Hai thớt ngựa, cưỡi một thớt, dắt theo một thớt, xuyên qua phường An Hưng, phường Thắng Nghiệp, dọc đường đi đã thấy phố xá vắng tanh không người qua lại.
Cô chạy thẳng đến cạnh mộ Đổng Trọng Thư ở phường Sùng Nhân, hối hả xuống ngựa gõ cửa, tên gác cổng mở cửa nhìn bộ đồ hoạn quan của cô một lượt rồi tươi cười hỏi, “Tiểu công công tìm ai?”
“Tìm tiểu thiếu gia nhà các người, Chu Tử Tần.” Cô nói, đoạn giơ con cá vàng trong tay lên. Tên gác cổng liền nói, “Ôi cha, xin công công đợi một lát.”
Hoàng Tử Hà đứng trước Chu phủ, ngắm bóng thỏ nhô lên từ phía Đông, trống “Đóng cổng” trong thành Trường An loáng thoáng từ xa vẳng lại. Cô không khỏi sốt ruột.
May sao không lâu sau bên trong có tiếng động rồi một thiếu niên vội vã đi ra, ước chừng chưa đầy hai mươi tuổi, mày thanh mắt sáng, nho nhã tuấn tú, vận một bộ áo gấm thêu, sắc thiên thanh hoa lệ của chiếc áo phối cùng hoa văn tím khói, lưng thắt đai bạch ngọc chạm con ly, đeo đầy những túi hương, ví tiền, ngọc bội xanh, thoạt nhìn rành rành là một tay công tử chơi bời thường gặp, chẳng qua bộ dạng dễ coi hơn hẳn.
Thiếu niên nọ vừa thấy cô liền hỏi, “Tiểu công công, Quỳ vương tìm ta ư?”
“Chu Tử Tần?” Cô hỏi lại.
“Phải, chính là ta.” Gã nhìn quanh một lượt rồi gặng, “Có phải vương gia đã có chỗ dùng tới ta rồi không? Nghe nói gia đã tiến cử ta với bệ hạ, để ta được theo cha tới Thục, cuối cùng ta cũng được làm sai nha rồi! Ha ha ha, giai đoạn mới của đời ta sắp bắt đầu…”
“Nói bé thôi.” Lòng đang nóng như lửa đốt, cô đâm ra khó chịu với tiếng reo hò của kẻ kia, xẵng giọng nói, “Giờ vương gia cắt đặt cho một việc, rất hợp với công tử.”
“Thật ư? Còn hợp hơn làm sai nha à?”
“Ừm, quật mồ.”
“Quả nhiên người hiểu ta là Quỳ vương.” Gã chẳng buồn hỏi kỹ tình hình, giơ tay lên búng đánh tách, “Đợi một lát! Ta lấy dụng cụ rồi đến!”
Theo lệ ở Trường An, mỗi khi trời tối sẽ gióng sáu trăm tiếng trống “Đóng cổng”, hết tiếng cuối cùng thì buông dùi, đóng cổng thành, mãi đến canh năm ba khắc hôm sau, sau bốn trăm tiếng trống “Mở cổng”, mới mở ra.
Trời càng lúc càng tối, sáu trăm tiếng trống “Đóng cổng” tiếng sau giục giã tiếng trước. Hoàng Tử Hà và Chu Tử Tần thúc ngựa phi như bay trên phố, nhắm thẳng hướng cửa Kim Quang.
Gần như vào khoảnh khắc tiếng trống cuối cùng gióng xuống, quan giữ cổng thành hô lớn, “Đóng cổng!!!” thì hai thớt ngựa của họ lao qua cổng, men theo dòng kênh chạy thẳng tới vùng đồng hoang ngoài Tây thành.
Phía Tây thành là rừng núi um tùm, Chu Tử Tần thông thạo đường sá, dẫn cô đi thẳng đến nghĩa trang ngó vào trong, chỉ thấy một ngọn đèn leo lét, ông lão trông nghĩa địa đã ngủ từ lâu.
Chu Tử Tần đã cởi chiếc áo gấm rườm rà kia ra, chỉ vận quần áo nâu sồng. Gã rút trong tay áo ra một sợi dây kẽm, khéo léo kéo then rồi tức tốc đẩy cửa, thò tay vào, kịp thời bắt lấy chiếc then trước khi nó rơi chạm đất, khẽ khàng đặt lên bậu cửa sổ bên cạnh.
Hoàng Tử Hà trông mà phục sát đất, bản lĩnh này nào có giống tay công tử ăn chơi khắp người gấm vóc, rõ ràng là hồ ly trăm năm tu luyện thành tinh mà.
Gã ngoắc tay với cô, sau đó rón rén bước vào, mở tủ gỗ, rút cuốn sổ bên trong ra, lật đến trang cuối cùng…
Mười bốn người dân lưu vong ở U Châu, mười hai nam hai nữ, đều táng cạnh gốc thông sau Kỳ Sơn.
Gã lướt ngón tay qua hàng chữ đó rồi lặng lẽ trỏ ngọn đồi nhỏ bên ngoài, há miệng làm thành khẩu hình “Đi”.
Hai người rón rén ra cửa, gã lại dùng trâm dẹt đẩy chiếc then vào từng chút từng chút một, khó khăn lắm mới cài lại được, đoạn vẫy tay ra hiệu cho cô đi.
Cuối cùng Hoàng Tử Hà cũng hiểu vì sao Lý Thư Bạch bảo cô đi tìm Chu Tử Tần, gã này rõ ràng là kẻ tái phạm thành quen, tay chân rất nhanh nhẹn.
Đi thật xa rồi, Hoàng Tử Hà mới hỏi, “Công tử… trước đây thường làm thế này ư? Có vẻ thành thục lắm.”
Gã dương dương tự đắc, “Phải rồi, ta chỉ thích chút ngón nghề đó thôi, cho công công biết nhé, công phu ngỗ tác của ta cũng là lén luyện được từ những thi thể vô thừa nhận thế này đấy.”
“Bản lĩnh đẩy then cửa, hẳn cũng đạt mức tuyệt kỹ ở thành Trường An rồi nhỉ?”
“Thường thôi, thường thôi, ta luyện lâu rồi.”
“Thực ra tôi muốn hỏi chuyện này, bậu cửa sổ bên cạnh có chốt, hình như chỉ đẩy khẽ là mở được, sao công tử nhất định phải vào bằng cửa chính?”
“Bậu… bậu cửa sổ ấy hả?” Chu Tử Tần nín lặng, Hoàng Tử Hà đi xa thật xa, cuối cùng mới nghe thấy tiếng la thảm thiết phía sau, “Ôi giời ơi bản lĩnh tôi luyện hơn nửa năm! Ai trả lại cho tôi mồ hôi nước mắt khổ luyện ngày đêm đây!”
Đến dưới ngọn đồi nọ, họ thấy hai chú ngựa buộc ở đó đang thong thả đi lại.
Chu Tử Tần dắt ngựa đến rừng thông phía Bắc, trông thấy một thửa đất mới lật, biết ngay là chỗ này, bèn bê chiếc rương đeo trên lưng ngựa trước lúc lên đường xuống, mở ra lấy cuốc gấp xẻng gấp, ném cho Hoàng Tử Hà một chiếc.
Cầm chiếc xẻng, Hoàng Tử Hà ngỡ ngàng không dám tin, “Công tử có cả cái này ư?” Chuyên nghiệp quá nhỉ!
“Hừm, đừng nhắc nữa, đây cũng nhờ Quỳ vương lấy từ Binh khí ty cho ta đấy, khi gia phụ phát hiện, ta đã bị đánh suýt chết!” Gã ròng ròng nước mắt, đoạn moi trong rương ra một nắm tỏi, một miếng gừng và một bình giấm.
Hoàng Tử Hà cứ ngỡ gã sẽ moi ra nốt một cái bánh bao, nào ngờ gã lại lấy ra hai tấm vải, giã nát gừng và tỏi, hòa với giấm bóp trong vải rồi đưa cho cô một tấm, “Bịt vào đi, mùi xác thối lắm.”
Hoàng Tử Hà nhớ ra một chuyện, vội nhắc, “Nghe nói mấy người này đều chết vì bệnh dịch.”
“Vậy càng phải bịt mũi miệng lại, mau bịt vào đi.” Gã đắc ý nói, “Tuy hơi khó ngửi, nhưng đây là phương thuốc tổ truyền đó.”
Vừa đưa tấm vải lên mũi, Hoàng Tử Hà đã suýt xỉu, “Chu đại nhân làm quan cơ mà? Chu gia còn có phương thuốc tổ truyền này nữa à?”
“Tổ truyền, nhưng không phải tổ truyền nhà ta. Cầu cạnh bao lâu, làm thân mất mấy tháng mới được ngỗ tác nổi danh nhất ở Trường An là Chu bá bá truyền cho phương thuốc tổ truyền của nhà họ Chu này đấy.”
Hoàng Tử Hà im lặng cầm xẻng đào đất cùng gã. Thi thể vừa chôn hôm nay nên đào lên cũng không mấy vất vả, lại được Chu Tử Tần dùng cuốc thành thạo, tốc độ rất nhanh.
Dưới ánh trăng, Chu Tử Tần đào mãi đào mãi, có vẻ chán nản, bèn thuận miệng hỏi, “Công công là… là nguồn vui mới của Quỳ vương đó ư?”
“…” Hoàng Tử Hà nghĩ nếu không phải đang bịt mặt thì nhìn vẻ nhăn nhó của cô nhất định gã sẽ hiểu ngay cô nghĩ thế nào. Tiếc rằng Chu Tử Tần không trông thấy, vẫn tiếp tục lải nhải, “Tên là cái gì… Dương Sùng Cổ phải không?”
Cô rầu rĩ “ừm” một tiếng, nghĩ ngợi chốc lát rồi hỏi, "Nguồn vui mới gì đó, nghĩa là thế nào?”
“Hả? Ta cũng không rõ, chỉ nghe người trong kinh đồn rằng, bên cạnh Quỳ vương xuất hiện một tiểu công công rất đẹp, Chiêu vương xin mà Quỳ vương cũng không cho. Nên khi gặp mặt, ta mới đoán chắc là công công.”
Nghe những lời nhảm nhí của gã, Hoàng Tử Hà chẳng thèm chấp nữa, chỉ phẫn uất đào hùng hục.
Song gã vẫn dai dẳng không tha, “Nghe nói công công biết phá án? Từng phá vụ án Bốn phương?”
“Ăn may thôi.”
“Phá được vụ án như thế, ta thấy có thể sánh ngang với người ta sùng bái nhất rồi.”
“Cũng thường thường ấy mà.”
Ánh trăng mờ ảo, rừng thông rì rào, giữa đồng hoang vắng vẻ, hai người vừa trò chuyện câu được câu chăng, vừa mải miết đào xới. Mãi tới khi dưới ánh trăng lộ ra vài thứ không giống màu bùn đát, Chu Tử Tần mới hô lên, “Đợi chút đợi chút, để ta xem nào.”
Đoạn gã nhảy ngay xuống cái hố nông vừa đào, đeo đôi găng mỏng vào, nhặt một mảnh xương lên xem xét, “Không sai, là thi thể đã được hỏa thiêu. Có điều đây rõ ràng là xương đàn ông, công công xem xương tay to thế này mà. Nếu muốn tìm một phụ nữ thì phải tiếp tục đào rồi.”
Hoàng Tử Hà ngồi thụp xuống bên miệng hố, “Đúng, phải tìm một phụ nữ, tuổi chừng bốn mươi, cao năm thước ba tấc, người dong dỏng, giỏi đánh đàn.”
“Được.” Chu Tử Tần lại dùng xẻng xới đất. Đào hết xương cốt mười bốn người thì rất nhọc, may mà phụ nữ được chôn cách ra, Chu Tử Tần đào rộng xung quanh, phân biệt thật kỹ một lượt, cuối cùng cũng bốc được một vốc cháy sém.
Trông đống xương thịt cháy dở ấy, Hoàng Tử Hà biết Lý Thư Bạch đã nói đúng, quả nhiên đám sai dịch kia chỉ hỏa táng qua loa là đào huyệt chôn luôn, chẳng buồn chấp hành quy tắc đốt lâu chôn sâu.
Cô tự xỏ găng vào, trước tiên lật xem tay thi thể. Trời tối nên chỉ thấy lờ mờ, nhưng cũng đỡ được mấy phần ghê sợ. Có điều mùi xác cháy quá nồng nặc, dù đã được giấm, tỏi và gừng át bớt, vẫn xộc thẳng vào mũi.
Cô nín thở, nhủ thầm, Hoàng Tử Hà, đến thi thể người nhà ngươi cũng nhìn qua rồi kia mà, mấy thứ này thấm tháp gì.
Đợi cơn buồn nôn dần dịu xuống, cô gắng hết sức định thần, giơ tay lật thi thể kia lại. Chu Tử Tần nói, “Nhìn từ xương cốt, có thể thấy hai cái xác bên dưới đều cao hơn năm thước, một kẻ xương khá giòn, thân hình lại hơi gù, ước chừng phải hơn năm mươi nên bộ thứ hai chắc là người công công muốn tìm đấy.”
Hoàng Tử Hà quan sát kỹ chiếc đầu lâu đã cháy đen, hỏi Chu Tử Tần, “Có cách gì tra ra được mày trái bà ta có nốt ruồi đen hay không không?”
“Không thể, nốt ruồi và sẹo đều ở phần biểu bì, da thịt cháy rụi rồi, mấy thứ đó sao còn được nữa?”
“Vậy một thi thể thế này, còn dấu vết gì để nhận ra thân phận nữa không?”
“Đợi chút, để ta tìm xem.” Đoạn gã lấy trong rương một chiếc túi da, mở ra, đồ vật bên trong phản chiếu ánh trăng lấp loáng. Toàn là chày, dùi, dao nhỏ các loại, đều rèn bằng thép tốt.
“Muốn làm cho chắc, phải có đồ sắc, trang bị của ta không tồi chứ hả?” Gã vừa khoe khoang vừa thành thạo lật giở kiểm tra thi thể hồi lâu, đoạn nhanh nhẹn rạch lớp da còn sót lại, “Trước hết không được động vào cổ họng… ngón tay đã cháy rụi, không nhận dạng được nữa; mắt khô quắt, không nhận dạng được; tai không còn, không nhận dạng được…”
Hoàng Tử Hà ngồi thụp xuống bên miệng hố, ngẩng đầu ngắm trăng sáng. Chu Tử Tần loay hoay một hồi rồi kết luận, “Không nhận ra được vết thương bên ngoài nữa đâu.”
Hoàng Tử Hà tì cằm lên đầu gối, “Trước khi hỏa thiêu, người của bộ Hộ không kiểm tra sao? Cuốn sổ trong nghĩa trang có ghi lại không?”
“Người này chết vì bệnh dịch nên chẳng ai kiểm tra nữa đâu, chỉ mong nhanh nhanh xử lý cho xong thôi.” Nói đoạn, Chu Tử Tần lại trỏ chiếc rương bên cạnh, “Lấy cái túi nhỏ ở ngăn thứ hai hàng thứ tư cho ta.”
Hoàng Tử Hà lấy chiếc túi vải trong đó quăng cho Chu Tử Tần, gã rút ra một thẻ bài mỏng bằng bạc rộng bằng ngón tay và một chiếc bình nhỏ, sau đó chấm vải vào chất lỏng trong bình, xát mạnh lên thẻ bài tới khi nó sáng bóng lên mới tóm lấy cằm người chết, mở miệng bà ta ra, nhét thẻ bài vào rồi đóng miệng lại, dùng một tờ giấy đậy kín, bảo, “Đợi một lát xem.”
Hoàng Tử Hà theo đám bổ đầu ở Thục quận đi tra án lâu ngày, đương nhiên biết đây là cách nghiệm độc, thứ bôi lên thẻ bài là nước tạo giáp(). Đợi nửa canh giờ lấy ra, nếu thẻ bài hóa đen thì người đó chết vì trúng độc.
() Một loài thực vật có hoa trong họ đậu, thuộc chi bồ kết.
“Ngoài thi thể người đàn bà kia, còn có thi thể những người đàn ông lưu vong, công tử có thể tìm lấy một cái, nghiệm độc đồng thời không?” Hoàng Tử Hà đề nghị.
“Được.” Chu Tử Tần đáp, đoạn cũng dùng giấy phủ kín miệng những người kia lại.
Hoàng Tử Hà không kìm được lên tiếng nhắc nhở, “Lát nữa nhớ kiểm tra cả dạ dày nhé, lần trước ở Thục quận có một cô gái, sau khi chết mới bị người ta đổ thuốc độc, kết quả ngỗ tác chỉ khám nghiệm phần miệng, suýt nữa đoán lầm.”
“Ô, còn có chuyện như vậy ư?” Mắt Chu Tử Tần tức thì sáng rực, gã trèo lên khỏi hố, cùng cô đi đến gốc thông cách đó một quãng, bỏ khăn bịt miệng xuống hỏi, “Hay công công thuật lại cụ thể vụ án đó đi?”
“Án đó không có gì, rất là đơn giản.” Hoàng Tử Hà nhớ lại rồi nói, “Ở Long Châu thuộc Thục quận có một thiếu nữ đột tử tại nhà, ngỗ tác dùng cách này kiểm nghiệm, cho là uống thuốc độc tự vẫn. Song tôi… Song vì sai nha phát hiện vết bầm trên cổ tay cô ta không giống hoa văn dây nho trên chiếc vòng tay hằn lên, mà là hoa văn thạch lựu, đoán rằng trước khi chết nhất định đã có một phụ nữ khác đè lên tay cô ta. Bèn tìm kỹ trong mũi miệng cô ta, phát hiện tắc máu. Sau khi thẩm vấn khắp lượt người nhà mới biết đại tỷ cô ta thông gian với hàng xóm, bị cô ta bắt gặp, đại tỷ bèn túm chặt hai tay cô ta còn tên hàng xóm ép cô ta giữ bí mật, nào ngờ ra tay không lường được nặng nhẹ, bịt kín mũi miệng khiến cô ta ngạt thở chết. Giữa lúc bối rối, hai kẻ kia bèn đổ thuốc độc vào miệng cô ta, hòng ngụy tạo là cô ta uống thuốc độc tự sát. Vì chỉ nghiệm thấy độc ở cổ họng chứ không thấy trong bụng, nhờ thế mà phá được án này.”
Chu Tử Tần phấn chấn hỏi, “Thật sao? Chẳng hay con người tâm tư tinh tế, chỉ từ hoa văn trên một chiếc vòng mà phá được vụ án ấy là ai vậy?”
“… Là Quách Minh, bổ đầu ở Thục quận.”
“Không thể nào! Ta từng gặp Quách Minh, hắn ta râu ria xồm xoàm, hành xử tùy tiện, không lý nào lại để tâm đến hình dạng vết hằn trên tay phụ nữ được.”
Hoàng Tử Hà chẳng biết làm sao, đành đưa mắt liếc vầng trăng sáng đã lên đến đỉnh đầu, “Cái đó tôi không biết.”
“Ta lại đoán rằng, liệu có phải là Hoàng Tử Hà, ái nữ của Hoàng sứ quân không?” Chu Tử Tần đột nhiên suy đoán, “Ta nghe nói cô ấy rất giỏi phá án từ những manh mối nhỏ.”
“Không rõ.” Hoàng Tử Hà tì cằm lên đầu gối, nhìn vầng trăng sáng hồi lâu mới thốt, “Hình như từng nghe nói đến người này.”
Chu Tử Tần không nhận ra thái độ lạnh nhạt của cô, cứ hào hứng nói, “Thoạt nhìn đã biết trước đây công công không ở Trường An! Cũng không ở Thục quận đúng không? Cô ấy rất nổi tiếng ở Thục và Trường An đó! Còn nữa còn nữa, công công có biết vì sao ta quyết tâm làm ngỗ tác, làm sai nha không? Chính là vì Hoàng Tử Hà đó!”
“Hở?” Cô vẫn thờ ơ.
“Công công đợi một chút.” Chu Tử Tần quay sang lấy một túi lớn trong rương ra, đưa tới trước mặt cô, “Này, chia cho công công một nửa.”
Ngửi thấy mùi thơm nức, cô cúi xuống nhìn, không khỏi buồn nôn, “Tối nay chúng ta đi đào thi thể mà công tử còn đem gà nướng theo ư?” Huống hồ còn đào thi thể đã hỏa táng!
“Ôi chao, ta nào đã ăn cơm tối! Lúc trước lẻn vào bếp lấy giấm với tỏi gừng, thấy chỉ có cái này tiện mang theo, bèn vơ lá sen gói lại cầm đi. Đầu bếp nhà ta tay nghề khá lắm đấy!”
Khóe môi Hoàng Tử Hà giần giật, chẳng muốn nói thêm lời nào với kẻ này nữa.
“Nãy kể đến đâu rồi nhỉ? À, Hoàng Tử Hà ái nữ của Hoàng sứ quân, chính là người trong lòng ta đấy! Là người trong mộng!”
Hoàng Tử Hà lạnh lùng nói, “Cô ta đứng trước mặt công tử cũng không nhận ra mà?”
“Sao thế được? Mỗi lần ngang qua bảng truy nã dán trên cổng thành, ta đều phải dừng lại ngắm một lát, quả là đẹp! Trên cáo thị mà còn đẹp nhường ấy, mới gọi là mỹ nhân thực sự đúng không?”
Chẳng còn hơi sức đâu đôi co với gã trai này nữa, Hoàng Tử Hà đành lặng lẽ quay đầu sang phía khác, “Cô ta có tài đức gì mà khiến công tử mến mộ đến thế?”
“Chuyện này phải kể từ năm năm trước! Bấy giờ ta mười lăm, nàng mười hai. Thuở ấy ta còn chưa biết sau này muốn làm gì, cứ ngỡ mình cũng sẽ như các huynh trưởng, không vùi đầu tính toán sổ sách ở bộ Công thì hằng ngày lại thảo công văn ở Thượng Thư Tỉnh, mọi người đều khen các huynh trưởng nhà ta vô cùng xuất sắc, nhưng ta không thấy vậy. Đời người đẹp như thế mà lãng phí phần lớn thời gian trôi nổi bập bềnh trên quan trường thì còn sống làm gì? Kết quả, khi ta đang dùng dằng nhất, hoang mang nhất trước cuộc đời thì Hoàng Tử Hà xuất hiện!”
Bắt gặp ánh mắt gã nhìn lên vầng trăng sáng rực lấp loáng, cô chợt thấy thôi thúc muốn xé ngay một chiếc cánh gà mà ăn ngấu nghiến, để được nôn ra cho dịu tâm trạng mình.
Giọng Chu Tử Tần đột ngột cao hẳn lên, rõ ràng muốn truyền tải niềm hưng phấn của mình cho cô, “Sau đó, ta đột ngột tìm thấy mục tiêu cuộc đời mình! Hoàng Tử Hà bấy giờ mới mười hai tuổi, còn nhỏ mà đã bắt đầu giúp bộ Hình phá án, lẫy lừng bốn phương, còn ta? Năm mười hai tuổi ta đã làm gì? Mà nói chung ta đã làm gì suốt mười lăm năm? Khi nghe được sự tích về nàng, ta bỗng tìm thấy ý nghĩa cuộc đời sau này của mình. Bỗng trông rõ con đường thênh thang trải dài trước mắt! Bỗng trông thấy cuộc đời mình rốt cuộc cũng đi về phía huy hoàng!”
Hoàng Tử Hà không nhịn được đành ngắt lời gã, “Công tử không nghe đồn Hoàng Tử Hà đã giết cả nhà rồi bỏ trốn sao?”
“Không thể có chuyện đó!” Chu Tử Tần vung vẩy chiếc chân gà cầm trong tay, vẻ kiên quyết.
Từ khi xảy ra chuyện, đây là lần đầu tiên cô gặp một kẻ vững tin vào mình như thế, tuy gã có phần khù khờ, song không khỏi khiến cô nhất thời xao động, ánh mắt cũng theo đó mà dừng trên mặt gã, “Tại sao?”
“Hở?”
“Tại sao… công tử lại tin cô ta?”
“Ồ, vì ta thấy người liên tiếp phá được kỳ án như Hoàng Tử Hà nếu thực sự muốn giết người hẳn sẽ tìm một cách khiến thiên hạ không đoán ra được, chứ sao có thể đơn giản thô thiển giết chết cả nhà như thế? Làm vậy thực là uổng tiếng tăm lẫy lừng mà!”
Hoàng Tử Hà tiếp tục ngẩng lên nhìn trời, tự thấy chút xao xuyến vừa rồi quả là lãng phí.
Đợi Chu Tử Tần ăn hết con gà nướng thì cũng sắp đầy nửa canh giờ. Gã lại moi ra một gói hạt dưa chia cho cô một nửa. Lần này Hoàng Tử Hà không từ chối, lẳng lặng bốc một vốc nhỏ.
Vầng trăng ngả về Tây, đã sắp đến canh tư. Chu Tử Tần rút cả ba thẻ bài trong miệng ba cái xác ra, phát hiện chỉ có thẻ bài trong miệng thi thể nghi là Phùng Ức Nương biến đen. Gã lại dùng nước tạo giáp lau kỹ một lượt, đoạn nhìn màu đen kịt không sao lau nổi trên tấm thẻ bài, kết luận, “Là trúng độc mà chết, không sai.”
Hoàng Tử Hà “ừm” một tiếng.
Phùng Ức Nương, cầm sư ở Vân Thiều Uyển Dương Châu, nhũ mẫu dạy dỗ vương phi lại chết vì trúng độc, xác lẫn trong đám dân chạy nạn từ U Châu. Mà vương phi tương lai sắp gả vào Quỳ vương phủ lại nói, nhũ mẫu về Dương Châu rồi.
Cô đương mải nghĩ ngợi thì Chu Tử Tần đã bắt đầu kiểm nghiệm nội tạng, “Để cho cẩn thận, chúng ta kiểm tra lại dạ dày đi.”
Dạ dày được mở ra, tuy cơ bản đã khô quắt, song trông vẫn kinh khủng hết sức. Dây thần kinh to bằng cây đũa như Chu Tử Tần mà cũng phát khiếp, đành quay mặt đi, chỉ dám nhìn bằng khóe mắt. Khi nhét thẻ bài vào gã bỗng ồ lên một tiếng, cảm thấy ngón tay chạm phải thứ gì đó lành lạnh cưng cứng, tiện tay móc ra nhìn, không khỏi reo lên, “Ô, Sùng Cổ, công công mau xem cái này!”
Trong lòng bàn tay gã có một hạt gì đó nho nhỏ tỏa sáng lành lạnh dưới ánh trăng. Hoàng Tử Hà xỏ găng vào cầm lên xem kỹ.
Là một viên ngọc dương chi nhỏ, chỉ bằng móng tay út, chất ngọc trong suốt. Cô lau sạch máu me và vết bẩn trên đó rồi đưa lên soi dưới trăng, trông thấy bề mặt khắc một chữ “niệm” nho nhỏ.
Sắc trắng của ngọc dương chi khi đậm khi nhạt dưới trăng, chảy ngang mắt cô dập dềnh như sóng nước. Nhìn chữ “niệm” trôi nổi trên đó, cô ngây người ra thật lâu.
Viên ngọc dương chi trắng muốt đặt trước mặt Lý Thư Bạch, y nhìn con chữ khắc trên đó, song không cầm lên, chỉ hỏi, “Cái gì đây?”
Hoàng Tử Hà đáp, “Vương gia tự cầm lấy mà nhìn chẳng phải sẽ biết ư?”
Lý Thư Bạch vẫn không chạm vào viên ngọc, mà vươn tay nhấc chiếc bình lưu ly trên bàn, ngắm con cá nhỏ nhởn nhơ tự đắc bơi lượn bên trong, “Chạm vào cái thứ đấy à? Lỡ như nó lấy từ miệng người chết ra thì sao?”
Hoàng Tử Hà thành thật đáp, “Không phải lấy từ miệng người chết đâu, đảm bảo!”
Bấy giờ y mới chìa bàn tay tuyệt mỹ ra, dùng ngón cái và ngón trỏ nhón lấy viên ngọc đưa lên trước mắt ngắm nghía, nhận dạng con chữ trên đó, “Niệm ư?”
“Là Niệm trong Trần Niệm Nương.” Cô nói.
Y đặt viên ngọc xuống, nghĩ ngợi rồi hỏi, “Ngươi định đưa viên ngọc này cho Trần Niệm Nương?”
“Vậy nhất định phải tiết lộ cho bà ta cái chết của Phùng Ức Nương. Đến lúc đó ắt Trần Niệm Nương sẽ sinh chuyện, đánh rắn động cỏ.”
“Ừm, ngươi cứ tạm giữ lấy đi đã.” Y trả lại viên ngọc. Hoàng Tử Hà cầm mảnh vải vẫn bọc viên ngọc lúc trước, bọc kín nó rồi nhét vào tay áo.
Lý Thư Bạch cau mày, “Ta lấy làm lạ, tại sao chúng lơ đễnh đến thế, lại bỏ sót một món đồ chứng minh thân phận quan trọng như vậy bên mình Phùng Ức Nương.”
“Vì Phùng Ức Nương đã nuốt nó vào bụng, trước khi phát độc chết.”
Dứt câu, quả nhiên thấy hàng mi Lý Thư Bạch khẽ nhướng lên. Cảm thấy khoan khoái khó tả, cô lại bồi thêm một câu, “Xác Phùng Ức Nương bị đốt cháy trụi, có điều nội tạng cơ bản vẫn còn, chúng tôi rạch dạ dày bà ta moi ra đấy.”
Lý Thư Bạch nhìn hai ngón tay mình, đoạn ngước lên nhìn Hoàng Tử Hà, gương mặt nãy giờ thờ ơ bình thản, cuối cùng cũng phải đổi sắc.
Hoàng Tử Hà tỉnh khô nhìn y, “May sao không phụ lòng trông đợi của vương gia, trước khi trời sáng, tôi và Chu Tử Tần đã lo liệu xong mọi sự, sau đó lấp thửa đất lại như cũ, bảo đảm không còn dấu vết gì cả.”
Lý Thư Bạch nhìn thái độ thản nhiên của cô, lại nhìn xuống tay mình, cuối cùng không kìm nổi tóm lấy chiếc chậu rửa bút bằng sứ Long tuyền trên bàn, ra sức chà xát cọ rửa đôi tay, “Hoàng Tử Hà, ngươi cút ngay cho ta!”
Tuy phải vầy vò thi thể suốt đêm, song trong khoảnh khắc chứng kiến vẻ cuống quýt của Lý Thư Bạch, Hoàng Tử Hà chợt cảm thấy tất cả đều xứng đáng. Cô hớn hở chạy về ngủ bù, “Vâng! Cẩn tuân mệnh lệnh vương gia!”
Đại hôn của Quỳ vương Lý Thư Bạch đã định vào tháng Năm.
Mùng tháng Năm, mười ngày trước đại hôn, Vương Nhược đến chùa Tiên Du ở ngoại thành cầu phúc theo tục lệ.
Phong cảnh nơi này rất đẹp, hơn nữa xưa nay, các phi tần và phu nhân dâng hương ở chùa Tiên Du về đều thấy linh nghiệm vô cùng, bởi thế tuy trong thành có rất nhiều chùa chiền, song quý phụ trong kinh vẫn chuộng đến đây dâng hương.
Trước đó, Vương Uẩn đã báo lịch trình với Lý Thư Bạch. Sau khi Quỳ vương phủ đứng ra, từ sáng sớm ngày mùng chùa Tiên Du đã quang đãng hẳn, ngay các tiểu Sa di không có việc gì cũng không được rời thiền phòng. Đến khoảng giờ Thân, trong chùa tịnh không còn kẻ vô công rỗi nghề nào lảng vảng nữa.
Hoàng Tử Hà, Tố Khởi cùng hơn mười a hoàn trong phủ Vương Uẩn theo Vương Nhược đi dâng hương. Chùa Tiên Du rộng rãi thoáng đãng, xây dựa vào núi. Tiền điện tọa lạc dưới chân núi, thờ Phật Di Lặc tươi cười hòa ái và Vi Đà Tôn giả, chính điện nằm ở lưng chừng núi, thờ Như Lai và hai vị Bồ tát Văn Thù, Phổ Hiền. Còn có cả Tây phương A Di Đà Phật cùng Đại Thế Chí Bồ tát, Quan Thế âm Bồ tát, Đông Phương Dược Sư Phật, Nhật Quang Bồ tát, ngoài ra còn La hán và miếu thờ La hán.
Họ vào trong chính điện lạy Phật dâng hương, lần lượt quỳ xuống dập đầu, tới khi lễ xong chính điện ở lưng chừng núi thì Tố Khởi và mấy a hoàn đã mệt lử, thấy hậu điện còn nằm tít trên đỉnh núi, ai nấy đều rũ ra.
Tố Khởi than thở, “Tôi không leo nổi nữa rồi, dù sao hôm nay trong chùa cũng chẳng có ai đâu, Dương Sùng Cổ công công theo vương phi lên đi thôi.”
Hoàng Tử Hà vâng lời, cùng Vương Nhược cầm hương đi theo bậc thềm, leo một mạch lên tới đỉnh.
Trên bệ đá xanh lốm đốm rêu phủ, hai người vừa đi vừa để ý nhìn phía trước, cảnh chùa vắng ngắt, thỉnh thoảng mới nghe tiếng chim líu ríu, rồi một con chim nhỏ trắng muốt bay ngang qua, chao nghiêng lưng trời, bay vào dải núi rừng điệp trùng trước mặt. Hai người nhìn theo, dõi mắt về hướng hậu điện, rồi bỗng trông thấy một người đàn ông đứng lù lù ở đó. Hắn xuất hiện quá đỗi đột ngột, cũng quá đỗi thầm lặng, như thể do chính cánh chim trắng kia biến thành vậy.
Vương Nhược thoáng khựng lại. Hoàng Tử Hà khẽ nắm lấy tay áo nàng, trấn an, “Vương công tử và các thị vệ trong phủ đều ở đây, vương phi cứ yên tâm.”
Vương Nhược “ừm” một tiếng, cùng bước nốt mười bậc thang cuối cùng, đi thẳng đến cửa hậu điện, nâng nén hương vái lạy vào trong. Hậu điện thờ Nhiên Đăng Cổ Phật, trước bệ thờ có hoa thơm nến quý, khói xanh lãng đãng khiến mọi vật trở nên hư ảo.
Vương Nhược quỳ trước bệ thờ, lầm rầm cầu khấn, Hoàng Tử Hà ngoái lại nhìn kẻ kia, thấy hắn vẫn đứng ngoài cửa, xa xa bên ngoài là núi non biêng biếc, bầu không ngăn ngắt, hắn cũng vận một bộ áo xanh, như muốn hòa tan vào cảnh vật, toát lên vẻ phiêu lãng xa xôi.
Như nhận ra Hoàng Tử Hà đang nhìn mình, hắn ngoái lại nhìn cô qua màn hương khói mịt mờ, khóe miệng đột ngột nhếch lên để lộ một nụ cười. Đường nét gương mặt vốn bình bình, chỉ là một nam nhân thanh tú thông thường, song nụ cười lại hết sức ôn hòa ấm áp, toát lên vẻ dịu dàng như mây gợn trời quang.
Hoàng Tử Hà cúi đầu, coi như đáp lễ hắn, nhân đó nhìn xuống mới phát hiện tay hắn xách một chiếc lồng chim. Chính là con chim họ vừa trông thấy, màu trắng như tuyết, đang đậu trong lồng. Chừng như rất hiểu ý người, vừa thấy cô ngó lại, nó liền kêu ríu ran, nhảy nhót tung tăng vô cùng hoạt bát.
Vương Nhược cũng đã lễ xong, đứng dậy quay đầu nhìn theo ánh mắt cô, và trông thấy con chim nhỏ kia.
Trong ngoài đại diện vắng tanh vắng ngắt, chỉ có ba người bọn họ. Người kia xách lồng chim, ánh mặt trời chênh chếch ngả về Tây hắt bóng hắn vào trong điện, trùm lên cả hai người, cảm giác như con dơi khổng lồ dang cánh trong đêm tối. Hắn cười ôn hòa, “Thấy con chim này thế nào?”
“Là các hạ nuôi ư? Trông khôn quá nhỉ.” Vương Nhược nhìn nó, vẻ hiếu kỳ.
Dường như hiểu được lời khen của nàng, con chim càng vui vẻ nhảy nhót trong lồng.
“Phải đó, khôn lắm, dù ta mở cửa lồng để nó bay vào rừng, thì chỉ cần nghe tiếng ta gọi, nó sẽ lập tức quay về.” Nói đoạn hắn thò hai ngón tay vào vuốt nhẹ lên đầu con chim, nó cũng thân mật cọ cọ đầu vào ngón tay hắn.
Hoàng Tử Hà không muốn rầy rà nhiều chuyện, bèn kéo Vương Nhược ra ngoài. Song khi đi ngang qua chỗ kẻ kia, chợt nghe hắn nói, “Bất kể hiện giờ thế nào thì những gì từng làm hay từng trải qua đều sẽ khắc sâu trong lòng, dẫu lừa được mọi người, cũng chẳng gạt nổi bản thân mình.”
Hoàng Tử Hà cảm thấy Vương Nhược thoắt cứng đờ người, bước chân cũng khựng lại.
“… Giống như có một sợi dây vô hình tròng vào cổ, càng muốn chạy xa, nó càng thít chặt.” Rõ ràng kẻ kia đã thấy phản ứng của Vương Nhược, song chỉ cười nói, “Ý ta nói con chim này thôi.”
Hoàng Tử Hà quay lại nhìn thẳng vào hắn, “Ngươi có biết người đứng trước mặt ngươi là ai không mà dám nói năng càn rỡ thế?”
“Đương nhiên ta biết.” Giọng kẻ kia vẫn thản nhiên, còn đượm nét ung dung cười cợt, “Nếu không có gì thay đổi thì trong vòng mười ngày nữa, cô nương đây sẽ trở thành Quỳ vương phi.”
“Đã vậy xin đừng quấy nhiễu quý nhân, để khỏi phiền hà lắm chuyện.”
“Ta nào có quấy nhiễu quý nhân, chỉ là muốn cho vương phi xem một trò hay.” Đoạn hắn từ từ tiến đến, khom người vái nàng một vái, phất tay áo qua lồng chim rồi đặt chiếc lồng xuống trước mặt hai người, ngẩng lên nhìn cả hai, cười nói, “Chút tài vặt, mong đổi được nụ cười của vương phi.”
Trong một khoảnh khắc ngắn ngủi ấy, con chim nhỏ vừa nãy còn nhảy nhót trong lồng đã biến mất. Trước mặt họ chỉ có chiếc lồng trống không với bốn mươi tám nan trúc tía.
Vương Nhược lộ vẻ sửng sốt, ngơ ngác nhìn Hoàng Tử Hà. Hoàng Tử Hà lại đang nhìn chằm chằm kẻ kia, không nói một lời,
“Mong vương phi mấy ngày tới giữ gìn cẩn thận, bằng không khó tránh gặp phải cảnh ngộ tương tự con chim trong lồng này. Dù nan lồng ken khít đến đâu chăng nữa, cũng có thể biến mất trong nháy mắt.” Hắn mỉm cười với hai người rồi quay mình đi thẳng vào điện, cao giọng ngâm nga, “Phận làm chim giữa lồng, chớp mắt không dấu vết, phú quý thảy mây trôi, mộng dài hoài mê mệt!”
Dưới tà dương văng vẳng tiếng chuông đưa, các nhà sư đang tụng bài kinh tối, tiếng tụng niệm cùng bóng chiều rơi rớt bao trùm lấy họ. Chiếc lồng chim dưới đất và bóng hai người đổ dài dưới ánh hoàng hôn, rơi vào đại điện sâu thăm thẳm.
Hoàng Tử Hà xăm xăm trở vào điện, nhưng chẳng thấy một ai. Lúc ngoảnh ra, thì bắt gặp gương mặt Vương Nhược tái nhợt như đóa hoa héo úa.
“Sao muội và Dương công công lại đứng ngây ra đây thế?”
Có người gọi họ. Là Vương Uẩn. Đợi dưới núi mãi mà không thấy cả hai quay lại, y bèn đích thân lên tìm. Thấy chiếc lồng trống rỗng dưới đất, y hỏi, “Ai lại đặt thứ này ở đây?”
Thấy Hoàng Tử Hà nhìn Vương Nhược, hắn mới nhận ra tình hình không ổn, vội gặng, “Nhược muội, thế này là thế nào?”
“Uẩn ca!” Vương Nhược run run lên tiếng, ngẩng đầu nhìn y, mắt còn ngân ngấn kinh hoàng.
Vương Uẩn cau mày hỏi, “Xảy ra chuyện gì thế?”
“Mới rồi… có một gã đàn ông rất lạ… hắn nói…” Giọng Vương Nhược run rẩy lộn xộn, chẳng còn ngữ điệu gì cả.
Hoàng Tử Hà đành tiếp lời, “Trước lúc công tử lên đây, có một gã đàn ông xách lồng chim xuất hiện, chẳng hiểu ra tay thế nào mà thoắt cái đã làm biến mất con chim trong lồng, còn nói có lẽ vương phi sẽ thình lình biến mất như con chim đó vậy.”
“Đàn ông ư?” Vương Uẩn ngạc nhiên nhìn quanh, “Đã xua hết người trong chùa đi ngay từ đầu, sau khi hai người vào, ta lại cùng binh sĩ vương phủ canh giữ bên dưới, theo lý không thể có kẻ nào xuất hiện trong chùa được, sao lại có đàn ông trà trộn vào?”
“Người nọ nhất định còn chưa trốn ra được đâu, chỉ ở trong chùa Tiên Du này thôi, huynh phái người lục soát sẽ tìm thấy đấy.” Vương Nhược run rẩy đề nghị.
Vương Uẩn gật đầu, lại thấy nàng kinh hãi quá độ, bèn an ủi, “Chẳng qua là một kẻ không rõ lai lịch nói mấy câu nhảm nhí, sao muội lại coi là thực? Yên tâm đi, thiên kim của họ Vương Lang Gia chúng ta, vương phi của Quỳ vương phủ, sao có thể bỗng dưng biến mất được? Muội đừng tin mấy lời nói nhảm ấy.”
“Vâng.” Vương Nhược nuốt lệ gật đầu, đoạn rụt rè nói, “Có lẽ, có lẽ tại muội lo lắng quá nhiều, ngày thành hôn càng tới gần, muội càng ăn không ngon ngủ không yên…”
Vương Uẩn gật đầu vẻ thông cảm, mỉm cười dỗ dành, “Ta biết, nghe nói con gái trước lúc gả chồng thường lo lắng như vậy mà. Tuy ta không hiểu lắm, song có lẽ là vì thấy vận mệnh từ nay sẽ thay đổi nên đâm lo chăng.”
Vương Nhược khẽ gật đầu, cắn nhẹ môi.
“Muội ngốc quá, Quỳ vương tốt như vậy, muội còn sợ sau này không hạnh phúc hay sao?” Nói đoạn, Vương Uẩn giơ tay vỗ vỗ vai nàng, “Đi thôi, đừng tin mấy lời nhảm nhí ấy.”
Vương Nhược cúi đầu theo Vương Uẩn xuống thềm, đi về phía Đại Hùng Bảo Điện ở lưng chừng núi. Hoàng Tử Hà theo sau, cách nàng một bậc thềm, chợt nghe tiếng nàng khe khẽ, “Sùng Cổ.”
“Dạ.” Cô đáp.
“Có phải công công cũng thấy… gần đây ta quả thực, có vẻ rất lo lắng rất căng thẳng không?” Nàng thấp thỏm hỏi.
Hoàng Tử Hà nghĩ ngợi rồi đáp, “Vương phi quá để tâm đến vương gia nên càng lúc càng căng thẳng đấy thôi. Nếu chẳng phải vương phi để ý, thì sao lại thế được?”
Vương Nhược mím môi, nhìn cô qua làn nước mắt rồi nói khẽ, “Chắc vậy.”
Các nhà sư vẫn đương tụng kinh tối, tiếng chuông chiều cùng tiếng tụng niệm cứ quấn quýt quanh họ. Nghe tiếng kinh, Hoàng Tử Hà lại chạnh lòng nhớ tới một câu ngoại tổ mẫu từng niệm, “Tất cả ân oán đều vô thường, khó bền vững. Vì yêu mà âu lo, vì yêu mà sợ hãi”.
Vừa lẩm nhẩm, cô vừa ngoảnh sang nhìn Vương Nhược đang cúi gằm mặt, tự hỏi, có thật nàng ta vì yêu Lý Thư Bạch nên mới như thế chăng?
Vương Uẩn vốn tính kỹ lưỡng, sau khi bàn bạc với Từ Chí Uy hộ vệ trong vương phủ thì chia binh lính thành hai nhóm, một nhóm lục soát hết các điện thờ, thiền phòng cùng mọi ngóc ngách trong chùa, còn nhóm kia đi điều tra các nhà sư. Song lúc xảy ra chuyện, mọi người đều đang tập trung ở đại điện tụng kinh tối, chẳng ai có khả năng xuất hiện ở điện thờ Nhiên Đăng Cổ phật cả.
Khi trời tối hẳn, nhóm lính đi lục soát khắp nơi cũng lần lượt quay về, chia cả chùa ra thành năm mươi khu, cứ mười người một tốp tra xét thật kỹ, đến con rận trốn trong chùa, gặp phải chiếc lược chải đi chải lại như thế hẳn cũng bị moi ra – nhưng không, không hề phát hiện dấu vết bất cứ kẻ nào. Trong chùa ngoài Hoàng Tử Hà và Tố Khởi đi theo Vương Nhược thì chỉ còn các a hoàn và vú bõ của nhà họ Vương, ngoài ra chẳng có ai khác.
Thứ duy nhất được coi như phát hiện, là trong điện thờ Nhiên Đăng Cổ phật, có kẻ tìm thấy một đầu mũi tên đã gỉ sét đặt trước bệ thờ.
Trên đó khắc bốn chữ lờ mờ: Đại Đường Quỳ Vương.