Lưu Đông Khởi là một luật sư, tài ăn nói là sở trường của anh. Tuy vậy, lúc này anh đang cố gắng kiềm chế để Tôn Ánh nói nhiều hơn. Anh biết, trước một cô gái thích nói chuyện thì việc ngồi chăm chú lắng nghe sẽ để lại ấn tượng tốt cho cô ấy.
Tôn Ánh nói: “Em vừa từ nhà một người bạn họ Cố lại đây. Kì nghỉ hè này, sáng nào em cũng phải đến nhà dạy đàn piano cho con anh ấy ba tiếng, anh ấy sang Mỹ học MBA rồi mới về đây. Vợ anh ấy bây giờ đã nghỉ làm, chỉ ở nhà để lo cho con. Thằng bé đó năm nay mới có bốn tuổi thôi mà đã rất lanh lợi.”
Lưu Đông Khởi cười và nói: “Xem ra em rất thích trẻ con, con gái anh cũng rất thích đánh đàn, nó đã lên tám tuổi rồi.”
Tôn Ánh nói: “Em đã nghe mẹ anh kể rồi. Anh kết hôn lâu chưa? Em không nghĩ là anh đã bốn mươi ba tuổi rồi.”
Lưu Đông Khởi nghĩ, hoá ra mẹ anh đã kể cho cô ấy nghe hết. Thế là anh thở phào nhẹ nhõm.
Tôn Ánh nói: “Nghe mẹ anh kể, anh chơi piano rất hay.”
Lưu Đông Khởi cười cười, nói: “Biết sơ sơ ấy mà, có đàn gì mấy đâu. Nếu có thời gian, anh cũng phải nhờ em chỉ dạy thêm”
Nói xong, trong lòng anh rất bất ngờ, anh nhận ra rằng mình đã nhập vai. Có thể đây cũng chính là chỗ hay của việc “xem mặt”: đôi bên đều muốn cho đối phương hiểu mình, nên lúc nói chuyện không cần phải che giấu gì cả. Còn với Hà Như, đôi bên như đang vờn nhau, như đang tránh né nhưng cũng như đang tìm kiếm một cái gì đó, cứ thế.
Lưu Đông Khởi cảm thấy vừa nãy anh nói “có thời gian”, có nghĩa là anh đã có ý sau này sẽ còn gặp gỡ với Tôn Ánh. Anh có vội vàng quá không nhỉ?
Để che dấu sự ngượng ngùng của mình, anh hỏi Tôn Ánh: “Em vẫn chưa ăn trưa phải không?”
Tôn Ánh cười và lắc đầu. Lưu Đông Khởi nói: “Em nói là em rất rành khu này, vậy thì em giới thiệu cho anh một tiệm ăn đi. Ở đó chúng ta sẽ vừa ăn vừa nói chuyện.”
Tôn Ánh nói: “Gần bên Lục Gia Chủy có một tiệm ăn Trùng Khánh rất nổi tiếng.”
Lưu Đông Khởi nghe xong, đột nhiên cảm thấy thèm ăn, anh nói: “Sao em biết được anh thích ăn cay? Nhất định là do mẹ anh nói rồi. Mẹ anh còn nói gì không?”
Tôn Ánh cười và nói: “Anh đừng lo, mẹ anh toàn nói tốt không à.”
Hai người đến tiệm ăn Trùng Khánh. Họ chọn một cái bàn gần cửa sổ. Lưu Đông Khởi gọi hai chai bia. Anh hỏi Tôn Ánh uống gì thì cô gọi một ly nước trái cây.
Lúc gọi thức ăn, Lưu Đông Khởi nói với người phục vụ: “Những món của chúng tôi đều bỏ ít cay thôi.”
Tôn Ánh cười và nói: “Ơ, làm sao anh biết em không ăn cay được?”
Lưu Đông Khởi cười và nói: “Theo trực giác của anh. Vả lại, nếu em ăn cay được thì chút nữa chỉ cần bỏ thêm vào là được, còn nếu em không ăn cay được, không phải là em sẽ ráng ăn vì anh sao?”
Tôn Ánh cười, nói: “Em không biết tự nói hay sao?”
Lưu Đông Khởi nói: “Anh thấy là em sẽ không nói đâu, vì vậy anh biết em sẽ vì anh mà cố ăn. Anh có phải là quá tự tin không?”
Tôn Ánh cười, nói: “Anh hơi tự tin rồi, nhưng thực sự em cũng ít ăn cay được.”
Cô nghĩ bụng, cái anh Lưu Đông Khởi này xem ra cũng tinh tế thật, tính tình giống hệt mẹ. Cô hỏi Lưu Đông Khởi có phải ở bên nước ngoài anh cũng hay ăn cay không, Lưu Đông Khởi nói: “Thường là một tuần phải ăn đến mấy lần và đều ăn ở khu phố Tàu. Những tiệm ăn Trung Quốc ở bên Los Angeles cũng rất ngon, không khác gì ở bên đây.”bg-ssp-{height:px}
Tôn Ánh nói: “Nói như vậy, ngoài giờ đi làm, bình thường anh ít khi tiếp xúc với người bản xứ?”
Lưu Đông Khởi nghĩ một hồi, nói: “Nói thế nào nhỉ? Mặc dù nói Los Angeles là một xã hội đa sắc tộc, tuy vậy người da trắng vẫn vẫn giữ vai trò chủ yếu trong xã hội, những người thuộc màu da khác khó lòng mà hoà đồng với họ. Như anh đây này, mất bốn năm mới lấy được tấm bằng thạc sĩ ngành luật, bây giờ đang làm việc ở một văn phòng luật sư của người Do Thái, lúc đi làm thì rất hoà đồng với người bản địa, mức lương cũng rất khả quan. Nhưng đó chỉ là những biểu hiện bên ngoài, trên thực tế bọn anh rất khó hoà đồng với những người làm chủ xã hội, người Trung Quốc nào định cư ở bên Mỹ cũng đều gặp phải vấn đề này.”
Anh ngưng một hồi rồi nói tiếp: “Tan sở rồi, khoảng cách giữa bọn anh với họ lại càng dễ nhận ra, họ có một phạm vi giao tiếp riêng của họ, phạm vi này chủ yếu là sự đồng nhất về văn hoá, phong tục tập quán, tôn giáo; họ nói về đời sống riêng tư, về tín ngưỡng, về những cuộc bầu cử rồi về chiến tranh một cách tự do và thoải mái. Nhưng bọn anh thì lại không thể chen vào đó được. Về mặt này mà nói, khu phố Tàu thực ra chỉ là một nơi hội tụ văn hoá và tinh thần của những người Trung Quốc xa xứ, là một hình thức nhân nhượng để sinh tồn bất đắc dĩ mà thôi.”
Tôn Ánh trầm tư một hồi, nói: “Đó có phải là vì sự khác biệt về ngôn ngữ không?”
Lưu Đông Khởi nói: “Ngôn ngữ không quan trọng mấy, nó chỉ là một công cụ để giao tiếp, không phải là cả nền văn hóa.”
Tôn Ánh nói: “Đã như thế tại sao lúc trước anh lại đòi đi nước ngoài?”
Lưu Đông Khởi thở dài, nói: “Một lời khó mà có thể nói hết.”
Anh nhìn ra Lục Gia Chủy với những tòa cao ốc san sát nhau ở gần đó, than thở: “Nhìn những toà cao ốc này thì có thể thấy nền kinh tế của Thượng Hải đang trên đà phát triển mạnh mẽ. Thực ra, muốn lập nghiệp thì ở đâu cũng vậy thôi. Bây giờ, anh thực sự hối hận vì lúc trước đã quyết định một cách thiếu suy nghĩ để đi ra nước ngoài, nhưng dù sao đó cũng là một sự giải thoát khi cuộc hôn nhân tan vỡ.”
Tôn Ánh nhìn anh, nói: “Nói như thế là anh muốn trở về nước tạo lập sự nghiệp?”
"Ban đầu anh cũng có suy nghĩ như vậy, ba mẹ và con gái của anh đều ở bên đây, họ lại không muốn sang Mỹ, nên nói tóm lại thì trở về là tốt nhất. Tuy vậy, sau khi ở Thượng Hải một ngày thì anh đã bỏ ý định đó." Lưu Đông Khởi nói, “Hồi trước, anh đã quá luyến tiếc những gì ở đây, cứ tưởng rằng trở về thì sẽ có thể tìm lại được những gì đã qua, nhưng anh đã lầm. Anh không thể không đối diện với một hiện tại hoàn toàn khác, trở về tức là phải bắt đầu lại từ đầu. Mà những gì anh có ở đây từ lâu đã không còn nữa. Trong khoảng thời gian tám năm, anh vô tình đã từ bỏ hết những gì trước đây.”
Tôn Ánh nhìn anh chằm chằm và vẫn lặng lẽ ngồi nghe.
Lưu Đông Khởi cười, nói: “Sao tự nhiên anh lại nói những lời này với em nhỉ? Gặp mặt nhau cũng không dễ dàng gì, hay là chúng ta nói những chuyện vui đi.”
Tôn Ánh nói: “Anh không như những gì em đã tưởng, tâm hồn dường như cũng trẻ hơn so với em nghĩ.”
Lưu Đông Khởi nói: “Em cũng vậy.”
Cả hai người cùng cười.
Ăn cơm xong, Lưu Đông Khởi chợt nhớ ra, lần này về nước anh đã mua hai chai nước hoa, một hộp phấn trang điểm, muốn khi gặp Tôn Ánh tặng cho cô, nhưng mới nãy anh đã để quên ở khách sạn.
Anh đang định nói với Tôn Ánh chuyện này thì đúng lúc điện thoại của cô reo.
Cô vội cầm điện thoại đến chỗ khác để nghe, nghe được một lát thì cô nói vào điện thoại: “Cảm ơn anh Cố, phút nữa em sẽ đợi anh ở cửa tiệm ăn Trùng Khánh.”
Nghe điện thoại xong, Tôn Ánh quay trở lại, cô cười và nói với Lưu Đông Khởi: “Xin lỗi anh. Thật chẳng may! Chiều nay em phải cùng một người bạn đi công chuyện, không thể đi cùng anh được rồi. Có gì tối nay em sẽ gọi điện thoại lại cho anh được không?”
Trong lòng Lưu Đông Khởi có vẻ hơi buồn, cảm giác đó giống như ai đó đã rót đầy một ly rượu, đúng lúc cầm lên đang định uống thì bất cẩn làm rớt xuống đất, cái ly bể thành từng mảnh.
Thế là anh không nhắc đến chuyện chai nước hoa nữa, gượng cười và nói với Tôn Ánh: “Không có gì đâu, em cứ đi làm chuyện của mình đi.”