đến con tinh tinh ở châu Phi cũng có họ hàng với anh luôn ấy chứ. Đây dù sao cũng là mỹ nhân, anh còn không vừa lòng cái nỗi gì!
Tề Thịnh liếc tôi, hỏi: “Là hai mỹ nữ à?”.
Tôi thành thật trả lời: “Quả đúng là mỹ nhân, rất xinh đẹp yêu kiều”.
Tề Thịnh từ tốn gật đầu.
Tôi thăm dò: “Hoàng thượng lần này đi tuần sát có muốn mang họ theo để giải khuây không?”.
Tề Thịnh lắc đầu: “Ta đi đánh giặc, mang đàn bà con gái theo làm gì!”.
Tôi thầm thở phào, miệng lại nở nụ cười: “Cũng phải, mọi người đều nói trong quân doanh không được có đàn bà, nếu không sẽ bị xui xẻo. Vậy cứ để hai người này ở lại trong cung đã”.
Tề Thịnh hoài nghi nhìn tôi, lông mày hơi nhíu lại, suy nghĩ một lát rồi nói: “Thôi được rồi, cứ để ta mang theo họ cho yên tâm”.
Lời của vua thảo nào ai dám bất tuân, tôi ngoan ngoãn đáp lại một tiếng “vâng”, trong lòng thì lại rất khinh thường tính khí lúc nóng lúc lạnh của anh ta.