MÙI CỎ VÀ ĐẤT XỘC LÊN KHI CẢ HAI VỪA BƯỚC QUA cánh cổng màu xanh huyễn hoặc đặt giữa lòng thành phố Dark Era. Angeline lảo đảo chóng mặt, nếu không bám vào tay Howl có thể cô đã ngã xuống và nôn ọe. Nhưng cô cố kiếm cơn buồn nôn lại dù nét mặt vẫn xanh lét.
“Đó là chuyện bình thường với người lần đầu tiên đi qua cổng dịch chuyển.” Howl nói, cậu cắn môi để không phá lên cười vì nhận được từ Angeline một cái cau mày. “Mỗi thành phố đều được xây dựng vài cái, và rất nhiều được xây dựng rải rác khắp nơi để thuận tiện đi lại. Một cánh cổng dịch chuyển có thể dẫn một người đi bất cứ địa điểm nào, miễn nơi ấy cũng có cổng.”
“Tôi không thích nó.” Khó khăn lắm cô mới nói được. Khi nhận ra mình đang vịn lấy khuỷu tay Howl, cô giật tay mình lại và lùi ra xa khỏi cậu.
Howl cười. “Đừng giữ khoảng cách như thế, bây giờ không có xe ngựa gì đâu. Nếu không bám vào tôi cô sẽ phải đi bộ đấy.”
Angeline bối rối nhìn Howl như chẳng hiểu cậu vừa nói gì. Nhưng Howl chỉ khẽ cười. Nơi họ đang đứng là giữa một thị trấn nhỏ mà dường như cả hai đã trở thành điểm nhìn khi vừa xuất hiện trước cánh cổng dịch chuyển. Nguyên do có lẽ là vì trang phục và vẻ ngoài của họ không giống những người ở thị trấn này. Họ nhìn theo cả hai với đôi mắt hiếu kỳ.
“Chúng ta đi đâu tiếp?” Angeline hỏi rồi ho một tràng. “Đây là đâu vậy?”
“Vryss Woodland.” Howl nói, nheo mắt nhìn quanh. “Nhà Vassago sống không xa đây đâu. Chúng ta nên đi thôi.”
Howl chìa tay ra trước Angeline. Cô vẫn không hiểu cậu định làm gì nên chỉ do dự nhìn nó. Thấy Angeline không có vẻ sẽ nắm lấy, Howl túm luôn lấy tay cô và kéo cô lại gần. “Cô nhiều chuyện thật.”
Angeline chưa kịp nói gì, thì đột nhiên cô cảm thấy như lồng ngực mình bị đá đè và rút sạch không khí. Sau đó là cảm giác chóng mặt cực độ như cô bị nhấc bổng lên không trung và xoay vòng vòng. Thứ duy nhất Angeline cảm thấy có thể bám vào được là một vòng tay. Cô ôm chặt nó như thể mình đang chết đuối và đó là khúc gỗ cuối cùng giữa dòng nước chảy xiết.
Nhưng cảm giác đó không kéo dài, vì ngay sau đấy, cả hai đã hạ xuống một vùng đất khác hẳn, giữa sỏi và đá, và những thân cây bụi mọc ngang đầu gối. Angeline cảm thấy như có sao đang bay quanh đầu mình, cô run rẩy đứng yên, vì nếu cô di chuyển lúc này cơ thể cô sẽ vỡ vụn như sứ.
“Được rồi, đến nơi rồi.” Giọng của Howl vang ngay bên cạnh cô khiến Angeline giật mình. Cô từ từ rời Howl, rồi chợt nhận ra đây là lần đầu tiên cô ở gần sát anh ta như thế.
Angeline từ từ nhìn quanh, cô thấy mình đang đứng ở một con đường lát đá uốn lượn lên xuống dải đồi. Địa hình ở nơi này không giống bất cứ nơi nào mà cô từn thấy. Đất thì trơ trụi đá, có màu đỏ như gạch, chỉ mọc được cây bụi và những cây thân gỗ rậm rạp. Bầu trời trên đầu cô cũng đỏ quạnh lại. Trước mặt là một dãy núi hình cung, ôm vùng đất thành vùng lòng chảo trũng, và ở phía dưới có một tòa lâu đài. Cũng không thể gọi là lâu đài, có lẽ chỉ như một tòa nhà lớn mang dáng dấp một lâu đài, với khuôn viên, tường rào, cây và mọi thứ khác. Nhìn từ đây, mái vòm của tòa nhà ấy xanh rì cây leo dại như thể cây cối sắp nuốt trọn nó.
“Trông như trời sắp tối vậy.” Angeline nói.
“Chênh lệch thời gian mà. Từ đây tới lâu đài Quỷ cách nhau cả một đại dương đấy.”
Chợt một cỗ xe ngựa từ đằng sau họ chạy đến và đi ngang qua, hướng xuống thung lũng bên dưới. Angeline nghe thấy một giọng cười chói tai vang lên từ cỗ xe rồi bị cuốn đi ngay.
“Đi nào.” Howl nói. “Nhà Vassago ở đó. Hôm nay có vẻ sẽ là ngày đẹp trời để làm sáng tỏ mọi chuyện đấy.”
TÒA LÂU ĐÀI CỦA VASSAGO LÀ MỘT TÊN QUÝ TỘC KHOA TRƯƠNG. Nhìn từ xa thì những tưởng dòng tộc này chẳng mấy chăm chút đến nơi mình ở, nhưng thật ra là ngược lại. Cánh cổng bằng đá trông vẫn như mới, dù những cạnh đá mòn vẹt cho thấy nó đã được xây khá lâu rồi. Hàng rào làm từ gạch và gỗ, trải dài từ ngoài cổng đến tận trong cửa lâu đài một con đường đá trắng lấp lánh phản chiếu ánh sáng. Bãi cỏ xanh được cắt tỉa cẩn thận, những rặng hoa và cây đều tăm tắp. Hai bên cánh cổng có hai con mèo bằng đá phải cao bằng người, Angeline có cảm giác như chúng đang nhìn theo mình khi cô và Howl bước vào.
Ánh sáng lọt qua các ô cửa sổ, cùng với tiếng người cười nói xôn xao bên trong.
“Hình như họ đang mở tiệc.” Angeline nói.
“Nhà Vassago không tham gia chính trị, kinh doanh nhưng họ vẫn là một gia tộc giàu có lắm đấy.”
“Nhờ vào các bữa tiệc sao?”
Howl mỉm cười. “Nhờ vào những thứ họ làm trong một bữa tiệc.”
Thật ra bữa tiệc của Vassago giống một nhà chứa hỗn loạn hơn là một buổi dạ tiệc đúng nghĩa.
Tất cả mọi người đều cười nói ồn ã, bằng một cách thô thiển mà chắc chắn những nhà quý tộc sẽ chẳng bao giờ cười như thế. Những thứ mùi hương khó chịu xông lên mũi Angeline, lẫn lộn giữa mùi ôi hỏng của thức ăn, mùi rượu nồng nặc và những thứ mùi mà cô không tài nào biết được nó xuất phát từ đâu. Howl cũng nhăn nhó. Bữa tiệc này giống một quán rượu lai tạp giữa sự sang trọng và sự bình thường. Những chiếc bàn đầy chai lọ đủ sắc màu, quanh các bức tường cũng dựng những tủ kính bên trong đựng đầy chai và ly.
Nhưng những chiếc chai lọ không phải rượu và có màu sắc bất thường ấy chẳng phải thứ duy nhất kỳ lạ. Những người tham gia bữa tiệc kỳ dị này cũng lạ lùng không kém. Họ không phải người thường, cũng không phải Cambion, mà là những sinh vật bóng đêm. Một cô gái có mái tóc dài là những con rắn, một gã đàn ông cao kều với làn da như bị bỏng và con mắt đen dị thường, đang ăn ngấu nghiến một đĩa thịt. Một người phụ nữ có làn da lợp bằng những chiếc lông tơ đen ngoái lại nhìn cô, đôi mắt cô ta làm Angeline nhớ đến đôi mắt loài cú đêm ở cánh rừng cô sống... Angeline đi sát vào Howl. Cô chợt nhận thấy tại góc bàn phía xa, bên cạnh những ly cốc rót thứ nước màu đỏ đặc như máu, có những kẻ đang nhìn cô với đôi mắt hình viên đạn. Một gã mỉm cười với Angeline, khoe hai chiếc răng nanh nhọn hoắt.
“Đừng có nhìn vào mắt họ.” Howl nói. “Chắc tôi không cần nói cô cũng biết nơi này là gì rồi. Bọn chúng thích đến những nơi này để thỏa mãn, ừm, bản thân. Người thường đi lạc vào không có kết cục gì tốt đẹp đâu.”
Angeline quay mặt đi, cúi nhìn xuống sàn nhà. Cô nắm lấy cổ tay áo Howl vì nếu bước chậm hơn một chút, đám đông sẽ tách cô ra khỏi cậu, và cô sẽ lạc giữa một đám sinh vật mà nhiều trong số đó ưa thích những món làm từ người thường.
Howl dẫn cô ra khỏi căn phòng đó, vào một hành lang hẹp nhưng sáng sủa. Cô không hiểu nổi sao cậu biết mình phải đi đâu, thì bỗng dưng Howl dừng ở trước một cánh cửa. Hai tên người sói to lớn, dễ cao đến hai mét, chặn đứng cả hai và cất giọng ồm ồm:
“Ngươi nghĩ mình đang đi đâu đấy?”
“Tôi đến gặp Fergus Vassago.”
“Ngươi có hẹn trước không?”
“Không. Nhưng cả hai ngươi sẽ phải hối hận nếu không đứng sang một bên và để ta gặp Vassago đấy.”
Angeline kéo kéo tay áo cậu, nhưng Howl không quay lại. Cậu nhoẻn cười với hai gã người sói. Chúng nhìn nhau, rồi sau đó phá lên cười ầm ĩ:
“Ngươi nghĩ mình là ai? Giờ thì đi đi và nếu như đã có hẹn trước với ngài Fergus thì hẵng quay lại.”
Đột nhiên, có một cánh tay đặt lên vai Angeline và cô giật bắn mình, lùi lại. Đằng sau Howl và cô là một người đàn ông chừng ba mươi, cao ráo, mặc một chiếc áo có hàng khuy bị phanh ra một nửa, cố ý để lộ bộ ngực trần bên trong.
“Ngài Lucifer, thật hân hạnh, cơn gió nào đã mang ngài đến tận đây thế?” Anh ta cũng liếc nhìn Angeline, nhưng chẳng nói gì.
Bấy giờ cô thấy hai tên người sói kia mặt tái mét nhìn nhau. Chẳng nói chẳng rằng, chúng đứng dạt sang hai bên, cúi đầu xin lỗi Howl.
“Fergus Vassago?” Cậu hỏi, nhướn mày với người đàn ông lạ.
“Không, đó là cha tôi. Ông ấy ở trong kia.” Anh ta nói. “Ngài đến tìm ông ta có việc gì sao?”
“Tôi e đó là chuyện không thể mang đi mà nói lung tung được.” Cậu nói và mở cửa. “Anh cũng nên thay thế người của mình đi, tìm ai đó mà, hiểu biết hơn một chút ấy.”
Người đàn ông kia liếc lên nhìn hai tên người sói, rồi gật nhẹ với nụ cười nửa vời. “Tôi sẽ cân nhắc, thưa ngài.”
Howl và Angeline vào trong thì đóng cửa lại. Cô nghe thấy Howl thở ra một tiếng nhẹ nhõm, rồi cả hai chợt bắt gặp một cặp nam nữ đứng tuổi, có lẽ là vợ chồng, đang nhìn mình chằm chằm. Họ ngồi quanh chiếc bàn tròn bằng gỗ, mà ở bên kia là một người đàn ông già có mái tóc dài dị hợm. Howl cất tiếng trước tất cả người khác:
“Được rồi, hai người, có thể đi rồi đó. Bây giờ là lượt của tôi.”
“Cái gì?” Người chồng nói bằng cung giọng địa phương. “Nhưng chúng tôi đang bận mà.”
“Giờ thì hết rồi.” Cậu búng tay. “Nhanh nào, trước khi tôi hết kiên nhẫn.”
Fergus Vassago, người có mái tóc dài muối tiêu dị thường, đứng dậy và cúi chào. “Thứ lỗi, thưa các vị, nhưng tôi phải tiếp người này. Chúng ta có thể tiếp tục vào một buổi gặp mặt khác.”
Họ miễn cưỡng đứng dậy, ném cho Howl và Angeline một cái nhìn khó chịu rồi ra khỏi phòng. Cậu tiến đến và ngồi vào chiếc ghế trước mặt Fergus, còn Angeline ngồi vào cái còn lại.
Ông ta nhếch mép cười lạnh tanh.
“Ông thế nào rồi?” Howl mở lời trước như thể cậu và Fergus là người quen thân thiết, dù Angeline khá chắc đây là lần đầu tiên cậu gặp ông ta.
“Tôi ổn.” Ông ta nói. “Thật hơi khiếm nhã khi xông vào đột ngột thế đấy, thưa ngài.”
“Việc quan trọng mà.” Cậu nói, trong khi Angeline chỉ giữ im lặng. “Việc làm ăn của ông thế nào rồi, Fergus? Vẫn đông khách chứ?”
Ông ta nhún vai. “Như ngài thấy đấy, vẫn tốt đẹp lắm. Cho đến khi ngài xuất hiện.”
Angeline ngạc nhiên nhìn ông ta. Trong số những Cambion hay bất cứ ai cô từng gặp, chưa có ai dám nói chuyện như vậy với Howl, có lẽ ngoại trừ những người có cùng địa vị với cậu như Erik hay Iolite. Hầu như tất cả các nhà Cambion khác đều nể sợ Howl.
Cô bắt đầu nghĩ vì cậu chưa tạo được tiếng nói như cha mình, nhưng rồi khi thấy Howl bắt đầu cười, cô lại nghĩ khác. Có thể ngay từ đầu, Vassago đã không phải một gia tộc có niềm tin vào nền thống trị hiện tại của Cambion. Điều này thì hơi kỳ lạ vì hầu hết mọi người đều có niềm tin ấy. Thứ niềm tin cưỡng chế lạ kỳ.
“Ông bực bội vì tôi đuổi khách của ông sao?”
“Không.” Fergus Vassago nhấn mạnh. Giống cặp vợ chồng vừa rồi và cả con trai ông ta, Fergus có thứ giọng địa phương đặc trưng. Nó cầu kỳ và ước lệ, với những điểm nhấn trọng âm rất sắc. “Tôi chỉ đang băn khoăn sau gần năm phút ngồi đây, ngài vẫn chưa nói cho tôi biết ngài đến về chuyện gì.”
Rồi, ông ta đảo mắt sang Angeline. Cô cảm giác như mình co rúm lại thành một bào thai nhăn nheo trước cái nhìn sắc bén của ông ta. “Hoặc là ngài sắp kết hôn và muốn biết trước một chút về cuộc sống hôn nhân của mình. Cái đó, thì tôi có thể giúp đấy.”
Howl nhìn sang Angeline, người mà không hiểu sao đang đỏ lựng hai má, rồi cười khùng khục trong họng. “Ông vui tính đấy, tôi sẽ đến khi nào tôi sắp kết hôn.”
Nhưng ông ta tảng lờ Howl, mà quay sang nói với Angeline. “Quý cô trẻ tuổi, một người thường, và rõ ràng là một người vùng Ánh sáng, thật may mắn đấy nếu cô không định cưới ngài ấy.”
Angeline cảm thấy quanh mình những chiếc rễ, trói chặt cô xuống chiếc ghế gỗ và kéo căng mí mắt cô ra để thứ duy nhất cô thấy là Fergus Vassago. Ông ta đâm, một nhát dao ngọt xới, qua tai cô và qua trái tim đang đập yếu ớt của cô, bằng sự bình thản.
Howl quay sang nhìn Angeline, không thể che giấu được sự kinh ngạc.
“Người vùng Ánh sáng?”
“Ồ” Ông ta giả bộ ngạc nhiên. “Ngài không biết sao? Thật đáng xấu hổ, thứ lỗi cho tôi cô gái. Tôi tưởng ngài ấy đã biết rồi.”
Angeline có thể cảm thấy sức nặng từ ánh mắt Howl lên mình, cô tránh hết sức có thể đáp lại ánh mắt đó. Cô nuốt khan như thể vừa nuốt xuống dạ dày một hòn than nóng rẫy.
“Tại sao ông biết?” Cô hỏi lạnh tanh.
“Tôi có thể cảm nhận được.” Ông ta nói. “Dòng máu đang chảy trong huyết quản cô không phải là dòng máu nhuốm bẩn của vùng đất này. Có thể sau bao nhiêu năm sống ở vùng Bóng tối, ngoại hình, giọng nói và những thứ khác của cô bị ảnh hưởng nhưng...” Ông ta hạ giọng, rướn mình lại gần Angeline mà mỉm cười – một nụ cười dễ mến đến ngạc nhiên. “Nó không thể thay đổi xuất xứ thật sự của cô.”
“Được rồi.” Howl cắt ngang, cậu ngồi thẳng lên. Dẫu không nhìn nhưng Angeline cảm nhận được sự tức giận và e sợ của Howl, rõ đến mức cô lẫn với cảm xúc của mình. Và chúng đang thiêu đốt bao tử cô ngay lúc này. “Tôi đến để hỏi về cha tôi, Moldark Lucifer. Ông ta đã đến gặp ông nhiều năm về trước.”
“Ồ phải.” Fergus đứng dậy, cẩn thận cầm quả cầu thủy tinh ở trên bàn lên và mang nó cất vào một cái giá gỗ gần đấy. “Một người hách dịch, hẳn thế. Ông ấy đến đây một lần sau khi kết hôn và sắp có đứa con đầu lòng, mà có lẽ đó là ngài. Và một lần khi đứa con thứ hai của ngài ấy ra đời.”
Fergus đứng ngắm nhìn những quả cầu thủy tinh trong tủ kính. Chúng được đặt trên một tấm thảm nhung màu đỏ, nâng niu như thể đó là tài sản quý giá nhất của ông ta.
“Tôi cứ nghĩ ông sẽ vòng vo trước khi nói thẳng sự thật cơ.” Howl nói rồi lẩm bẩm với mình. “Đi tong màn hỏi cung mà tôi diễn tập mãi trong đầu.”
“Ông ta đã hỏi ông về điều gì?” Angeline hỏi.
Fergus không trả lời ngay. Ông ta bước tới gần một chiếc tủ kính khác đặt bên cạnh, kéo mạnh cánh cửa kính và lấy ra một chiếc hộp bằng gỗ. Ngắm nghía nó một lúc, Angeline thấy ông ta mang cái hộp lại và đặt lên bàn.
“Nhiều gia tộc có truyền thống đến gặp gỡ một nhà tiên tri vào những sự kiện mở đầu.” Fergus nói. “Như trước khi kết hôn, hoặc có con, chẳng vì lý do gì đặc biệt cả, họ muốn biết chuyện gì sẽ xảy ra và tốt hay xấu. Tôi đã gặp nhiều thành viên của gia tộc ngài, nhưng trường hợp của cha ngài, là đặc biệt nhất tôi từng gặp.”
“Có chuyện gì xảy ra sao?” Cậu hỏi lạnh nhạt.
Fergus đặt cái hộp gỗ lên bàn. “Ngài ấy đến đây vì những điềm báo trong giấc mơ. Ngài ấy nói không ít lần đã mơ về cái chết trước khi ngài được sinh ra. Cái chết đi cùng với khởi đầu của sự sống không phải là sự kết hợp tốt đẹp gì, nên ngài ấy đã tìm đến tôi.”
“Ông đã xem trước tương lai cho Moldark?”
Fergus nhoẻn cười, ngón tay của ông ta lần trên khóa của chiếc hộp. Một tiếng cạch nhỏ vang lên khi nắp hộp mở. Ông ta lấy ra bên trong một chiếc khăn nhung màu đen, trải ra bàn, và sau đó nhấc ra một bộ bài.
“Đẹp đấy.”
“Cảm ơn.” Ông ta nói bằng giọng đầy tự hào. “Tôi đã xem tương lai cho ngài Moldark, bằng chính bộ bài lộng lẫy này.”
Angeline tò mò nhìn bộ bài tarot, nhưng Fergus đã xoay lưng bài về phía họ và vì thế cô không thể thấy nội dung các lá bài.
“Tôi tưởng chỉ bọn phù thủy mới phải sử dụng bài?” Howl ngước nhìn cái tủ kính.
“Nó giúp những hình ảnh trong đầu tôi cụ thể hơn.” Fergus nói, nhưng ông ta không xáo bài, mà dường như đang lật tìm một lá bài nào đó. “Moldark đến đây với yêu cầu tôi phải làm rõ những điềm báo trong mơ của ông ta. Và tôi đã làm. Tôi đã cho ông ta biết ông ta sắp gặp phải chuyện gì.”
Fergus rút ra một lá bài, ông ta lật ngửa nó để cả hai có thể trông thấy. Bên trong lá bài, Angeline trông thấy một bộ xương trắng được vẽ tay, và nó mặc một chiếc áo choàng màu đỏ như máu. Bộ xương đứng giữa một cánh đồng như con bù nhìn, cầm một lưỡi hái dài sắc lẻm. Cô gần như có thể cảm thấy nó đang gầm gừ với mình.
Và ở bên cánh tay phải của bộ xương, trông như một cành cây khô đã chết, mọc một quả táo đỏ tươi, căng mịn dưới nét vẽ ma mị của bộ bài.
Angeline rùng mình.
“Death.” Howl nói. Cô cảm thấy cậu cũng đang rùng mình.
“Tôi đã nói với ngài ấy điều ngài ấy đề nghị được biết.” Fergus nói bằng giọng chậm rãi. “Ngài ấy không thể sống bất tử như lẽ ra ngài ấy có thể. Trong vòng hai mươi hai năm nữa, đứa con đầu lòng của ngài ấy sẽ bước lên kế vị. Vì ngài ấy sẽ chết.”