Hiên Viên Phù đứng trước cổng Hoàng Hoa biệt uyển, chần chừ không vào.
“Vương gia…” – Hồ tổng quản muốn nói lại thôi.
“Ngươi đứng ngoài này.” – dứt lời, một mình gã đi vào biệt uyển.
Trong viện không một bóng người, chỉ có gốc vân sam xanh mơn Chu Kỳ tự tay vun trồng, bao bụi bặm bám trên cành lá đều được nước mưa gột sạch, càng tôn thêm sắc xanh tươi ướt át. Vườn rau con con trong góc sân còn sót lại lơ thơ mấy loại hành hẹ củ cải, nhờ vào trận mưa mấy ngày gần đây trông cũng tươi tốt hơn nhiều.
Cánh cửa phòng Chu Kỳ không đóng, bên trong u ám như một hắc động không đáy chầu chực muốn hút hồn phách người ta vào.
Hiên Viên Phù đứng bên cửa, hai chân như bị ghim chặt, không thể tiến thêm dù chỉ một bước. Hồ tổng quan nào hay, gã do dự không tiến về phía trước, không phải vì không muốn, mà bởi không dám…
Gã sợ, sợ Chu Kỳ đã chết thật rồi, chết rồi mà chỉ để lại những lời oán thán nguyền thề; rồi lại sợ Chu Kỳ chưa chết, nhưng một chữ cũng không thèm lưu, cứ thế vĩnh biệt thiên nhai.
Tốt nhất là cứ đứng tại đây đi, đứng đến già, đứng đến chết, như thể Chu Kỳ vẫn còn sống.
Nhưng, gã hiểu Chu Kỳ, hiểu rất rõ.
Dù là sống hay chết, nhất định y cũng sẽ an bài tất thảy hậu sự một cách ổn thỏa, bất kể ân oán. Ở Lũng Tây, chỗ dựa duy nhất y có, là Hiên Viên Phù, mà Hiên Viên Phù nợ Chu Kỳ, chưa khi nào hết.
Hít thật sâu, Hiên Viên Phù chậm rãi đi vào phòng.
Bên trong vẫn bày trí như thường nhật, huân hương cũng không đổi, tựa chừng như chỉ còn thiếu mỗi người.
Trên bàn có đặt một hộp gấm, và một phong thư.
Thư không dài, vậy mà phải mất gần một canh giờ gã mới xem xong.
“Trương Khuê!” – Hiên Viên Phù khàn giọng gọi.
Trương Khuê đáp tiếng tiến vào, run rẩy quỳ trên mặt đất.
Sắc mặt Hiên Viên Phù trắng bệch, môi khẽ run, “Đã tìm thấy thi thể chưa?”
“Bẩm Vương gia, tìm thì tìm được rồi, nhưng ngâm trong nước mấy ngày thi thể đã biến đổi khó coi, Vương gia…”
Nhãn tình Hiên Viên Phù ngời sáng, “Ý ngươi là đã không nhận rõ mặt mũi?”
Biết lòng gã vẫn nhen nhúm hy vọng, Trương Khuê cũng không đành lòng, sau cùng mới chần chừ đáp: “Tuy hình dáng tương đồng, y trang phục sức cũng đều là của Chu Kỳ, nhưng lúc nào cũng có vạn nhất, là thay mận đổi đào cũng không chừng…”
Nói được nửa chừng Hiên Viên Phù đã ngắt lời hắn, “Trên cổ của thi thể kia có vết thương không?”
Trương Khuê không đáp, ánh mắt lập lòe.
Hiên Viên Phù nhắm mắt, thở dài, “Thôi, chuyện đã tới nước này, chết hay chưa chết đã chẳng còn quan trọng.”
Gã nhìn Trương Khuê, khẩu khí nhẹ nhõm hơn, “Tính ra, hai năm trước Chu Kỳ vào phủ, là ngươi dẫn đường cho y, giờ y qua đời, cũng là người tiễn y một đoạn đi.”
Trương Khuê chúc đầu xuống đất, “Vương gia phân phó, không dám bất tòng!”
“Thứ nhất, lập tức che giấu tin tức, không được để người ngoài biết được chuyện này. Mấy hạ nhân Chu Kỳ mang theo, tạm thời cho chúng một tiểu viện cung cấp ăn ở, tới thời cơ chín muồi thì thả về Giang Nam.”
“Thứ hai, thư trong hộp gấm này, mỗi tháng gửi một phong tới Chu Quyết, Cố Bỉnh, tới Vĩnh Gia năm thứ bảy mới thôi.”
“Thứ ba, lập tức phong tỏa Hoàng Hoa biệt uyển, ngoài Bản vương, bất luận kẻ nào cũng không được bén mảng tới.”
“Thứ tư, tiện tỳ Thanh Thương đi cùng các ngươi tới đầm Hưu Chư…” – nói tới đây, Hiên Viên Phù có vài phần không muốn, “Hủy tiện tịch, thả đi.”
Trương Khuê ghi nhớ từng cái, lại hỏi: “Vương gia, về phần thư qua thư lại của Chu lục sự với mấy người kia, đối phương hỏi thế nào, đáp ra sao, y cũng không biết trước được, nhỡ để lộ sơ hở thì làm sao?”
Đáy mắt gã nháng sắc bi thương, “Thư y viết, không để đối phương thoái thác, chỉ một mình ca cẩm, có lẽ đã sớm chuẩn bị từ trước, dăm ba năm tới có khi cũng chẳng ai phát hiện được.”
Trương Khuê lĩnh mệnh, đi chưa được mấy bước đã ngoái lại hỏi: “Vương gia… thi thể kia thì xử lý thế nào?”
Thật lâu chẳng đổi lấy tiếng đáp, một lúc lâu sau Hiên Viên Phù mới não nề: “Trước tìm một chỗ chôn đánh dấu lại, sau đó lập một y quan trủng(mộ chôn quần áo, đồ đạc, không có xác) trong Liệt Lăng cho y.”
Trương Khuê vừa nghe đã kinh ngạc không thôi, Liệt Lăng nằm phía tây Lương Châu, là nơi quy táng cho toàn gia Tĩnh tây vương, Chu Kỳ chỉ là Lục sự bát phẩm, nếu mai táng ở nơi đó chẳng phải là quá trái thông lệ sao.
Thấy hắn sững người tại chỗ một lúc, Hiên Viên Phù mất kiên nhẫn gắt: “Hay là ngươi muốn chôn cùng?”
Dứt lời, gã phẩy tay áo bỏ đi.
*
Nửa đêm, nguyệt bạch phong thanh, Hiên Viên Phù lại chẳng mảy may buồn ngủ.
Bức di thư Chu Kỳ để lại như kinh văn không ngừng lặp đi lặp lại trong đầu gã, tựa như tới khi nào từng chữ từng lời phải khắc vào cốt tủy mới thôi.
Mấy trang ít ỏi, mà chín phần là hậu sự, chỉ còn vài câu chót nhất mới dành cho gã.
“Sống hoài hai mươi năm, hỗn độn nửa đời, Chu Kỳ mới hiểu quan cao lộc lớn chỉ là cỏ rác, tình thiên hận hải chỉ tựa phù vân, tất cả đều là hư vọng. Chu Kỳ ra đi, thế nhân có thể sẽ cho rằng vì bi khổ, nhưng đi rồi vô ái, vô khổ, vô lo, vô ưu, vô uế, vô ô, an ổn nơi niết bàn, còn gì mà bi? Hai năm tại Lũng Tây, được Vương gia quan tâm, Chu Kỳ khắc sâu tận đáy lòng, thư tới đây đã tận, duy chỉ mong Vương gia bảo trọng vạn lần, vạn lần bảo trọng.”
Hiên Viên Phù đột nhiên đứng dậy, rảo bước tới chiếc tủ kê trong góc tường, lấy ra một vật, xốc tấm vải trắng che phủ, rành là tiêu vĩ cầm. Chu Kỳ từng dùng nó tấu khúc Hán Cung Thu Nguyệt, cũng dùng nó diễn khúc Quảng Lăng; từng tặng cho ca kỹ, cuối cùng thì bị chính gã cường ép lấy lại…
Sau khi huyền cầm đứt, kỳ thật gã đã sớm sai người sửa lại, vậy mà gã chưa từng để y gảy. Thậm chí gã còn nhớ mang máng, âm cuối cùng y tấu, dường như là Giác…
Giác, Quyết, Tuyệt…
Mười ngón tay vuốt trên dây cầm run lên bần bật, bao nỗi bi ai ban ngày đè nén bỗng chốc nứt toạc, thiêu đốt ngũ tạng gã, ngay cả thở cũng khó khăn quá đỗi.
Thế nhân đều nói anh hùng khí đoản, quả không sai.