Tuyết trắng ngày đông phủ một lớp thật dày trải từ núi rừng tới nhà cửa, khắp nơi chỉ có sắc trắng tinh khôi. Chiêu Linh và công tử Đại Quốc Khương Kỳ cùng leo lên tường thành ngắm tuyết.
Chiêu Linh mặc một chiếc áo lông chồn, phóng tầm mắt nhìn tuyết trắng trải dài phía xa xa, thản nhiên lạnh nhạt. Khương Kỳ không nhàn nhã hưởng thụ như thế, y nhìn về phía xe ngựa đang dồn dập nối đuôi quay về thành, trong đó phần lớn là xe ngựa của những khách khanh đến từ các quốc gia khác.
Khương Kỳ ân cần nói: “Nhờ có Linh công tử phân rõ lợi hại phải trái với Quốc quân, khiến Quốc quân thu hồi mệnh lệnh trục khách nếu không cũng không biết ta sẽ phải ở ngoại thành bao nhiêu lâu nữa.”
Những người bị đuổi đi vốn chỉ có khách khanh Chấp Quốc, nhưng khách khanh của những quốc gia khách cũng sợ tai bay vạ gió, lần lượt chạy trốn khỏi Đô thành Dung Quốc. Hiện giờ Quốc quân Dung Quốc đã thu hồi mệnh lệnh kia, khiến những vị khách khanh ấy rời đi được nửa đường lại vòng xe quay trở lại.
Chiêu Linh cười: “Ta nào dám kể công.”
Tất cả đều là công môn khách của Thái tử. Bọn họ dự đoán được những chuyện sẽ xảy ra, khi khách khanh các quốc gia khác lần lượt rời đi, Chiêu Linh cũng chọn được thời cơ tốt nhất, khuyên bảo phụ vương.
Quốc quân đã sớm ý thức thức được sai lầm của mình, lại mãi không chịu nhả ra, tới tận khi nhi tử mình yêu thương nhất tới khuyên bảo mới sâu sắc tỉnh ngộ, rút mệnh lệnh lại.
“Linh công tử khiêm tốn quá rồi, không ít khách khanh vì có công tử ra tay giúp đỡ mới thoát được cảnh khốn khó! Mấy trăm khách khanh của Đô thành ắt đều phải cảm ơn ân tình của Linh công tử!” Khương Kỳ khom lưng ca ngợi.
Lời hay ai chẳng thích nghe, Chiêu Linh cũng không ngoại lệ. Y nhếch môi, đầu ngón tay chỉ về phía núi rừng sâu thẳm: “Ngắm tuyết đi.”
Advertisement
Ngày đông ở Đại Quốc vô cùng lạnh lẽo đến mức tuyết rơi rồi đóng lại thành băng, Khương Kỳ vốn chẳng thấy có gì đáng xem, đơn điệu vô vị.
Khương Kỳ đút hai tay vào túi áo, nói rằng: “Nơi ấy của chúng ta tuyết phủ trắng trời, nhiều đến mức qua cả đầu gối, đâu đâu cũng là sắc trắng, nhìn đến nỗi đau mắt, không giống nơi này, đỉnh núi vẫn còn ánh xanh biếc.”
Thấy tầm mắt Linh công tử như bị thứ gì hấp dẫn, y nhìn theo mới thấy một chiếc xe ngựa đang chạy về bến tàu Nam thành, xe ngựa là xe hai ngựa phổ thông, người đánh xe hình như hơi quen mắt, chính là Việt Tiềm.
Bến tàu Nam thành rộn rộn ràng ràng, chỉ thấy bóng Việt Tiềm lái xe vô cùng thuần thục, xuyên qua làn người đông đúc.
Khương Kỳ nhắc tới: “Mấy ngày trước ta mới gặp hắn ở học viện đất Tề phía Nam.”
Chiêu Linh cố ý hỏi lại: “Gặp phải ai?”
Đa phần mọi người sẽ không ghi nhớ mặt mũi của tuỳ tùng, xem ra Khương Kỳ nhận ra Việt Tiềm.
Ngón tay Khương Kỳ chỉ về phía xe ngựa của Việt Tiềm: “Người hầu kia của công tử.”
Việt Tiềm trên xe ngựa áo quần sạch sẽ, tóc tai gọn gàng, dáng người đoan chính. Dung nhan hắn xuất chúng, khó trách lại bị Khương Kỳ nhận ra.
“Ngày đó Tần phu tử giảng bài trong học viện, ta thấy hắn cũng đi nghe giảng, mới hỏi hắn nghe có hiểu không. Hắn nói có thể hiểu một, hai phần. Ban đầu ta còn cảm thấy người này chất phác ít nói, nhưng ngày ấy hắn đối đáp trôi chảy, khiến người khác phải giật mình.”
Khương Kỳ nhắc tới chuyện này, bởi sau đó nhớ lại, y vẫn cảm thấy khó mà tin nổi.
“Quả thật là hắn ít nói, nhưng cũng không thể nói là chất phác được.” Chiêu Linh nghe Khương Kỳ thuật lại, trong lòng cũng vô cùng bất ngờ.
Hoá ra những khi mình hồi cung, cuộc sống của Việt Tiềm cũng muôn màu muôn vẻ đến thế, còn ghé qua học viện nghe Phu tử giảng bài.
Lúc này, Việt Tiềm đã dừng xe bên bến tàu, hệt như đang chờ đợi điều gì, hay chỉ là đứng đó nhìn những nô lệ dỡ hàng hoá từ trên thuyền xuống.
Khương Kỳ không biết người hầu này muốn làm gì, cảm thấy vô cùng kỳ quái, bèn đề nghị: “Có muốn gọi hắn tới đây không?”
Đáy lòng Chiêu Linh đã có suy đoán, trả lời: “Không cần.”
Lúc này, thuyền lớn của Hữu doanh phía Bắc cũng từ từ cập bến. Toàn bộ nô lệ trên thuyền đều là người Vân Việt, bọn họ gạt mái chèo vô cùng đồng đều, hướng thuyền lớn về phía bến tàu.
Thấy thuyền lớn của Hữu doanh phía Bắc đã cập bến, Việt Tiềm lập tức ngẩng đầu lên. Vẻ mặt của hắn vô cùng bình thản, thần thái tự nhiên, hệt như nhàn nhã không có việc, chỉ tới bến tàu xem thuyền vào cảng mà thôi.
Cuối cùng thuyền lớn cũng dừng hẳn bên bờ, binh lính trên tàu bắt đầu giục giã những nô lệ người Vân Việt làm việc, sai bọn họ vận chuyển những giỏ trúc đầy cá lên bến tàu.
Việt Tiềm không chút hoang mang nhảy xuống xe. Hắn vén rèm lên, lấy một chiếc túi nhỏ từ trong xe ra, sau đó đi về phía thuyền lớn của Hữu doanh phía Bắc.
Bến tàu đông người, bóng lưng ấy khi ẩn khi hiện, động tác ung dung chẳng vội, những người xa lạ đi bên cạnh vốn cũng chẳng để ý tới hắn.
Túi nhỏ kia hẳn là lương thực, Chiêu Linh tự nhủ.
Trong những nô lệ người Vân Việt kia, có một nô lệ trẻ tuổi ăn mặc khác với những người còn lại. Y mặc một chiếc áo da dê.
Quần áo da dê là đồ chống lạnh của bách tính bình thường, nô lệ sao có thể với được tới, trừ khi có người mang tặng.
Y vẫn còn nhớ lễ săn mùa Hạ năm ngoái, Việt Tiềm đã cứu một người đồng bạn dưới móng của con trâu điên, người đồng bạn ấy hẳn là nô lệ đang mặc áo da dê kia.
Hẳn là hảo hữu của Việt Tiềm khi còn ở trong Hữu uyển.
Chiêu Linh không muốn để Khương Kỳ thấy được, bèn nói: “Chúng ta xuống đi.”
Không nhìn cũng đoán được những chuyện sau đó — Việt Tiềm giao túi lương thực kia cho nô lệ người Vân Việt mặc quần áo da dê đó, ấy là cứu tế.
Hẳn đây chẳng phải lần đầu tiên Việt Tiềm làm chuyện này.
Khương Kỳ đứng mãi trên tường thành cũng cảm thấy vô vị, lập tức trả lời: “Nếu ngắm tiếp sẽ cảm thấy cảnh Đông xấu đi mất, trên này gió lớn quá.”
Hai người xuống khỏi tường thành, Chiêu Linh hỏi: “Người Đại Quốc cũng sợ lạnh sao?”
Đại Quốc nằm ở phía Bắc, đông đến còn lạnh hơn nhiều so với Dung Quốc.
Khương Kỳ trả lời: “Đương nhiên rồi, trời rét căm căm như thế, đến thú hoang đông về cũng phải trốn vào hang núi.”
Thú hoang lông dày còn sợ lạnh, huống chi là những nô lệ người Vân Việt trên bến tàu kia, ngày đông thiếu ăn thiếu mặc, phải chịu cái lạnh như cắt da cắt thịt.
Việt Tiềm điều khiển xe ngựa rời khỏi bến tàu Nam thành, đang định ra khỏi cổng thành, trong lúc lơ đễnh ngẩng đầu lên lại phát hiện ra một chiếc xe ngựa cực kỳ quen mắt đang rời khỏi tường thành.
Chỉ liếc mắt một cái, hắn đã nhận ra đây là xe ngựa của Linh công tử.
Vừa rồi Linh công tử cũng ở đây?
Trên tường thành sao?
Việt Tiềm ngẩng lên, còn đang suy tư, chợt nghe có người gọi hắn: “Việt hầu!”
Vừa quay đầu, hắn đã thấy một tên tuỳ tùng của Linh công tử. Tuỳ tùng kia cất cao giọng: “Công tử ra lệnh cho Việt hầu ở lại trong thành chờ lệnh, còn nói nếu không có lệnh thì không cho rời khỏi nhà dưới!”
Việt Tiềm không cảm thấy bất ngờ, chỉ đáp: “Dạ.”
Xem ra, đúng là vừa rồi Linh công tử ở trên tường thành, còn phát hiện ra hắn lén lút tiếp xúc với những nô lệ người Vân Việt.
Việt Tiềm cứu tế Phàn Ngư là chuyện cực kỳ nguy hiểm, thân phận của hắn nhạy cảm, một khi Dung Vương cảm thấy chướng mắt, lúc nào cũng có thể giết hắn. Chỉ cần có người phát hiện ra hắn lén lút tiếp xúc với những nô lệ trong Hữu uyển, khó tránh khỏi sẽ suy đoán hắn có ý đồ riêng, có mưu đồ gây rối.
Vốn phải cảm thấy hoảng hốt, Việt Tiềm lại bình tĩnh một cách kỳ lạ. Hắn nhìn thẳng về phía trước, xe ngựa của Linh công tử đã biến mất không còn tung tích. Hắn không nhìn thấy Linh công tử, nhưng đầu óc như đang tái hiện lại cảnh người ấy ngồi trong buồng xe, lạnh nhạt ủ tay vào trong áo khoác lông chồn.
Việt Tiềm ở lại trong thành, ngủ tại nhà dưới của người hầu trong Vương cung, cũng được phân một gian phòng coi như rộng rãi. Lần này hắn không thể đi đâu, vừa không thể ra khỏi thành, cũng không thể về Biệt đệ, chứ chưa nói đến về nhà ở đất Tề phía Nam.
Chỉ có thể chờ ở chỗ này, đợi mệnh lệnh của Linh công tử.
Ngày đầu tiên, không có lệnh truyền tới.
Ngày thứ hai cũng không có.
Tới ngày thứ ba, Việt Tiềm nằm ngửa trên giường, nhìn ánh trăng tàn hắt lên chạc cây trọc lốc ngoài cửa sổ, suy đoán Linh công tử hẳn sẽ không muốn cầm cù hắn tới tận đầu xuân năm mới đâu?
Vòng trăng ngoài cửa sổ trở nên nhạt nhoà, lu mờ ảm đạm. Việt Tiềm không buồn ngủ chút nào, hai mắt mở to.
Nhà dưới có rất nhiều phòng, người tới lui tấp nập, hiệu quả cách âm cũng không tốt lắm, ban đêm còn nghe rõ những người ở phòng kế bên trò chuyện, cằn nhằn.
Những gia đình ở nhà dưới đều là người hầu trong Vương cung cả, bọn họ biết rất nhiều chuyện lớn nhỏ, không điều gì không hay.
Việt Tiềm không có hứng thú với chuyện của Dung Quốc, cho dù ban đêm có nghe những người cách vách nói chuyện phiếm, hắn cũng không để ý chút nào. Nhưng tối nay thì không giống vậy, khi hai người kia trò chuyện, hắn nghe thấy bọn họ nhắc tới ba chữ “Linh công tử”.
“Bây giờ Mạc Ngao bị Quốc quân cách chức, trục xuất khỏi đô thành, không biết Phủ đệ của hắn sẽ rơi vào tay ai nhỉ?” Người nói những lời này, giọng điệu vừa nhỏ vừa nhọn, tuổi còn rất trẻ, nghe rất giống một thái giám.
“Ai biết được nó sẽ rơi vào tay ai, cũng chẳng liên quan gì tới chúng ta. Có điều, chủ nhân nhà ngươi muốn nhắm tới Phủ đệ của Mạc Ngao đấy à?” Giọng của người còn lại già nua, qua âm tiết cũng có thể đoán được giới tính, hẳn là một thái giám khác.
Người trẻ nói: “Quả thật chủ nhân nhà ta có suy nghĩ này, muốn đòi Quốc quân ban thưởng Phủ đệ ấy, tặng cho đệ đệ thân sinh.”
Người lớn tuổi bảo: “Chỉ cần chủ nhân nhà ngươi mở miệng, muốn gì mà không có? Thân cơ đang được yêu chiều, phụ huynh cũng dựa vào nàng cả, đúng là muốn gì được nấy.”
Người trẻ lại buông tiếng thở dài, sốt ruột thay chủ nhân nhà mình: “Sao mà chắc được, Hứa Cơ phu nhân cũng muốn.”
Người lớn tuổi đè giọng thấp xuống, cẩn thận hỏi: “Sao Hứa Cơ phu nhân cũng muốn chứ? Đây là định tặng cho ai?”
Người trẻ vội vã nhắc nhở: “Linh công tử đấy, sang năm công tử đã tròn mười bảy rồi mà.”
Người lớn tuổi bừng tỉnh: “Đúng là! Sao ta lại quên mất chuyện này chứ!”
Cách vách vọng tới tiếng ho khan của người lớn tuổi, sau đó lại chậm rãi lên tiếng: “Theo quy củ trong cung, sang năm Linh công tử phải chuyển ra ngoài cung, lập Phủ đệ riêng rồi. Có ai mà không phải như vậy chứ, sau khi trưởng thành rồi không thể qua đêm trong cung nữa.”
Ngoại trừ Thái tử, những nhi tử khác của Quốc quân, sau khi trưởng thành không một ai được ở lại trong cung.”
Người lớn tuổi lại nói: “Thân cơ không nên tranh đoạt, đệ đệ của nàng cũng chỉ là cung thủ trong cung mà thôi, sao có thể so được với thân phận của Linh công tử! Lại nói, bởi có Linh công tử tiến vào khuyên nhủ, Quốc quân mới có thể thu hồi mệnh lệnh trục khách, công lao của y vẫn là to nhất! Thân Khuê làm gì có công lao gì, chỉ là một kẻ nắm chút mẹo vặt trên chiếu cờ bàn bạc thôi!”
“Gã muốn thì cứ để gã tranh, đâu ai dám cướp đồ của Linh công tử chứ! Ta nói, ai cướp được toà Phủ đệ ấy ắt sẽ dính phải xui xẻo thôi!” Người trẻ tuổi bỗng nhiên cười nhạo.
Người lớn tuổi vội hỏi: “Những lời ấy từ đâu mà ra?”
“Mạc Ngao bị trục xuất khỏi Dần Đô, nhưng nhi tử Cừ Uy thì vẫn còn đang ở đây mà! Cừ Uy tính tình thô bạo tàn ác, trước đây còn dám chống đối cả Thái tử, bây giờ oán khí đầy bụng, ai mà biết gã sẽ dám làm chuyện gì!”
Hai người hàn huyên rất lâu, chủ đề quanh quẩn về Phủ đệ của Mạc Ngao, có thể thấy trong thành toà Phủ đệ ấy cực kỳ có tiếng, vô cùng xa hoa, rất nhiều người thèm muốn đến nỗi nước miếng chảy dài ba thước.
Không biết đã qua bao lâu, cách vách không có tiếng nữa. Đêm đã rất khuya, Việt Tiềm nhắm mắt lại, cơn buồn ngủ dần kéo hắn chìm vào giấc mộng.
Một vòng trăng tàn treo ngoài cung điện, ánh trăng thanh mát, Chiêu Linh cũng thu tầm mắt từ ngoài cửa sổ về. Y cúi đầu nhìn cuốn sách lụa đang bày trên bàn sách, ngón tay vuốt thật nhẹ lên những văn tự trên lớp lụa mỏng.
Tâm tư y không ở nơi này, mà đã phiêu dạt đi nơi khác.
Sau khi “giam” Việt Tiềm ở nhà dưới, chớp mắt đã qua ba ngày. Thức ăn ở nhà dưới chẳng có bao nhiêu chất lượng, chỉ là cơm đậu rau dưa, từng gian phòng cũng vô cùng đơn sơ.
Y có tâm muốn Việt Tiềm tự tại cả mùa đông này, tiếc rằng hắn cả gan làm loạn, không để ý tới mạng của chính mình.
Chiêu Linh đứng dậy, rảo bước trong thư phòng. Tâm ý y đã quyết, ít nhất phải giữ hắn một tuần, khiến cho hắn hoàn toàn tỉnh ngộ.