Sau khi làm hòa với Hoàng thượng, đại công thần đầu tiên ta cần tạ ơn là Bùi công công. Dùng tiền không phải cách hay, may mà Hà An lăn lộn trong triều cũng có chút khởi sắc, vốn dĩ người như hắn nên ở trong triều mới có thể phát huy hết tài năng của bản thân.
Ta được biết Bùi công công có một người cháu trai bên ngoài cung, Hà An liền thu nạp tên đó làm thuộc hạ để hành sự, gắng sức giao hảo, nay đã là “bạn ăn bạn chơi” giao tình rất tốt, cùng nhau uống rượu chơi gái hết sức vui vẻ.
Mặt trời chiều khuất bóng đằng Tây, Bùi công công tiễn ta một đoạn đường, cuối cùng dừng lại, hành lễ với ta: “Điệt nhi của gia gia báo tin tới, nói rằng biểu huynh của nương nương luôn quan tâm chăm sóc nó, quả là làm phiền nương nương rồi.”
Ta lập tức đáp: “Công công khách khí quá, làm người cần hiểu rõ đạo lý ‘nhận ơn một, trả ơn mười’. Bùi công công giúp bản cung chuyện lớn như vậy, bản cung cũng nên đáp trả chút thành ý chứ? Vả lại, biểu huynh của bản cung và điệt nhi của công công hẳn rất hợp nhau.”
Bùi công công cúi đầu mỉm cười, là nụ cười hết sức ung dung bình thản.
Năm tháng gió sương in hằn thành những nếp nhăn trên khuôn mặt ông ta, duy chỉ có đôi mắt kia vẫn nhìn thấu thế sự một cách thành thục và lão luyện. Ông ta hiểu, ta cũng hiểu, rằng ta thậm chí chưa hẳn đã đủ khả năng làm đối thủ của ông ta.
Nhưng không nhất định tất cả mọi người đều phải trở thành kẻ địch, thu phục kẻ thông minh nhất về dưới trướng của mình mới là bản lãnh thật sự.
“Bùi công công ở trong cung đức cao vọng trọng, thế lực vững chắc, không biết… bản cung có thể thỉnh giáo Bùi công công một chuyện hay chăng?”
“Nương nương nghĩ quá rồi, xin cứ nói.”
Ta thở dài, đi thêm vài bước, nói: “Không giấu gì công công, bản cung cứ đau đáu trong lòng mãi chuyện hai lần sảy thai, đặc biệt là lần này, đứa bé đã được bảy tháng, sắp chào đời đến nơi rồi, vậy mà lại chết lưu trong bụng. Mỗi lần bản cung nghĩ đến chuyện này, lòng đều đau như cắt.”
Bùi công công đi theo ta: “Lão nô hiểu.”
“Nhưng công công, bản cung cảm thấy rất kỳ lạ, công công là người hiểu Hoàng thượng nhất, chuyện lần đó rõ ràng có vấn đề, vậy tại sao Hoàng thượng giải quyết nhẹ nhàng như vậy?”
Bùi công công liếc nhìn ta: “Hoàng thượng chưa từng nói với nương nương sao?”
Ta lắc đầu: “Dạo này Hoàng thượng có chút đề phòng bản cung, bản cung không dám hỏi quá nhiều.”
Bùi công công không lập tức trả lời, đi mãi hồi lâu mới chậm rãi nói: “Nương nương, gia gia từng nói với người, Hoàng thượng bề ngoài lạnh lùng, thật ra bên trong rất đỗi dịu dàng, nếu Hoàng thượng từng mang ơn ai đó, người sẽ ghi nhớ trong tim cả một đời.”
Ngừng lại chỗ lát, ông ta tiếp tục: “Đây cũng là chuyện cũ trong cung. Năm đó Lưu ma ma – mẫu thân của Hà chiêu nghi là nhũ mẫu của Cửu Hoàng tử, vốn là thê tử của thị vệ trong cung, nhưng bà ấy không chịu nổi sự cô đơn, đã thông dâm với một thị vệ khác, rồi mang thai đứa con.”
Ta ngạc nhiên, có chuyện như vậy sao: “Chẳng phải việc này trong cung bị trừng trị rất nghiêm khắc ư?”
“Haiz, vốn dĩ là phải trừng phạt, nhưng giao tình giữa Lưu ma ma và Cẩn phi nương nương rất tốt, nhờ có Cẩn phi nương nương cầu xin Hoàng thượng liền tha cho Lưu ma ma, để Lưu ma ma sinh hạ Hà chiêu nghi. Sau này khi Cửu Hoàng tử trưởng thành, cần có phủ đệ của riêng mình, liền cho họ đi theo Cửu Hoàng tử.”
“Tiếp sau đó, Cửu Hoàng tử có lần sơ ý làm vỡ bình lưu ly mà Cáp Khắc tiến cống. Khi ấy Cẩn phi nương nương chọc giận Hoàng thượng, bị giam cầm trong cung. Hoàng thượng thay đổitính tình, trở nên độc ác tàn nhẫn, giận cá chém thớt sang Cửu Hoàng tử. Lúc đó Hoàng tử tuổi còn nhỏ, gây ra họa lớn nhưng không dám thừa nhận, cuối cùng là Hà chiêu nghi chỉ mới tám tuổi đã đứng ra gánh tội thay, chịu mọi nỗi khổ bị đánh đập, bị châm kim, bị bản trúc kẹp ngón tay, đến nỗi dường như không còn ra hình người nữa. Sau này Cửu Hoàng tử lo lắng bất an liền đứng ra nhận tội, bị phạt cùng Hà chiêu nghi quỳ ba ngày trên nền tuyết. Cuối cùng là Cẩn phi nương nương quỳ trước cổng cung điện cầu xin thay mới cứu được họ, lúc đi xem tình hình ra sao thì thấy hai người họ sắp đông cứng thành băng rồi.”
Ta thở dài, trên đời lại có người cha tàn nhẫn với con mình như vậy sao?
Đột nhiên nhớ đến một chuyện, ta bèn lên tiếng: “Lẽ nào Hà chiêu nghi vì chuyện này nên mới không thể mang thai?”
Bùi công công đáp: “Gia gia chỉ nhớ nàng ấy ốm rất nặng. Ngự y đều chẩn đoán nàng ấy không sống được là bao nữa, cuối cùng nghe nói có vị lang trung đi ngao du bốn phương vừa hay ngang qua phủ Cửu Vương gia đã cứu sống được nàng ấy.”
Theo như câu chuyện này, địa vị của Hà chiêu nghi trong lòng Hoàng thượng không hề thấp. Đặc biệt là họ đã từng đồng cam cộng khổ từ thiếu thời, vậy nên cho dù nàng ta có ý hãm hại con ta, Hoàng thượng cũng sẽ không truy cứu.
Ta thôi suy ngẫm, nhìn Bùi công công, nói: “Đa tạ công công đã chỉ giáo.”
“Nương nương khách khí rồi, gia gia cũng vì tuổi cao một chút, hiểu được đôi ba chuyện trong cung mà thôi. Hoàng cung này ấy à, bao giờ mà chẳng tồn tại đầy những gian nan trắc trở của riêng nó, nhất định phải vừa biết nhẫn nại, vừa biết kìm nén, mưu tính trước hành động sau mới có thể giành được chỗ tốt. Càng cần hơn là phải có năng lực, có nhãn quang nhìn thấu người, nhìn thấu đời mới có thể đứng vững bất bại.”
Bây giờ thái độ của ông ta đối với ta đã tốt hơn rất nhiều, câu nói trên cũng coi như là đang chỉ bảo cho ta rổi.
Ta đáp: “Bản cung sẽ khắc ghi điều này.”
Sau đó quay sang sai bảo: “Tiểu Ngư.” Tiểu Ngư lập tức tiến lên đem chiếc hộp trong tay dâng trước mặt Bùi công công, ta cười nói: “Dạo này nghe nói Bùi công công không được khỏe. Ngự y trong cung chẩn trị mà chưa có hiệu quả. Bản cung đặc biệt xin được phương thuốc từ bên ngoài cung về. Ngự y trong cung tuy tài giỏi, nhưng suy cho cùng những bài thuốc dân gian vẫn thật thần kỳ, phải không, thưa công công?”
Bùi công công nhướng mày. “Vậy quả thực đã phiền nương nương vất vả vì gia gia rồi.”
Ông ta nhận lấy, ánh mắt chăm chăm nhìn vào đôi bàn tay đang bê chiếc hộp của Tiểu Ngư, rồi lại ngẩng đầu nhìn nàng ấy.
Ta nhớ lại lần trước lúc đứng ngoài cửa ngự thư phòng, ánh mắt ông ta nhìn Tiểu Ngư rất kỳ lạ. Tiểu Ngư đang độ xuân thì, xinh đẹp như hoa, nhan sắc cũng thuộc vào hàng thượng đẳng trong cung. Mặc dù Bùi công công là thái giám, song không có nghĩa là chẳng có chút dục vọng nào với nữ nhân.
Ta nói: “Nếu Bùi công công không chê, Tiểu Ngư đây cũng đã mười sáu tuổi rồi, bản cung để nó theo hầu công công, công công thấy sao?”
Trong hoàng cung, chuyện “góp gạo thổi cơm chung” giữa thái giám và cung nữ trở nên rất phổ biến.
Ta nghe nói đối tượng “góp gạo thổi cơm chung” với Bùi công công ngày trước đã qua đời vì bệnh tật cách đây hai năm.
Bùi công công ngạc nhiên: “Ôi nương nương nói gì vậy? Gia gia thực không dám.”
Lúc này, Tiểu Ngư đứng bên cạnh ta đột nhiên ngẩng đầu, một lúc sau lại cúi đầu xuống cắn chặt môi không dám nói.
Ta mặc kệ nàng ấy, tiếp tục: “Công công có chê Tiểu Ngư không?”
“Nương nương nói gì vậy?” Bùi công công quan sát Tiểu Ngư, cười mà như không: “Người bên cạnh nương nương, đương nhiên là diện mạo xinh đẹp…” Ông ta đảo mắt một vòng. “Chỉ là gia gia không dám trèo cao.”
“Công công đừng khách khí, Tiểu Ngư đã mười sáu tuổi, cũng là độ tuổi nên gả đi rồi. Có thể theo hầu công công trong cung quả là phúc phận của nàng ấy.”
Ta chú ý đến đầu ngón tay bấu chặt vào tay áo của Tiểu Ngư.
“Chuyện này… còn phải xem Tiểu Ngư có vui vẻ đồng ý hay không?” Bùi công công rõ ràng cũng chú ý đến điều đó.
“Được hầu hạ công công, Tiểu Ngư vui mừng còn chẳng kịp? Ngươi thấy đúng không Tiểu Ngư?” Tiểu Ngư càng cúi đầu thấp hơn, không trả lời ta.
Ta nói: “Công công đừng từ chối nữa.”
Bùi công công cười: “Vậy gia gia cung kính không bằng tuân mệnh.”
Trên đường về, Tiểu Ngư vẫn nắm chặt góc tay áo, cúi thấp đầu, không nói một lời.
Về đến cung, cuối cùng nàng ấy quỳ rạp xuống đất: “Nương nương! Tiểu Ngư xin người đừng gả nô tì cho Bùi công công.”
Ta biết nàng ấy chắc chắn không chịu, kể cả khi chẳng có chàng thị vệ mà nàng ấy yêu mến. Nàng ấy đương độ thanh xuân tươi đẹp, cũng khó lòng chấp nhận đi hầu hạ một lão thái giám hơn năm mươi tuổi.
Nhưng…
“Tiểu Ngư, bản cung biết đã làm khó ngươi rồi, nhưng con người trên thế gian này luôn cần hi sinh đôi chút.”
Ta ngắm dung nhan mình trong gương đồng, dường như có phần tàn úa già nua, ta chầm chậm gỡ kim thoa, ngọc bội xuống.
“Bản cung biết đến mười tám tuổi ngươi có thể xuất cung, chỉ là sau khi xuất cung thì ngươi có thể làm gì đây? Trở về thôn trang hẻo lánh kia, lấy một người đàn ông, sinh một bầy con, cả cuộc đời vất vả đến lúc chết chỉ vì cơm no áo ấm, sau đó lại chứng kiến từng đứa con giẫm lên vết xe đổ của mình ư?”
Ta nhìn về phía nàng ấy. Sắc mặt nàng ấy dần dần trắng bệch.
“Đừng mong ngóng thị vệ kia nữa, trong cung hắn đâu chỉ thân mật với một mình ngươi?”
Nàng ấy mấp máy môi nhưng không thốt nên lời.
Ta cũng không cần nói gì thêm, sự thực sẽ chứng minh tất cả.
“Bản cung biết trong nhà ngươi còn có một đệ đệ mười bốn tuổi, hai muội muội tầm sáu, bảy tuổi. Bản cung có thể đảm bảo với ngươi, chỉ cần ngươi chịu gả cho Bùi công công, ngày mai đệ đệ của ngươi sẽ là Huyện thái gia của Ấn Huyện.”
Ta thở dài: “Tuy Huyện thái gia không phải chức vị gì ghê gớm, nhưng quan và dân luôn có sự khác biệt. Ít nhất con cháu của đệ đệ ngươi, của muội muội ngươi sẽ không phải vì gia cảnh bần hàn mà phải vào cung làm thái giám hay cung nữ, đi làm nô bộc hay tì nữ, để bị người ta lăng nhục, ngươi hiểu không?”
Tiểu Ngư từ từ cúi đầu, lệ hoa từng giọt rơi tí tách.
Ta thở dài thườn thượt: “Tiểu Ngư, theo bản cung lâu như vậy rồi, chắc ngươi cũng hiểu. Bản cung là từ phận nô tì từng bước trèo lên vị trí ngày nay, những nỗi nhục nhã và gian nan trong quãng đường ấy, điều ngươi biết chỉ là số ít, nhưng điều ngươi không biết còn nhiều hơn gấp bội.”
“Chung quy trên đời này con người ta ai cũng phải chịu khổ, chẳng ai cả kiếp đều thuận buồm xuôi gió. Ngươi là người mà bản cung tin tưởng nhất nên bản cung mới gả ngươi cho Bùi công công. Tiểu Ngư, bản cung hỏi ngươi, ngươi đồng ý hay không?”
Mãi lâu sau, nàng ấy khấu đầu sát đất, giọng nói như đang gắng sức kìm nén, nhưng vẫn còn run lẩy bẩy: “Nô tì… đồng ý.”
“Vậy tốt rồi, chuẩn bị thôi.”
Ta nhìn mái tóc nàng ấy buông rủ hòa lẫn nước mắt, giọng nói bình tĩnh tới nỗi khiến mình trở nên xa lạ.
Buổi đêm ta muốn dậy uống nước, bèn gọi một tiếng “Tiểu Ngư”, nhưng là Nhã Phương đến hầu ta.
“Nương nương, người muốn uống nước ạ?”
Ta đột nhiên mất hứng, mệt mỏi xua tay: “Thôi khỏi, ngươi đi đi.”
“Vâng, nương nương.”
“Chờ đã, mở cửa sổ ra.”
“Vâng.”
Rồi nàng ta đóng cửa ra ngoài.
Qua tấm trướng mỏng, ta có thể nhìn thấy vầng trăng khuyết màu bạc, còn cả bầu trời nhung rực rỡ đầy sao.
Cảnh đêm nay thật đẹp.
Chắc lúc này Tiểu Ngư đã đến chỗ Bùi công công rồi nhỉ?
Cái gọi là “góp gạo thổi cơm chung”, chỉ cần hôm nay trang điểm đẹp đẽ, sau đó đêm đêm ở trong phòng ông ta là xong. Chẳng có váy đỏ vòng hoa, chẳng có động phòng hoa chúc như những nữ nhi hằng ao ước, thậm chí còn chẳng có một người bạn thân nào biết được chuyện này.
Chỉ có mình nàng ấy lẻ loi đi hầu hạ một thái giám. Ta hiểu, đó là nỗi đau khổ, một nỗi đau khổ khó lòng nuốt trôi.
Cũng giống ta ngày trước lúc một mình xách đèn lồng đi tìm người cứu Tiểu Bôi, trời đông tuyết phủ, không biết đâu là đường đi, trượt ngã giữa đêm đen vắng lặng, chẳng thấy nổi bến bờ. Khi đó ta cũng đau khổ như nàng ấy, nhưng bây giờ ngẫm lại chợt thấy nó đã xa xôi lắm rồi, ta chỉ có thể mơ hồ nhớ đến cảnh một người ngồi giữa đêm đen mịt mùng xung quanh là băng tuyết lạnh lẽo.
Đau khổ chính là như vậy, nhẫn nhịn chịu đựng rồi sẽ qua thôi.
Ta nhắm mắt, mặc cho ánh sáng màu bạc nhàn nhạt chiếu qua khung cửa sổ, hắt lên gương mặt mình.
Ta nhớ Tiểu Bôi.
Nếu lúc này người mà Bùi công công muốn là Tiểu Bôi liệu ta có cho ông ta hay chăng?
Ta đột nhiên muốn cười mỉa, trên thế gian này chẳng có nhiều cái “nếu” đến thế. Cũng như nếu Tiểu Bôi không chết thì ta cũng sẽ không biến thành kẻ như ngày hôm nay, thì cho dù sau này xuất hiện thêm nhiều Tiểu Bôi nữa, ta cũng sẽ không có một chút động lòng.
Tiểu Ngư vẫn như thường lệ đến hầu hạ ta từ rất sớm, như thể cả đêm qua nàng ấy vẫn luôn ở trong sân viện này vậy. Khi tiếng gà gáy vang lên, ở gian phòng cách chỗ ta không xa, nàng ấy mở mắt, đã rửa mặt chải đầu rồi đến hầu hạ ta.
Nhưng ta biết, trải qua một đêm là thế, nàng ấy sẽ không còn như trước kia nữa.
Ta chẳng hề hỏi nàng ấy trải qua đêm đó ra sao, nàng ấy cũng im lặng hầu hạ ta, cho đến khi ta nhìn thấy vết cấu trên tay nàng ấy. Lúc đó, nàng ấy đang rót trà cho ta, ta ngẩng đầu lên nhìn thấy trên cổ tay nàng ấy cũng thấp thoáng chút dấu vêt.
Ta liền nhớ ra, có lời đồn rằng cung nữ làm vợ hờ của Bùi công công khi xưa bị Bùi công công ngược đãi đến chết.
Thái giám tìm nữ nhân đôi lúc chỉ vì chúng thèm muốn cảm giác mãn nguyện khi ngược đãi người khác mà thôi.
Trong hoàng cung này, chắc chắn kẻ nào có nhân tính méo mó nhất cũng là kẻ có tướng mạo khó coi nhất.
Ta uống ngụm trà nóng, sau khi cung nữ khác lui ra ngoài, ta từ tốn nói: “Bản cung hiểu nỗi khổ của ngươi.”
Bàn tay nàng ấy run rẩy rồi buông thõng, cả ánh mắt cũng nhìn xuống, im lặng đứng bên cạnh ta.
Ta cũng không nhìn nàng ấy, tiếp tục nói: “Có lúc bản cung cảm thấy, thói quen là một sức mạnh đáng sợ. Giống như khi ngươi bị rơi vào miệng giếng vậy, ban đầu ngươi sẽ vùng vẫy, nếu vùng vẫy mà không thoát ra được, ngươi chỉ còn cách chìm dần xuống, chìm dần xuống, thậm chí trong chớp mắt ngươi bỗng chấp nhận tất cả, cho đến một ngày nào đó, ngươi mới giật mình nhận ra tất cả, cho đến một ngày nào đó, ngươi mới giật mình nhận ra bản thân đã biến thành bộ dạng như thế này, còn qua khứ vĩnh viễn chẳng thể quay lại được.”
Ta không biết ta đang nói với nàng ấy, hay đang nói với chính bản thân mình.
“Cho nên con người ta luôn cần nhìn về phía trước, phải biết tại sao mình muốn làm những việc ấy, có vậy mới không còn oán hận.”
Tiểu Ngư chẳng nói chẳng rằng.
Ta nhìn ra ngoài cửa, ánh sáng mặt trời buổi trưa tựa hồ sợi tơ bị gió thổi quấn trên cành cây, là vẻ đẹp của ánh nắng lấp lánh, của cơn gió đầu ngày, của trời cao mây trắng, thậm chí còn có thể thấp thoáng nhìn thấy sau bức tường hoàng cung màu đỏ là vẻ thánh khiết của cảnh bình minh trên rặng núi xa.
Những khung cảnh tuyệt đẹp này đều chỉ trong chốc lát nhưng lại vĩnh hằng bất biến.
Đôi lúc, điều con người có thể làm chỉ là chờ đợi thời gian qua đi mà thôi.
Thời gian luôn luôn chảy trôi, cứ vội vã rồi lại vội vã lướt đi.
Thấm thoát đã được bốn năm.
Trong vòng bốn năm, Hoàng thượng chưa từng nạp thêm phi tần mới, thậm chí còn tới mức không gần nữ sắc, có điều hắn vẫn thường đến cung của ta. Phi tần trong hậu cung vào lãnh cung thì cứ vào, thất sủng thì cứ thất sủng, còn ta nhờ có lời chỉ dạy của Bùi công công và chiếc nhẫn xanh lục mà người xem tướng mặc y phục trắng tặng cho, lại càng được Hoàng thượng sủng ái, dễ dàng chuyển nguy thành an, địa vị từng bước vững chắc, từ Bạch tần thăng cấp thành Bạch quý phi. Cũng trong khoảng thời gian này, con đường thăng quan tiến chức của Hồ Bản Vinh rất rộng mở, từ Khâm sai đại thần trị thủy, được bổ nhiệm lên làm Ngự sử Đô Sát Viện. Hà An cũng thăng chức thành Hình bộ Thị lang, hai người họ “cấu kết với nhau”, “kết bè kết đảng”. trong triều đã có thế lực không nhỏ của “Bạch gia”.
Có điều kẻ địch lớn nhất của ta trong cung vẫn là Hà chiêu nghi, không, là Hà tần.
Nàng ta vẫn hạ thủ với những nữ nhân mang thai trong cung, Hoàng thượng không sủng hạnh cung phi đã lâu, khó khăn lắm Bảo tần mới mang thai, nhưng đứa bé kia vẫn chết bởi Cốt Đột.
Ta mở bình Cốt Đột mà Lý thống lĩnh từng lấy trộm về từ chỗ Hà chiêu nghi cho mình, mới phát hiện chúng đã hóa thành tro, ta giật mình kinh ngạc.
Ta sai bảo Tiểu Ngư tìm Từ Thái y đến, hỏi han ông ta một số chuyện, mới biết Cốt Đột này chỉ có thể bảo quản trong vòng nửa năm.
“Nương nương, Cốt Đột này vốn là thảo độc của vùng núi cao, độc tính rất mạnh, điều kiện khí hậu trồng trọt hết sức khó khăn, hơn nữa sau khi được nửa năm, nếu không sử dụng sẽ dần dần héo thành tro.” Ông ta giải thích.
Ta chau mày: “Ý ngài là, cho dù nó làm thành thứ gì, nửa năm sau đều sẽ khô héo?”
“Bẩm nương nương, cần băng tuyết trên núi Thiên Sơn, đất từ núi Ngưng Sơn, phải bỏ vào nơi lạnh lẽo ẩm ướt mới có thể giúp nó sinh trưởng. Có điều chỉ cần một chiếc hộp cũng có thể trồng một lần khá nhiều Cốt Đột.”
Ta cho ông ta lui, trong lòng lờ mờ một cảm giác gì đó. Ta sắp tìm thấy điểm chí mạng của Hà tần rồi.
Không uổng phí bốn năm nay ta dày công sắp xếp nhiều người bên cạnh nàng ta như vậy, chắc nàng ta vẫn chưa biết toàn bộ cung nữ trong cung mình đều là tai mắt của ta.
Ta biết Hà tần có địa vị ra sao trong lòng Hoàng thượng, cho nên ta không động thủ thì thôi, hễ động thủ tất phải chí mạng.
Mấy hôm sau, ta gọi Tiểu Mai – cung nữ hầu cận của Hà tần tới.
“Ngươi nói ngày mười bảy hàng tháng Hà tần mất cả một buổi chiều sai nô tì chuẩn bị bồn tắm cẩn thận rồi đóng cửa ở trong không ra ngoài?”
“Bẩm nương nương, đúng vậy ạ.”
Trực giác mách bảo, ta càng gần tiến đến đáp án.
“Vậy người từng ngửi thấy mùi hương nào đặc biệt từ trong phòng của nàng ta chưa?”
Tiểu Mai lắc đầu: “Hà tần nương nương rất thích xông hương, lúc nào cũng vậy, trong phòng luôn có mùi hương xông nồng đậm, nô tì chưa từng ngửi thấy mùi hương nào khác, chỉ là thỉnh thoảng cảm thấy mùi hương đó hơi kỳ lạ.”
“Ngươi lui xuống đi.”
Ta biết điểm sơ hở của nàng ta là gì rồi.
Ta biết Cốt Đột là của Hà tần làm ra, nhưng cứ nửa năm một nó sẽ khô héo. Hà tần luôn luôn ở trong cung, chưa từng bước ra ngoài, vậy đống Cốt Đột từ đâu ra?
Trong hoàng cung này đến đâu cũng là tai mắt của ta, Hà tần muốn sai cung nữ lén vận chuyển Cốt Đột vào cung dường như là việc không thể.
Nếu Cốt Đột không phải từ bên ngoài cung đưa vào, vậy chắc hẳn nàng ta tự mình trồng rồi. Thứ gì còn giấu giếm được, chứ riêng mùi hương của Cốt Đột thì khó lòng che giấu, bởi vậy nàng ta mới phải dùng đến cách xông hương để lấn át.
Đợi đến ngày mười bảy, ta bảo Dương Lâm đi theo dõi nàng ta một chuyến.
Sự thực quả nhiên là vậy.
Ta nhếch miệng cười, xoay nhẫn ngọc trong tay.
Hà tần, ngươi dùng Cốt Đột hại chết con ta, nhanh thôi, ta cũng sẽ bắt ngươi chết bởi Cốt Đột.