Gió đêm chầm chậm, vạn vật lặng thinh, hai người lại không buồn ngủ gì, Giang Luyện dựa vào tường, nhìn Thần Côn ngồi trên giường, dưới chân bừa bộn những cuộn giấy tờ giấy, thử rút ra những ý quan trọng nhất trong những lời lộn xộn lão vừa mới nói.
“Thế nên, chú cho rằng những điều kỳ diệu được lưu truyền ở Tương Tây, thậm chí là cả đất Điền, Kiềm, Quế này đều có quan hệ với Xi Vưu?”
Thần Côn gật đầu: “Cách truyền thừa và nền văn hóa đặc biệt của bộ lạc Xi Vưu di chuyển theo sự bại rút của người trong bộ lạc, trong hơn ngàn năm cũng theo di chuyển mà khuếch tán. Dĩ nhiên, hiện giờ đều đã là người cùng một nhà, thống nhất lâu rồi, nhưng cậu nhìn lại xem, không cảm thấy hệ thống văn hóa của Viêm Hoàng và Xi Vưu rất khác nhau à?”
“Điển hình nhất là, chúng ta là người đọc sách không nói chuyện yêu ma quỷ quái, nhưng họ thì lại nói chuyện quỷ thần vu pháp, vạn vật đều có linh thiêng, động có thần động, núi có thần núi, đến cây cũng có thần cây – trong một khoảng thời gian dài, nền văn minh Trung Nguyên luôn nhìn nền văn minh man di với ánh mắt phiến diện, cũng có phần yêu ma hóa. Bất kể là cản thi, cổ độc hay bùa chú cũng đều nghe đến là biến sắc, nhưng nếu như đó là truyền thừa văn hóa đặc biệt của họ thì sao?”
Lão bắt đầu liệt kê: “Chẳng như cản thi và cổ độc, thời xa xưa được quy về ‘chúc vưu khoa’, chúc vưu khoa lại gọi trời chữa bệnh, là nghề chữa bệnh thời thượng cổ. Cản thi không biết chừng là nghiên cứu về cơ thể người của người ta, phát hiện ra một thời gian ngắn sau khi chết, thi thể có thể bảo tồn và hoạt động; mà cổ độc thì chính là y dược…”
Thần Côn hơi kích động, ánh mắt đưa ra ngoài cửa sổ, xa xa là những bóng núi lờ mờ cao thấp không đồng nhất.
“Cậu xem, trên núi ngoài muôn màu muôn vẻ các loại thực vật thảo dược ra thì có phải cũng có rất nhiều loài côn trùng bò sát không? Thần Nông của chúng ta nếm trăm loại cỏ, theo hệ thống thảo dược, liệu họ có phải là theo hệ thống trùng dược không?”
“Một toa thuốc Đông y, ví dụ như hai đồng phục linh, hai đồng bạch thuật, một đồng chế phụ tử, mài ra bỏ vào ấm sắc thuốc đun sắc, bản chất có khác gì bỏ một con rết, một con bọ cạp, một con ong độc vào vò chôn xuống đất, mặc chúng tự cắn giết lẫn nhau, lợi dụng khí hậu khác nhau ở từng khu vực và thời gian để ‘đun’, cuối cùng thu được thành phẩm đâu?”
“Chỉ có điều, thuốc của chúng ta là vật chết, thuốc của họ là một con cổ trùng, là vật sống; thuốc của chúng ta chỉ dùng một lần, của họ có thể dùng đi dùng lại. Cậu cảm thấy con sâu này quá kinh tởm, có độc, song đó chỉ là bị ảnh hưởng từ quan niệm thẩm mỹ được định sẵn từ trước, huống chi, rất nhiều thảo dược cũng có độc mà, tục ngữ còn nói ‘Là thuốc đều có ba phần độc’ đấy thôi.”
Giang Luyện gần như hoàn toàn bị lão thuyết phục, nghe nghe một hồi, hắn cũng hiểu rằng những thứ được gọi dị thuật yêu ma của dân vùng biên e rằng thật sự chỉ là sự khác biệt văn hóa giữa dòng Viêm Hoàng và dòng Xi Vưu.
Nói cho cùng, cổ độc cũng giống như bài vị vậy, đều chỉ là một loại công cụ, đáng tiếc là có quá nhiều người dùng nó cho việc không đứng đắn, lâu dần để lại ấn tượng ghê sợ cho người ta – thực ra rất nhiều thuốc men hóa học bây giờ vào tay tội phạm cũng là vũ khí lợi hại để giết người.
Xem ra, toàn bộ sự kiện đều không khỏi có dính dáng tới Xi Vưu.
Nhưng bài ca về các triều đại của Trung Quốc là bắt đầu từ “Hạ Thương và Tây Chu”, đến triều Hạ cũng bị một vài nhà sử học cho rằng là một triều đại thần thoại không tồn tại, được tưởng tượng ra, trận chiến giữa Hoàng Đế và Xi Vưu còn diễn ra trước cả triều Hạ, không có bất kỳ tư liệu nào để tham khảo, chỉ có thể xem qua loa biết một hai từ những câu chuyện truyền thuyết lẻ tẻ thời thượng cổ: song thứ truyền thuyết này trải qua hàng ngàn năm bị người đời sau sửa chữa, thêm thắt lược bỏ, đã sớm hoàn toàn thay đổi rồi.
Thần Côn thật đúng là…đâm đầu sa vào câu đố khó giải thích nhất từ cổ chí kim.
Giang Luyện cười cười: “Xi Vưu… Tôi từng đến Lâu Để, trong truyền thuyết đó là cố hương của Xi Vưu, rất nhiều nơi đắp tượng Xi Vưu, trên đầu còn có hai cái sừng trâu nữa, uy phong lẫm liệt.”
Hắn trầm mặc hồi lâu rồi mới quay trở lại chủ đề chính: “Bức thắt thừng ghi nhớ kia, chú định…bắt tay vào từ món thêu hoa của dân tộc thiểu số à?”
Thần Côn sửa đúng hắn: “Không phải dân tộc thiểu số mà là chính cái trại Dao Hoa kia. Vợ Thẩm Vạn Cổ là người gốc Dao, mà bởi Dao Hoa và những nhánh Dao khác khác nhau rất nhiều, vợ cậu ta thường hay đề cập, cậu ta cũng nghe không ít nên cũng coi như là nửa chuyên gia. Trước đó tôi đã nói chuyện với cậu ta, hỏi rất nhiều điều.”
“Tôi cảm thấy chính là cái trại đó, không hẳn là trực giác mà là có lý do, ba lý do.”
“Thứ nhất, Dao Hoa ở Tương Tây dân số rất ít, cơ bản đều phân bố ở khu vực Tuyết Phong Sơn, chỉ có trại này là ở Đại Vũ Lăng, hơn nữa còn cách rừng đá treo túi mật gần nhất – trước đó không phải đã nói là hoàn cảnh địa lý ở đây không tốt lắm à, đi vào đi ra đều rất bất tiện, vừa trong núi sâu lại nhiều dã thú, tại sao lại chọn định cư ở đó chứ?”
“Có khi nào, Hoa Dao năm đó là người làm công tác văn hóa, phụ trách ghi chép cho bên Xi Vưu đằng này không? Cậu phải biết rằng, thời cổ đại không có mấy ai làm công tác văn hóa, thời thượng cổ lại càng ít, ghi chép bằng cách thắt thừng là một bộ môn kỹ thuật cao siêu – lúc túi mật núi, một nhánh Dao Hoa đã được điều tới, ghi chép lại toàn bộ sự kiện, sau đó họ an cư lạc nghiệp ngay gần đó luôn?”
“Thứ hai, Dao Hoa thờ cổ thụ, cũng thờ đá núi, bản ghi chép thắt thừng ở bên dưới tầng núi thứ chín là do dây mây bện thành, dây mây cũng là một loại cổ thụ, còn cả cái nắp xanh trên đỉnh vách núi kia nữa, cũng là do vô số cành nhánh dây leo kéo thành, tôi cảm thấy tổ tông của nhánh Dao Hoa đó ít nhiều đều có tham dự vào chuyện này.”
Cũng phải, xung quanh vách núi còn đóng không ít giá đồng, công trình lớn như vậy, nhìn là biết phải có sức người mới hoàn thành được.
“Còn có thứ ba,” Thần Côn nói khô cả họng rồi nhưng cũng chẳng buồn để ý tới việc uống nước, “Thẩm Vạn Cổ nói, nghề thêu hoa của Dao Hoa đích xác là rất thần bí, còn được gọi là ‘thần tiên thêu hoa’. Rất nhiều dân tộc thiểu số có phương pháp hỏi quẻ riêng của mình để bói mùa màng, hỏi lành dữ họa phúc, hiện giờ đều là một phần di sản văn hóa của họ.”
“Chẳng hạn như thầy mo tộc Ngõa rất giỏi xem bói bằng xương gà; thầy mo tộc Miêu Quảng Tây thì ném gạo vào bát nước, quan sát vị trí hạt gạo rơi xuống, đấy gọi là ‘soi bát nước’; tộc Ha-ni là quẻ gan lợn, giết lợn lấy gan xem màu sắc – Dao Hoa thì chính là hỏi quẻ bằng thêu hoa, nói là thầy mo trong tộc họ đeo mặt nạ rước thần vào có thể giao tiếp với quỷ thần trong tưởng tượng, bên cạnh sẽ có bà cụ giỏi thêu hoa nhất trong trại, sau khi nghi thức bắt đầu, cụ bà đó sẽ mất đi ý thức, thần hồn ngẩn ngơ, nhưng tay thì chuyển động không ngừng, thêu ra rất nhiều hoa văn quái dị. Thầy mo có thể căn cứ theo hoa văn này mà tiên đoán thu hoạch, lượng mưa của năm sau, xem xem có tai họa gì lớn hay không.”
Tiểu Luyện Luyện, tôi chắc đến tám phần mười rằng mấu chốt giải bức ghi chép thừng thắt kia là ở trại Dao Hoa đó, việc này không chỉ liên quan đến chuyện tôi tìm rương mà cũng có mối liên hệ sâu xa với quỷ non, phía cô Mạnh nhất định cũng rất quan tâm – thế nên, cậu có thể mau chóng dán mắt thần, vẽ lại hoa văn cho tôi không?”
Lão lại nhấn mạnh: “Phải vẽ thật chính xác tỉ mỉ, bởi đến lúc đó, tôi sẽ tìm người có tay nghề nhất trong trại đó thêu một bức hoa văn dựa theo những gì cậu vẽ.”
Giang Luyện nhìn ra ngoài cửa sổ, khắp trời ánh sao, bóng đêm đang nồng.
Hắn thẳng người dậy: “Vậy phải vẽ rất lâu đấy, tôi về ngủ một giấc dưỡng tinh thần đã, sáng sớm mai sẽ bắt đầu.”
Thần Côn cảm kích gật đầu, đưa mắt nhìn hắn ra ngoài.
Vậy nhưng, đi được hai bước, Giang Luyện lại dừng lại, do dự một lúc rồi nói: “Chú đừng trách tôi hắt chú chậu nước lạnh.”
Tình huống gì thế? Thần Côn lập tức căng thẳng.
“Thợ xây xây mộ cho hoàng đế thời cổ đại thông thường đều bị chôn sống trong mộ; người biết được bí mật đại khái đều bị diệt khẩu.”
Thần Côn hiểu hàm ý trong lời hắn.
Nếu đây quả thật là một bí mật lớn mà Dao Hoa chỉ là người thắt thừng ghi nhớ thì không lâu sau khi thắt xong bức thừng ghi chép đó, những người tham dự mấu chốt trong đó hẳn đều đã bị xử lý, nói cách khác, dù vẫn còn đời sau, vẫn còn thôn trại, song muốn giải mã bức thắt thừng ghi nhớ kia thì cũng rất phí công.
Đây đúng là một chậu nước lạnh thật, hắt cho ướt sũng người.
Thần Côn sửng sốt mất một lúc rồi mới nói: “Vậy cũng phải…thử xem sao, không thử sao biết rằng có được hay không chứ, tận sức mình, nghe số trời thôi.”
Lúc toàn bộ câu chuyện đến tai Mạnh Thiên Tư thì đã là sáng hôm sau, mà nghe nói, từ sáu giờ sáng Giang Luyện đã bắt đầu dán mắt thần vẽ tranh với sự giúp đỡ của Huống Mỹ Doanh rồi.
Bởi vậy nên ngoài thổn thức ra, điều duy nhất cô có thể làm là giữ yên lặng cho toàn bộ tầng dưới tầng trên.
Cả Vân Mộng Phong đã trải qua một buổi sáng yên lặng khác thường như vậy đó.
Đến trưa, Huống Mỹ Doanh ra khỏi phòng, xuống tầng ăn cơm.
Mạnh Thiên Tư biết được, bảo người gọi cô tới, hỏi: “Giang Luyện không có cô theo giúp sẽ không sao chứ?”
Không phải nói là người dán mắt thần, cơ thể đặc biệt yếu ớt, phải có người ở bên cạnh coi sóc sao?
Huống Mỹ Doanh trợ giúp Giang Luyện dán mắt thần đã sớm quen tay nên cũng không còn quá khẩn trương: “Lần này anh ấy vẽ về cơ bản đều là đen trắng, không cần thay đổi màu sắc nhiều, cộng thêm xung quanh cũng yên lặng nên tôi rời đi nhất thời nửa khắc chắc cũng không ảnh hưởng gì.”
Mạnh Thiên Tư ồ một tiếng, song vẫn cảm thấy Huống Mỹ Doanh như vậy thật quá hời hợt qua loa.
Chắc cũng không ảnh hưởng, thế giới này mà hoạt động theo con đường “chắc cũng” thì đã chẳng xảy ra nhiều chuyện ngoài ý muốn thế rồi.
Có điều người ngoài không phải người nhà, người nhà đã không khẩn trương thì cô cũng không tiện chỉ tay năm ngón.
Mạnh Thiên Tư nghĩ ngợi một lúc, lại hỏi: “Tôi có thể đi xem không? Đời tôi còn chưa xem dán mắt thần bao giờ, vừa vặn đi mở mang tầm mắt.”
Huống Mỹ Doanh chịu ơn huệ của cô, không tiện từ chối: “Cũng…được, nhưng mà cô Mạnh phải giữ yên lặng đấy.”
Tân Từ ngồi bên nghe mà hiếu kỳ, nhịn không được cũng hỏi: “Tôi có thể xem với không? Tôi cam đoan sẽ không phát ra tiếng nào.”
Huống Mỹ Doanh còn chưa kịp mở miệng, Mạnh Thiên Tư đã lạnh lùng lườm hắn: “Cậu đi xem, tôi cũng đi xem, xem gấu trúc chắc? Có gì mà xem?”
Tân Tư hậm hực, không nói gì nữa, chỉ thầm nhủ: Có gì mà xem? Thế cô còn đi xem làm gì.
Bởi khổ tranh quá lớn, không thể nào thi triển được ở trên bàn, bởi vậy nên đồ đạc trong phòng trọ một lần nữa được dời đi, để trống ra một khoảng lớn.
Bên trang giấy trải rộng khắp, Giang Luyện đang quỳ trên mặt đất vẽ.
Lúc Mạnh Thiên Tư theo Huống Mỹ Doanh đi vào, đập vào mắt chính là cảnh tượng Giang Luyện đang quỳ vẽ tranh, hắn mở mắt,lại chẳng khác gì người mù, trong mắt không có lấy một tia sáng nào, song điều này cũng không ảnh hưởng đến việc hắn vẽ tranh, như mở “não” vậy, trong đầu tự có đường nét lồi lõm, tay không ngừng bận rộn di bút dừng bút.
Bức thắt thừng ghi nhớ kia đã được hắn vẽ lại non nửa, dây leo xoắn bện, ngoằn ngoèo đan xen, hình ảnh vô cùng chính xác, lại ẩn chứa tư thế nóng lòng rục rịch, hệt như ngay giây tiếp theo có thể duỗi ra khỏi mặt giấy.
Huống Mỹ Doanh rón rén đi qua, khoanh chân ngồi một bên, lúc này Mạnh Thiên Tư mới nhìn thấy quanh người cô đặt vô số những cây bút chì đã gọt tươm tất, ngòi bút vừa dài vừa mảnh.
Chỉ dùng thuần bút chì vẽ tranh, lại vẽ một bức lớn như vậy, sẽ đặc biệt nhanh mòn ngòi bút, một cây bút vẽ vẽ một hồi là mòn cùn, mà lúc đầu bút đã mòn, không thích hợp để vẽ tiếp nữa, Giang Luyện như biết được, sẽ dừng phắt lại, cho đến khi Huống Mỹ Doanh cẩn thận thay bút khác cho hắn.
Trong phòng rất yên lặng, tiếng bút vẽ sàn sạt như mưa phùn dịu dàng, dày mau mà lại khiến người ta yên lòng.
Mạnh Thiên Tư ngẩn ngơ, đứng nhìn hồi lâu.
Huống Mỹ Doanh lấy làm lạ, liếc cô mấy lần: Trong ấn tượng, cô Mạnh này rất không có tính kiên nhẫn, lần trước mình vẽ tranh mô phỏng người, cô ấy cứ như là ngồi phải cái ghế có kim vậy, hết thở dài lại đỡ trán, cuối cùng bỏ đi, sao hôm nay lại khác thường thế, rõ là bình tĩnh.
Mạnh Thiên Tư đã nhận ra ánh mắt của Huống Mỹ Doanh, hiểu là nên đi.
Cô ngoắc tay với Huống Mỹ Doanh, ra hiệu bảo cô ra ngoài.
Huống Mỹ Doanh không hiểu ra sao, đành nhẹ tay nhẹ chân theo ra ngoài, lúc xoay người đóng cửa, Mạnh Thiên Tư nhỏ giọng nói: “Cô chờ ở đây một chút, tôi bảo người mang một bộ đệm hổ tới đưa cho cô, cô xem xem lúc nào thuận tiện thì buộc lên đầu gối hộ Giang Luyện, quỳ cả ngày thế này, đứng dậy rồi sao đi lại được nữa chứ.”
Mãi đến chạng vạng, Giang Luyện mới dần khôi phục ý thức.
Vẽ quá tỉ mỉ, vô cùng hao tổn nguyên khí, cả người mệt nhoài rã rời: gân cốt cứng ngắc, tay cầm bút run run, đốt ngón tay như bị đóng chốt, không linh hoạt, ngẩng đầu lên, mỏi cổ khủng khiếp.
Hắn ngã ngồi xuống đất, hai tay chống lên đầu gối: thành tựu duy nhất chính là bức vẽ này, thực sự giống y như đúc, mỗi một chi tiết đều giống y hệt bản gốc – không phải hắn khoe khoang nhưng có bản vẽ rõ ràng như vậy, muốn thêu tái hiện lại bức thắt thừng ghi nhớ kia cũng không phải quá khó.
Cảm giác có gì đó không đúng lắm, hắn cúi đầu xuống.
Trên hai đầu gối buộc miếng đệm xốp, Giang Luyện cởi một bên xuống xem: Nói thật thì trông có hơi giống miếng lót giày, nhưng dày hơn nhiều, buộc lên đầu gối…
Để làm gì ai cũng đoán được, Giang Luyện kinh ngạc nhìn Huống Mỹ Doanh bên cạnh: Người ta thường nói tâm tư con gái tinh tế cẩn thận, nhưng hắn vẫn luôn cảm thấy tâm tư Huống Mỹ Doanh thì như mắt lưới vậy, có gì cũng lọt rớt hết cả, tuyệt đối không chú ý đến những chi tiết nhỏ bé không đáng kể thế này.
Hôm nay đổi tính à, vậy mà lại có thể làm được chuyện ấm lòng như thế, Giang Luyện đang định mở miệng khen cô hai câu, Huống Mỹ Doanh đã nhìn thấy hắn cầm hai miếng đệm hổ kia: “Cô Mạnh tới xem anh dán mắt thần, đệm là cô ấy bảo người ta mang tới, nói anh quỳ cả ngày vậy sẽ không đi lại được.”
Giang Luyện ồ một tiếng: “Cô Mạnh đưa tới?”
“Vâng.”
Giang Luyện không nói gì thêm nữa, chỉ nhìn Huống Mỹ Doanh dọn dẹp đống bút chì trọc lốc tán loạn dưới đất, một lúc sau lại hỏi: “Em nói là cô Mạnh bảo người mang đệm tới ấy hả?”
Huống Mỹ Doanh ngạc nhiên: “Em nói mấy lần rồi còn gì? Anh dán mắt thần xong bị mất trí nhớ đấy hả? Vừa nghe xong bên này, sang bên kia đã quên mất?”
Giang Luyện chỉ chỉ đầu mình: “Em phải thông cảm chút chứ, việc này thực sự rất hao tổn tinh thần, phản ứng có hơi…chậm chạp.”
Huống Mỹ Doanh không nghi ngờ gì, chỉ bĩu môi tiếp tục làm việc của mình. Giang Luyện nhắm mắt lại, giơ tay lên day day huyệt thái dương, khóe miệng bất giác nhếch lên.
Ai mất trí nhớ chứ?
Hắn cũng chỉ là muốn nghe cô xác nhận nhiều thêm hai lần thôi.
Nét cười còn chưa thu lại, ngoài cửa đã vọng vào tiếng Thần Côn: “Tiểu Luyện Luyện… Tôi nghe thấy tiếng Tiểu Luyện Luyện, có phải đã…vẽ xong rồi không?”
Giang Luyện không ngờ Thần Côn vội vàng đến vậy: Vừa cuộn bức vẽ lại xong, dưới nhà đã có xe chờ, nghe nói để tiện giao tiếp với người Dao Hoa, vợ Thẩm Vạn Cổ cũng bị điều qua chi viện.
Hắn tiễn Thần Côn ra cửa, tìm cơ hội cố ý nhỏ giọng nói: “Buổi tối tôi và cô Mạnh đi xem thận cảnh, không đi xem cùng à?”
Thần Côn thoáng sửng sốt, trong lòng giằng co trong chớp mắt, nhưng rất nhanh sau đó đã có kết quả ưu tiên, ngược lại còn cáu hắn: “Thận châu thôi mà, tôi là cánh sen, xem lúc nào mà chẳng được? Tiểu Luyện Luyện, chúng ta mỗi người đi một bên, bên nào tìm rương bên ấy là được.”
Nói đoạn, rảo bước chạy đi.
Mỗi người đi một bên, bên nào tìm rương bên ấy, nói cứ như mỗi người một ngả vậy, Giang Luyện dở khóc dở cười.
Huống Mỹ Doanh ở đằng sau kéo kéo vạt áo hắn, đưa điện thoại qua.
Mở ra, là một đoạn video, ghi cảnh Huống Đồng Thắng nằm trên giường bệnh.
Chỉ nhìn khí sắc gương mặt đó thôi, trong lòng Giang Luyện đã bất giác chùng xuống rồi: Hắn trực giác lời y tá nói có lý, Huống Đồng Thắng lúc này không phải là báo hiệu giả nữa mà là đại nạn thật sự tới rồi.
Nhưng trong video, Huống Đồng Thắng lại đang cười, có vẻ như ông đã nghe được từ Huống Mỹ Doanh rằng “sắp có tiến triển lớn”, khuôn mặt già nua nhăn nhúm nở ra một nụ cười, kích động đến run cả giọng.
Ông ngập ngừng, nói: “Tốt lắm, tốt lắm.”
Lại nhấn mạnh: “Chuyện của Doanh Tử quan trọng hơn cụ, mấy đứa làm việc đi, làm việc trước đi.”
Sau cùng, Huống Đồng Thắng giương mắt nhìn thẳng vào ống kính, ánh sáng đục ngầu rời rạc trong đôi mắt giờ phút này lại như tập trung lại một cách lạ thường: “Luyện Tử, nếu có thể thấy được…vẽ cho cụ một bức bà ấy đi, cụ sắp không nhớ rõ được…bà ấy trông ra sao rồi.”
Dẫu biết rằng đây là video chứ không phải trò chuyện trực tiếp, Giang Luyện vẫn cúi đầu đáp dạ.
Để kịp cho hành trình kế tiếp, Giang Luyện chỉ rửa mặt cho tỉnh táo rồi đi ngay vào nhà ăn, lúc cơm nước được dọn lên, bên ngoài bắt đầu đổ mưa.
Khắp trời ngập tiếng xào xạc, lại khiến hắn thở phào một hơi dài: Mưa thì tốt, có mưa, thận châu mới phát huy được.
Vừa cầm đũa lên ăn được vài miếng, bên ngoài đã vọng vào tiếng Mạnh Kình Tùng nói chuyện với người khác: “Vẫn đang ăn à? Cô Mạnh chờ được một lúc rồi.”
Đây hẳn là đang nói hắn, Giang Luyện vội vớ lấy cái bánh bao đớp một miếng lớn, nuốt chửng vào rồi đứng lên, vừa xoay người vừa nói: “Ăn xong rồi…”
Nói được một nửa lại nuốt về: Đúng là Mạnh Kình Tùng đang đứng ngoài cửa nhà hàng, song Mạnh Thiên Tư lắc mình một cái cũng đã tiến vào.
Cô nghe được câu trả lời của hắn: “Ăn xong rồi hả? Ăn xong rồi thì…”
Đang nói chuyện, ánh mắt đảo qua mặt bàn.
Đồ ăn rất đơn giản, một bát cháo, một đĩa thịt xào nhỏ, một đĩa món bà ngoại (), cộng thêm hai cái bánh bao.
() Một món ăn của vùng Tương Tây, là su hào, củ cải trắng, đậu đũa, cà tím phơi khô theo cách tẩm ướp riêng truyền thống của Tương Tây rồi xào với tiêu, ớt, dầu thực vật.
Nhưng cháo mới vơi được mấy thìa, hai đĩa thức ăn đều không có dấu hiệu gì là ăn được nhiều, bánh bao cũng chỉ thiếu một miếng, vết cắn hẳn là vừa mới cắn rất gấp, vẫn đang từ từ phồng trở lại.
Cô thu mắt: “Ăn xong rồi?”
Giang Luyện cũng để ý tới ánh mắt cô, nghĩ đến tính tình cô: Nếu anh đáp “Ăn xong rồi”, cô chắc chắn sẽ không săn sóc mà khuyên anh ăn thêm mấy miếng nữa, chỉ lườm một cái rồi giục anh, “Vậy đi thôi”, ai đói người đấy biết, ai đói người đấy chịu.
Giang Luyện nhỏ giọng: “Nếu cô không vội thì tôi còn có thể ăn thêm vài miếng nữa.”
Coi như thức thời, Mạnh Thiên Tư ngước cằm lên, đầu ngón tay gõ gõ lên mặt bàn: “Mười phút.”
Giang Luyện lập tức ngồi xuống.