“Chết?” Tưởng Nhược Nam cười nhạt, “Muội chết rồi, chẳng phải sẽ khiến người ta được như ý sao? Yên Nhiên, không phải là người khác giả tạo nham hiểm mà là muội quá yếu đuối, vô dụng. Chính vì muội yếu đuối như thế nên mới bị người ta cưỡi lên đầu lên cổ. Con người, sống phải có khí thế, muội là chính thất, lại là muội muội của An Viễn Hầu, sao có thể để một thiếp thất chèn ép như thế? Chính vì muội chẳng coi bản thân mình ra gì nên người ta lại càng không coi muội ra gì. Thỉnh thoảng, muội phải mang cái khí thế của chính thất ra, danh phận của muội và cô ta sờ sờ ra đó, cho dù cô ta không phục cũng phải ngoan ngoãn nghe muội giáo huấn. Để người ta biết rằng, muội mới là chính thất, người ta phải kiêng dè. Muội suốt ngày ủ rũ buồn bã, ngồi một chỗ than thân trách phận, từ sáng tới tối mặt ủ mày chau, đương nhiên sẽ khiến người khác coi thường. Ngay cả Ninh Vương cũng không thích nổi một người phụ nữ cả ngày chỉ biết khóc lóc tố khổ, muội làm vậy chẳng khác nào ép hắn đi chỗ khác giải khuây.”
Cận Yên Nhiên nghe mà nghệt mặt, nhất thời quên cả buồn. Từ xưa tới nay, những người bên cạnh luôn tỏ ra thông cảm với nàng ta, mắng rủa Tĩnh Nhàn trắc phi giả tạo nham hiểm, chưa có ai nói với nàng ta những lời như vậy. Nghe xong, nàng ta bỗng thấy giận, lẽ nào nàng ta bị hãm hại mà đối phương lại không sai, người sai lại chính là nàng ta ư?
Mở miệng định phản bác, nhưng thấy chẳng biết phải phản bác thế nào.
Tưởng Nhược Nam nhìn bộ dạng ấy, đương nhiên hiểu ngay nàng ta định nói gì, cười nhạt, nói tiếp: “Nhất định là muội đang nghĩ, sao bỗng dưng lại thành ra là muội sai? Yên Nhiên, ta vì muốn tốt cho muội nên mới nói thế. Ta cũng có thể thông cảm với muội, an ủi muội, xót thương muội, nhưng đối với muội mà nói, ta làm vậy cũng có ích gì đâu? Tất cả những thông cảm và xót thương chỉ khiến muội càng ngày càng yếu đuối mà thôi. Tĩnh Nhàn trắc phi đó vào phủ trước muội, sinh con trước muội, sao có thể cam tâm tình nguyện để muội chèn ép. Cô ta muốn tranh giành muốn đoạt lại mọi thứ cũng là lẽ thường. Nhưng nếu muội mạnh mẽ hơn một chút, để cô ta nhìn thấy thực lực của mình thì cô ta cũng không dám ngang nhiên như vậy. Trước khi làm bất cứ việc gì, đều phải cân nhắc hậu quả trước sau. Hiện giờ, muội không thủ đoạn được như cô ta thì cũng thôi, nhưng ngay cả khí thế cũng thua người ta, người ta cần gì phải khách khí với muội? Để mình rơi vào hoàn cảnh hiện nay, muội phải chịu phần lớn trách nhiệm. Muội không tỉnh ngộ, chẳng ai giúp được muội cả.”
Cận Yên Nhiên muốn tìm Tưởng Nhược Nam để nhận sự an ủi của nàng, không ngờ Tưởng Nhược Nam lại chẳng an ủi được câu nào, còn mắng cho nàng ta một trận. Nàng ta tức tới mức giậm chân bình bịch, mắt đỏ hoe, nói: “Thôi, muội không nói với tẩu nữa.” Rồi tức giận quay người bỏ đi.
Tưởng Nhược Nam nhìn theo bóng nàng ta, thở dài thườn thượt, hi vọng sau khi quay về nàng ta sẽ nghĩ ra, nếu không chẳng ai có thể giúp nàng ta hết.
Du ngoạn một hồi, mọi người lần lượt tới hành lễ cáo từ Hoàng hậu, rời khỏi hoàng cung.
Ba ngày sau bữa tiệc, cuối cùng Cảnh Tuyên Đế cũng hạ thánh chỉ, phong Tưởng Nhược Nam làm Hòa Thuận công chúa. Đại lễ tấn phong được tổ chức sau một tháng nữa.
Trong nháy mắt, Tưởng Nhược Nam trở thành nhân vật nổi tiếng trong toàn thành, bất kể nhà nào có tiệc tùng, đều coi việc mời được nàng tới là niềm vinh hạnh.
Tin tức truyền đến Cận gia.
Thái phu nhân sau khi biết tin, im lặng mất một lúc, lát sau mới chua xót nói với Cận Thiệu Khang: “Chẳng trách cô ta lại tự phụ như vậy, thì ra đã trở thành công chúa.”
Cận Thiệu Khang đáp: “Mẫu thân, Nhược Lan từ đầu tới cuối đâu có chỗ nào tự phụ, nàng đã có lời trước, là con phản bội lời thề, con có lỗi với nàng.”
Thái phu nhân khẽ nói: “Có suy nghĩ ấy chính là tự phụ, làm gì có người phụ nữ nào giống cô ta?”
“Đúng là không có người phụ nữ nào giống nàng, mẫu thân, mẫu thân nghĩ mà xem, làm gì có người phụ nữ nào dựa vào khả năng của bản thân, một mình sinh con, một mình nuôi con khôn lớn mà không oán không hận?”
Thái phu nhân không nói gì nữa.
Cận Thiệu Khang nói tiếp: “Nếu như thế gọi là tự phụ thì nàng hoàn toàn có tư cách để tự phụ. Mẫu thân xem, không có Cận gia chúng ta, nàng vẫn sống rất tốt.”
Thái phu nhân khẽ hừ một tiếng, trầm mặc hồi lâu rồi mới đáp: “Nói như vậy, cô ta sẽ không quay về thật sao?”
Cận Thiệu Khang nhìn bà, “Mẫu thân, thực ra mẫu thân muốn nàng quay về, đúng không?”
Thái phu nhân nói cứng, “Cận gia chúng ta đâu phải không có cô ta không được.” Bà hừ liên mấy tiếng, một lát sau, lại khẽ nói: “Có điều, dù sao cô ta cũng là mẹ đẻ của bọn trẻ… Là công chúa thì sao, cô ta đã từng lấy chồng, từng sinh con, tìm đâu được nơi nào tốt hơn Cận gia chúng ta nữa?”
Trong đầu Cận Thiệu Khang bỗng hiện lên bóng dáng của Tả Bá Xương, hắn trầm giọng nói: “Chưa chắc.” Là vàng thì sẽ phát sáng, thiên hạ này đâu phải chỉ mình hắn là người biết nhìn.
Thái phu nhân lại hừ một tiếng, rất không đồng tình.
Cùng với lúc thánh chỉ được ban xuống, Cảnh Tuyên Đế cũng ban cho Tưởng Nhược Nam phủ Công chúa và rất nhiều ruộng đất. Phủ Công chúa tọa lạc ở nơi tốt nhất trong hoàng thành, rộng rãi, còn kèm theo rất nhiều a hoàn, thái giám tới hầu hạ, Tưởng Nhược Nam chỉ cần chuyển vào ở là xong. Căn nhà mà Ánh Tuyết từng mua trước kia, Tưởng Nhược Nam lại nhờ Ánh Tuyết bán đi. Vì là nhà của Hòa Thuận công chúa, rất nhiều người muốn lây cái may mắn của nàng, do đó bọn họ ra giá rất cao để mua lại căn nhà ấy, khiến Tưởng Nhược Nam kiếm được món hời lớn.
Giờ cuộc sống của Tưởng Nhược Nam đúng là rất thoải mái, của hồi môn của nàng vốn không ít, lại thêm đồ Hoàng thượng ban tặng, hàng tháng được lĩnh bổng lộc trong triều. Cho dù cả đời này nàng không lấy ai cũng chẳng sao, nàng vẫn có thể sống rất tốt, rất sung túc.
Sau chuyện đó nàng còn đưa bọn trẻ tới Hầu phủ một chuyến nữa, Thái phu nhân vì kiêng dè thân phận của nàng mà không dám nói những lời thất lễ nữa. Nàng đưa bọn trẻ đến đó hai lần, sau khi chúng quen, nàng không đi cùng nữa.
Tưởng Nhược Nam đã nói cho bọn trẻ biết thân thế của chúng. Vốn tưởng chúng sẽ kháng cự, nhưng không ngờ chúng lại đón nhận rất tự nhiên, về sau gặp Cận Thiệu Khang cũng vui vẻ gọi cha, khiến Cận Thiệu Khang kích động đến mức suýt thì rơi nước mắt.
Tưởng Nhược Nam có hỏi chúng: “Đột nhiên có cha, các con không thấy lạ sao?”
Bác Nhi đáp: “Cha giống cha hơn là Đô Đô, cha có lúm đồng tiền, cha chơi với chúng con, cha dùng râu để chọc con, chúng con rất thích cha.”
Quan hệ huyết thống rành rành ra đó, Tả Bá Xương dù thích chúng đến đâu cũng phải tự biết giới hạn, đương nhiên không thể thân thiết với chúng như Cận Thiệu Khang. Còn bọn trẻ lại rất nhạy cảm, thời gian lâu dần, tình cảm của chúng sẽ thiên về Cận Thiệu Khang.
Hai đứa trẻ tới Cận gia chỉ thân thiết với Cận Thiệu Khang, nhưng đối với sự nhiệt tình yêu thương của Thái phu nhân chúng lại rất cự tuyệt.
Có lần, Thái phu nhân không kìm được mà hỏi chúng: “Tại sao hai cháu lại không thích bà?”
Khánh Nhi nhìn bà dẩu môi, Bác Nhi nói thật: “Bà bắt nạt mẹ, còn đánh mẹ, những người không thích mẹ, bọn cháu cũng không thích.”
Thái phu nhân ngẩn ra mất một lúc, bà thật sự bị đả kích trước câu trả lời ấy.
Sau đó bà còn khóc trước mặt Cận Thiệu Khang: “Nhất định là cô ta đã nói gì đó với bọn trẻ, nói xấu ta không ít, nếu không bọn trẻ sao lại ghét ta như thế?”
Cận Thiệu Khang an ủi Thái phu nhân một hồi, “Nếu Nhược Lan là loại người ấy thì sẽ không đồng ý để bọn trẻ quay lại. Giờ nàng thân là Công chúa, nếu nàng thật sự không muốn, làm khó chúng ta, không cho bọn trẻ gặp chúng ta, chúng ta cũng làm được gì? Nàng đã đồng ý cho bọn trẻ về nhận tổ quy tông thì chắc chắn sẽ không giở trò sau lưng chúng ta. Mẫu thân, Nhược Lan tốt xấu gì cũng đã sống cùng chúng ta lâu như thế, nàng là người thế nào mẫu thân còn không rõ hay sao? Nàng tuyệt đối không phải loại người tâm địa phức tạp như thế đâu.”
Thái phu nhân nhớ lại quãng thời gian trước kia, cũng đồng ý là con trai nói có lý, mặc dù bà có thành kiến với người con dâu này, nhưng bà không hề nghi ngờ nhân phẩm của Tưởng Nhược Lan.
“Ta chỉ có hai đứa cháu nội, thế mà chúng chẳng gần gũi ta…” Thái phu nhân càng nghĩ càng buồn.
“Mẫu thân, đổi lại là con, nếu có ai dám bắt nạt người, con nhất định cũng sẽ liều với họ.” Cận Thiệu Khang nhìn bà một cái, khẽ nói.
Thái phu nhân ngẩn ra, ngẩng đầu nhìn hắn, môi mấp máy, định nói gì đó, nhưng cuối cùng lại thôi.
Thời gian trôi đi, Tưởng Nhược Nam và Cận Thiệu Khang vì bọn trẻ mà gặp nhau nhiều hơn, nhưng vì cả hai đều không nhắc tới chuyện tình cảm nữa, nên khi tiếp xúc cũng thêm phần tự nhiên. Tưởng Nhược Nam chờ Cận Thiệu Khang nghỉ phép, chuẩn bị bắt đầu trị thương cho hắn.
Cận Thiệu Khang còn chưa kịp xin nghỉ phép thì Tưởng Nhược Nam nhận thiệp mời của Định quốc công.
Phu nhân Định quốc công vô cùng hiếu khách, có chuyện vui đều thích mời người khác tới chơi, bữa tiệc lần này là mừng đầy năm cháu nội, những nhân vật có vai vế trong hoành thành đều nằm trong danh sách khách mời của bà.
Tưởng Nhược Nam đưa Tử San cùng hai đứa trẻ tới dự tiệc. Đi theo nàng còn có bốn a hoàn, bốn thái giám.
Tử San là nghĩa muội của Tưởng Nhược Nam nên thời gian này rất được chú ý, Tưởng Nhược Nam thường xuyên đưa Tử San tới các loại yến tiệc để mọi người làm quen với nàng ta, cũng là việc có ích nếu sau này muốn lo hôn sự.
Vừa xuống xe, Định quốc công phu nhân đã ra đón, hành lễ với nàng: “Công chúa đại giá tới đây, thật vinh hạnh.”
Tưởng Nhược Nam vội đỡ Định quốc công phu nhân đứng dậy: “Phu nhân không cần khách khí.” Sau đó giới thiệu Tử San và bọn trẻ với bà, Định quốc công phu nhân lại khen ngợi họ một hồi.
Bữa tiệc ngày hôm nay không chỉ mời khách nữ mà còn có cả khách nam. Định quốc công phu nhân đưa Tưởng Nhược Nam vào khu vực dành cho khách nữ, để mọi người chào hỏi nàng.
Phàm là các phu nhân dưới tam phẩm đều phải hành lễ quỳ, một loạt các mệnh phụ trong đó bao gồm cả Từ Uyển Thanh đều phải quỳ xuống hành lễ trước Tưởng Nhược Nam. Nàng mặc dù không quen, nhưng nàng cũng chẳng có cách nào, quy tắc là quy tắc, giờ nàng không chỉ đại diện cho mình, mà còn cho cả hoàng gia.
Sau khi nhận lễ của mọi người xong, Định quốc công phu nhân để nàng ngồi ở vị trí chính giữa, lại sai người dâng trà thơm. Các mệnh phụ khác ngồi quanh nàng, bắt đầu khen y phục của nàng đẹp, rồi lại khen tóc của nàng đẹp, bọn trẻ ngoan ngoãn.
Thái hậu đặc biệt phái tới cho nàng một cung nữ chuyên phụ trách chải đầu bới tóc, trang điểm chọn y phục. Mỗi lần phải xuất hiện trong những bữa tiệc chính thức, Tưởng Nhược Nam đều được trang điểm ăn vận trông rất đoan trang duyên dáng, vừa xinh đẹp yêu kiều lại vừa không mất đi vẻ tôn quý của hoàng gia.
Hôm nay nàng mặc một chiếc cẩm bào màu mật ong thêu hoa bằng chỉ vàng, váy màu trắng bạc, búi tóc kiểu Ô Vân, trên đầu cài mấy chiếc trâm ngọc phỉ thúy, trong búi tóc lại cài thoa phượng khảm vàng với những hạt châu, mỗi lần cử động, những hạt châu đó lại đung đưa theo, sáng lấp lánh, khiến khuôn mặt nàng càng thêm diễm lệ.
Chuyện phiếm một lúc, các mệnh phụ bắt đầu không thể khống chế được tế bào “tám” chuyện của mình.
Không biết là ai nhắc tới Tả Bá Xương trước.
“Mọi người có nghe nói gì không? Hôm hội chùa ở Bạch Mã tự, Tả đô đốc lại tới rút một thẻ nhân duyên.”
Nghe tới chuyện về Tả Bá Xương, Tưởng Nhược Nam và Tử San cùng “dựng” tai lên ngóng.
Thẻ nhân duyên? Khóe miệng Tưởng Nhược Nam giật giật, tưởng tượng ra cảnh Tả Bá Xương với khuôn mặt của quỷ dạ xoa tay lắc lắc ống thẻ, nàng lập tức thấy giật mình.
Các mệnh phụ được lời cũng bắt đầu bàn tán.
“Thật có chuyện này ư? Sao phu nhân biết?”
“Hôm đó người đi rất đông, đương nhiên có người nhìn thấy rồi.”
“Tả đô đốc đó đi xin thẻ nhân duyên, lẽ nào tên họ Tả cao ngạo ấy đã nhắm trúng ai rồi?”
Tử San nghe đến đây thì quay sang nhìn Tưởng Nhược Nam, che miệng cười.
Tưởng Nhược Nam trừng mắt với nàng ta, tiếp tục nghe.
“Ai bị hắn nhắm trúng thật là xui xẻo. Tả đô đốc này nghe nói khắc thê. Phu nhân xem tướng mạo của hắn, đúng là tướng của kẻ khắc thê. Thê tử trước của hắn cũng chết không rõ ràng.”
Một người khác cười nói: “Trương phu nhân, phu nhân không phải vì muội muội của mình bị hắn từ chối nên mới nói thế đấy chứ? Chuyện này không thể nói bừa được đâu. Thực ra, ta lại cho rằng Tả đô đốc là một phu quân lý tưởng, có chức có quyền, tiền đồ rộng mở, trên không có già, dưới không có trẻ, cũng chẳng thích nạp nhiều thiếp thất, trước kia hắn chỉ có một thê tử thôi, không có thiếp thất nào. Ai lấy được hắn sẽ trở thành chủ gia đình, không cần phải cung phụng mẹ chồng, cũng không phải lo tranh giành với thiếp thất. Tốt biết bao.”
Người được gọi là Trương phu nhân kia khẽ hừ một tiếng: “Nếu tốt như thế thật thì tại sao lâu như vậy hắn vẫn chưa tục huyền? Chắc chắn là có vấn đề, ta nghe nói, người này là khách thường xuyên của thanh lâu.”
“Tả đô đốc không có thê thất, không đến thanh lâu thì phải làm thế nào? Hơn nữa, đàn ông có ai không tới thanh lâu? Ta thấy hắn tới nay vẫn chưa tục huyền bởi vì hắn có yêu cầu quá cao, không người con gái nào lọt vào mắt hắn, lần này không biết ai may mắn được hắn để mắt đây?”
Tưởng Nhược Nam bĩu bĩu môi, may mắn? Bị một kẻ gia trưởng phong kiến như thế để mắt mà may mắn? Còn đến thanh lâu? Không biết đã lây bệnh gì đó chưa?
Tưởng Nhược Nam không muốn nghe tiếp nữa, bèn đưa Tử San và hai đứa trẻ ra ngoài đi dạo.
Sau khi hỏi được đường tới hoa viên, bốn người bèn đi về phía ấy.
Trong hoa viên cây cối xanh tươi, đủ các loại hoa lạ, trên cầu dưới nước, đường nhỏ quanh co, cảnh sắc vô cùng tươi đẹp và thanh bình.
Tưởng Nhược Nam cùng bọn trẻ đi dạo trong hoa viên mấy vòng, dạy chúng cách nhận biết các loại hoa.
Lúc này, từ phía sau bỗng vang lên giọng nói của Từ Uyển Thanh: “Ngươi thật sự có thể trị được bệnh của ta?”
Tưởng Nhược Nam nghe tiếng thì quay lại, a hoàn bên cạnh nàng quát: “To gan, dám vô lễ với Công chúa.”
Từ Uyển Thanh tái mặt, miễn cưỡng gọi nàng: “Công chúa.”
Tưởng Nhược Nam cười điềm đạm, đáp: “Nếu ngươi đã hỏi, thì ta cũng cho ngươi biết, ta có thể chắc chắn tới bảy phần.”
“Bảy phần.” Từ Uyển Thanh mắt sáng rực, chưa đại phu nào dám đảm bảo với cô ta như thế. “Vậy ta trả bạc cho ngươi, ngươi muốn bao nhiêu…”
Còn chưa nói hết đã bị Tưởng Nhược Nam cắt ngang, “Ngươi cho rằng ta thiếu bạc?” Nói xong quay người, đi về phía trước.
Nàng là đại phu, nên không có ý định từ chối cô ta, mà nói thật thì giữa họ cũng chẳng phải có thù sâu hận lớn, chẳng qua chỉ là chút tranh chấp thuở thiếu thời. Từ Uyển Thanh chưa thực sự làm gì tổn hại tới nàng, nhưng tính cách người này quá đáng ghét, không nhân cơ hội mà mài bớt nhuệ khí của cô ta thì thật không hả giận.
Từ Uyển Thanh nhìn theo bóng nàng, muốn gọi nàng nhưng lại không cam tâm. Cô ta giậm chân, quay người tức tối bỏ đi.
Cô ta không muốn cầu xin nàng.
“Hay, hay, đây mới là Tưởng Nhược Lan mà ta biết.” Đột nhiên có người đứng bên vỗ tay.
Tưởng Nhược Nam quay đầu nhìn, thấy Tả Bá Xương đang đứng tựa vào thân cây, hắn mặc cẩm bào màu đen, màu của áo càng làm nổi bật sự âm trầm trên sắc mặt hắn.
Tưởng Nhược Nam tinh mắt, nhận ra ngay chiếc áo này chính là chiếc hắn đã mặc vào tối hôm cầu hôn nàng.
Nhìn thấy Tả Bá Xương, Tưởng Nhược Nam thầm tự trách mình suy tính không đủ chu đáo.
Hôm nay có cả khách nam, nàng nên ngoan ngoãn ở trong phòng nghe mọi người bàn tán chuyện thiên hạ mới phải, không nên ra ngoài đi lung tung. Gặp tình cảnh như lúc này chẳng tốt đẹp gì, đặc biệt thân phận hiện giờ của nàng lại là công chúa, nhất cử nhất động đều đại diện cho thể diện của hoàng gia. Chỉ cần sơ suất nhỏ, nàng bị mất mặt thì không nói, chỉ e sẽ liên lụy tới Thái hậu.
Phàm chuyện gì cũng có mặt lợi và mặt hại, nàng mượn thân phận công chúa để thoát khỏi sự “bám riết” của Hoàng thượng, nhưng từ nay về sau cử chỉ hành động của nàng phải thận trọng, không thể xảy ra dù chỉ một chút sơ suất, nếu không sẽ làm trò cười cho thiên hạ, muốn được tự do tự tại thoải mái như trước kia là điều không thể.
Có điều, so với việc bị Hoàng thượng làm phiền, Tưởng Nhược Nam thà chấp nhận sự bất tiện này còn hơn.
Tả Bá Xương là một người đàn ông độc thân, đứng riêng với y cũng không tiện lắm. Tưởng Nhược Nam đợi bọn trẻ chào hỏi y xong, bèn quay người bỏ đi.
Không chỉ riêng nàng nhất thời chưa thích ứng kịp với thân phận công chúa của mình, Tả Bá Xương thấy Tưởng Nhược Nam quay người bỏ đi, vô thức bước về phía nàng, “Phu nhân, một bước phú quý đã không nhận bạn cũ rồi ư?”