Ý của Hạ Thiệu Cảnh đại khái là: “Cô nương à, nàng đã thành công có được sự chú ý của ta rồi, nhưng mà thân phận của nàng quá thấp, không đủ để làm chính thê của thế tử ta. Dù vậy một vị trí thiếp vẫn có thể cho nàng, tuy thế chỉ cần nàng đủ nỗ lực, đủ xuất sắc vẫn có cơ hội để leo lên vị trí chính thê của thế tử ta, cũng giống như mẹ kế của nàng vậy, dựa vào vị trí thiếp được phụ thân nàng nâng lên làm vợ cả. Làm phu nhân chính thất ngay từ đầu thì có gì hay, từ thiếp leo lên vị trí chính thất mới càng thú vị không phải sao, đời này phải gập ghềnh lên xuống mới không uổng công sống trên đời chứ.”
“Nàng đang nghĩ gì vậy.” Hạ Thiệu Cảnh nhìn Cố Thanh Trúc chằm chằm, dường như muốn thăm dò suy nghĩ của nàng.
Cố Thanh Trúc mím môi hắng giọng một tiếng: “Ta đang nghĩ, lời ngươi nói rất có lý. Nhưng mà ta dù gì cũng là tiểu thư Trung Bình Bá phủ, ngươi tùy tiện nói với ta những lời này không cảm thấy có phần không thích hợp sao?”
Hạ Thiệu Cảnh cười: “Là do ta có phần hấp tấp mạo muội rồi. Chẳng qua lần này nàng đã giúp ta mới khiến ta hạ quyết tâm. Nguyên nhân chính là vì nàng là tiểu thư của Trung Bình Bá phủ, biết được xuất thân của nàng mới có thể khiến ta bình đẳng nói chuyện với nàng. Đổi lại nếu là nữ nhi bình dân, ta ngược lại thấy không yên tâm.”
“À, ý của ngươi là, nếu ta là nữ nhi con nhà bình dân thì ngay đến cả cơ hội làm thiếp ngươi cũng không cho ta, phải không?” Cố Thanh Trúc từ trước đã biết Hạ Thiệu Cảnh chẳng phải hạng người nhân phẩm đoan chính gì, giờ đã bắt đầu cảm thấy hắn vốn không có nhân phẩm.
“Chuyện này có gì lạ sao? Những gia đình dòng dõi như chúng ta dù có nạp thiếp cũng phải xem gia thế. Có lẽ nàng sẽ cảm thấy có phần tủi thân, với thân phận của nàng đúng là có thể gả cho một người bình thường làm chính thê, nhưng nàng thực sự cam lòng sao? Nữ nhi của mẹ kế nàng gả cho nhị đệ của ta, nhưng nhị đệ của ta tương lai liệu có thể có thành tựu gì chứ? Sau khi ta thừa kế tước vị, bọn họ cũng sẽ phải dọn ra khỏi Hầu phủ, đến lúc đó ở lại Hầu phủ sẽ chỉ còn lại nàng thôi.”
Nếu Cố Thanh Trúc thực sự là một tiểu cô nương, nghe Hạ Thiệu Cảnh nói như vậy, nàng đích thực có khả năng dao động. Vì sao chứ? Vì Hạ Thiệu Cảnh đánh vào lòng người. Hắn dùng Cố Ngọc Dao để gợi len sự ghen ghét của nàng, nếu nàng thực sự căm ghét Cố Ngọc Dao lập tức sẽ trúng bẫy. Người này rất thông minh, để đạt được mục đích mà không từ thủ đoạn, biết dùng thứ mà đối phương để tâm nhất làm điều kiện. Chính vì nguyên nhân này mà kiếp trước Kỳ Huyên chịu không ít khổ sở dưới tay hắn.
“Khó trách vì sao người ta vẫn nói Hạ thế tử thực khôn khéo, hôm nay được chứng kiến quả đúng là như vậy. Tạm thời chưa nói đến chuyện hôm nay ngươi bất kể lễ giáo tìm ta nói những chuyện này là không nên, chỉ đơn giản nói về điều kiện chọn lựa thê tử của ngươi cũng đã đủ khiến ta mở rộng tầm mắt. Có thể dòng dõi Sùng Kính Hẩu phủ nhà ngươi cao quý thật, thế tử ngươi sau này thừa kế tước vị, tiền đồ như gấm cũng là thật, thế nhưng những chuyện này đối với ta mà nói có liên quan gì đâu.” Nụ cười trên mặt Cố Thanh Trúc nhạt dần: “Lần trước sở dĩ ta nói với ngươi những chuyện đó cũng là vì nghĩ muội muội của ta đã đính hôn cùng nhị công tử nhà ngươi, thế nên ta không muốn Sùng Kính Hẩu phủ bị người ta tính kế hãm hại mà thôi. Khiến ngươi hiểu lầm như vậy, ta quả thực có lỗi. Những lời ngươi đã nói hôm nay, ta có thể coi như chưa từng nghe, chúng ta từ biệt tay đây.”
Giọng nói Cố Thanh Trúc rất nhẹ nhàng nhưng lại đầy tính châm chọc, Hạ Thiệu Cảnh nhíu mày: “Người ta nói? Nàng nghe ai nói? Võ An Hầu thế tử sao?”
“Đừng quan tâm ta nghe ai nói, tóm lại là làm Hạ thế tử thất vọng rồi. Ngươi tìm tiểu thư phủ đệ khác về làm thiếu cho mình đi. Hai chúng ta dù là đời này hay là kiếp sau đều vĩnh viễn không thể.”
Cố Thanh Trúc nói xong những lời này liền đứng lên. Dù gấp gáp muốn rời đi vẫn dung dung sửa sang ống tay áo, nở nụ cười nhạt nhạt với Hạ Thiệu Cảnh, hừ lạnh một tiếng. Khi nàng đi tới cửa, Hạ Thiệu Cảnh lại lên tiếng:
“Nếu là Võ An Hầu thế tử nói với nàng những lời này, ta đây cảm thấy quyết định của nàng hôm nay chắc chắn sai lầm rồi. Nàng tự đánh giá bản thân mình có giá trị bao nhiêu, ở chỗ ta nàng còn có chút cơ hội, còn ở chỗ hắn, nàng một chút cơ hội cũng không có. Kỳ gia tuyệt đối không thể chấp nhận cho một nữ nhi như nàng vào cửa.”
Cố Thanh Trúc không thèm quay đầu đi thẳng ra khỏi nhã gian. Hạ Thiệu Cảnh ngồi bên cửa sổ uống trà, từ trên cao nhìn thấy bóng dáng quyết đoán rời đi của Cố Thanh Trúc, bưng tách trà thơm, yên lặng nhấp một ngụm.
Cố Thanh Trúc cảm thấy hôm nay vận khí của mình không được tốt. Không dưng lại bị Hạ Thiệu Cảnh làm cho ghê tởm.
Kỳ thực tình huống như thế này kiếp trước nàng cũng đã gặp phải vài lần, đều là những kẻ cho rằng nàng là một đích nữ mất đi mẫu thân, thanh danh lại không tốt lành gì, kiếp này sợ rằng gả không được, may là còn có chút tư sắc, thế nên chỉ cần có nam tử nguyện ý mở miệng nói muốn cười, bất kể là thê hay là thiếp, nàng đều sẽ mang ơn đội nghĩa, vội vàng cho không.
Thế gian chính là như vậy, nữ nhi có chút tư sắc đều sẽ khiến nam tử mơ ước, nhưng trong lúc còn ước mơ sẽ đồng thời suy xét đến xuất thân, gia thế, thanh danh, trong đó hung dữ cũng bị coi là tiếng xấu. Hơn nữa kiếp này Cố Thanh Trúc lại mang tiếng nhiều lần xuất đầu lộ diện mở y quán, trong mắt phần đa mọi người, nàng đã nằm ngoài vòng tròn phạm vi những đối tượng có thể thành hôn.
Nếu là kiếp trước nàng sẽ thấy uất ức, cảm thấy những người đó đều là dạng mắt chó khinh người, họ càng coi thường nàng, nàng càng phải chứng tỏ bản thân mình, thế nên nàng chọn người có gia thế tốt nhất chính là Kỳ Huyên. Chẳng phải những người đó cho rằng nàng không thể gả vào nơi nhà cao cửa rộng sao? Vậy thì nàng cố ý muốn thử một lần xem sao.
Giờ nhớ lại, khi cùng Kỳ Huyên thành thân, điều khiến nàng vui vẻ nhất chính là có thể thấy những người từng khinh thường nàng phải mở rộng tầm mắt.
Thế nhưng chuyện của Hạ Thiệu Cảnh lúc này thực ra đã nhắc nhở Cố Thanh Trúc. Tuổi nàng càng lúc càng lớn, những kẻ có ý đồ với nàng sẽ càng lúc càng nhiều. Nàng có của hồi môn của Thẩm thị bên người, hơn nửa doanh thu của các cửa hiệu lại nhiều, cả đời cơm áo vô lo không thành vấn đề, nàng đương nhiên có thể lựa chọn không gả chồng. Thế nhưng Tần thị và Cố Tri Viễn sẽ không bỏ qua cho nàng, chưa kể đến lúc đó Tần thị cùng Cố Tri Viễn lại tùy tiện tìm ai đó, cưỡng ép nàng phải gả, chi bằng nàng sớm biến khỏi tầm mắt họ, tìm một người tâm đầu ý hợp, đối với mình tốt.
Không cần nhà cao cửa rộng, chỉ cần có thể phân rõ phải trái thị phi, có bản lĩnh.
Trở về Nhân Ân Đường, Hồng Cừ lập tức chạy ra đón nàng, hưng phấn hỏi: “Công tử, nói chuyện thế nào?”
Cố Thanh Trúc nhìn nàng ta: “Nói thế nào cái gì cơ?”
Hồng Cừ kéo Cố Thanh Trúc sang một bên, thì thầm bên tai nàng: “Vị thế tử kia nói gì với người? Ta thấy người đó đối với tiểu thư có vẻ rất đặc biệt.”
Cố Thanh Trúc nghe xong thật dở khóc dở cười. Hồng Cừ là tỳ nữ bên nàng, trước sau đều lo lắng cho chuyện chung thân đại sự của nàng, hiếm khi có vị thế tử đến cửa, nàng ta chắc chắn hy vọng tiểu thư nhà mình có thể nắm lấy cơ hội này.
Nếu giờ không giải thích rõ với nàng ta, sợ rằng về sau nha đầu này còn lải nhải bên tay nàng mãi.
“Hắn muốn ta về làm thiếp cho hắn, ngươi cảm thấy ta có nên đồng ý không?” Cố Thanh Trúc nói khẽ vào tai nàng ta. Hồng Cừ vốn còn đang vui vẻ, trong nháy mắt nét mặt cứng đờ. Đôi mắt lanh lợi nhìn Cố Thanh Trúc, há miệng định nói gì đó nhưng lại bị Cố Thanh Trúc bịt miệng. Nàng nói: “Ngươi chỉ cần nói có nên hay không?”
Hồng Cừ lắc đầu như trống bỏi. Dù cho nàng ta rất muốn tiểu thư nhà mình gả cho một vị thế tử, dù sao tam tiểu thư cũng tìm được Nhị công tử của Sùng Kính Hẩu phủ, thái độ của nàng ta thật quá mức kiêu ngạo. Nếu tiểu thư có thể gả cho thế tử nhà ai, tam tiểu thư sẽ không thể làm vành làm vẻ trước mặt tiểu thư được nữa. Nhưng nếu vị thế tử kia lại chỉ muốn tiểu thư về làm thiếp thì hết thảy cũng không có tác dụng gì. Tiểu thư nhà nàng ta còn lâu mới chịu làm thiếp.
Cố Thanh Trúc hài lòng xoa đầu Hồng Cừ, cảm thấy nha đầu này tuy rằng thường ngày bướng bỉnh, nhát gan nhưng đối với chuyện đúng sai phải trái lại phân biệt rất rõ ràng.
Vân Sinh bưng một tách trà tới cho Cố Thanh Trúc, nhìn nàng vài lần rồi cầm khay đứng yên tại chỗ. Cố Thanh Trúc uống một ngụm trà, thấy hắn vẫn còn đứng đó, liền hỏi:
“Sao vậy? Có việc gì sao?”
Vân Sinh lập tức lắc đầu, cúi đầu rời đi.
Cố Thanh Trúc nhìn Hồng Cừ, Hồng Cừ cũng lắc đầu: “Đừng để ý hắn, kỳ quặc.”
Mấy ngày này Nhân Ân Đường rất an nhàn. Sáng hôm nay Trần thị bảo Cố Thanh Trúc cùng bà tới chùa Bạch Mã ngoài thành dâng hương, Cố Thanh Trúc liền đồng ý.
Trần thị tín Phật, mùng một ngày rằm đều ăn chay, thi thoảng cũng tới chùa Bạch Mã dân hương. Theo lời bà, trong thành ngoài thành đều có rất nhiều chùa miếu nhưng cũng chỉ có chùa Bạch Mã linh nghiệm nhất. Vì khi Cố Tri Viễn còn nhỏ từng lâm bệnh nặng một hồi, suốt mấy ngày trời không khỏi. Khi đó Trần thị cúng bái bao nhiêu Bồ Tát trong chùa, Cố Tri Viễn cũng không chuyển biến tốt hơn, cho tới khi bà tới chùa Bạch Mã, ngay lúc bà ôm Cố Tri Viễn ra khỏi xe ngựa dưới chân núi, ông ta liền có chút tinh thần. Đến khi cả đoàn người lên núi, Trần thị quỳ vái một lúc, cùng ngày Cố Tri Viễn ở trong chùa Bạch Mã ăn hết một bát cháo lớn, sau khi về phủ, bệnh tình liền chuyển biến tốt hơn. Thế nên kể từ đó Trần thị nếu muốn bái Phật đều đến chùa Bạch Mã.
Đi từ dưới chân núi lên núi có kiệu nhỏ, Trần thị lại kiên trì nhất định muốn đi bộ, nói đi kiệu lên núi là không thành tâm. Cố Thanh Trúc không thể thuyết phục được bà, liền dìu bà cùng đi. Đi từ sáng tới trưa, đi một lúc lại dừng lại nghỉ ngơi, cuối cùng cũng lên đến núi. Trần thị do mệt mỏi quá sức, được hai sư thúc đại hòa thượng tới nghênh đón, sau khi bàn luận về Phật pháp, hai tiểu hòa thượng liền dẫn đường cho họ tới thiện phòng sau núi nghỉ tạm. Sau khi nghỉ ngơi, buổi chiều còn có Phật khóa của phương trượng, Trần thị rất hào hứng:
“Phương trượng đại sư ít khi chủ trì giảng Phật khóa, hôm nay có thể tham dự, đúng là chỉ có thể do duyên mà không thể cầu. Tối nay còn ở lại trên núi cùng ta được không?”
Cố Thanh Trúc nhìn bốn phía thiện phòng, lắc đầu đáp: “Con chỉ có thể ở cùng tổ mẫu đến lúc chiều ta, sau đó vẫn phải trở về, sáng mai còn tới Nhân Ân Đường.”
Trần thị hiểu tính cách nàng, lúc trước nghe đứa nhỏ này nói muốn học y, bà vốn tưởng rằng nàng chỉ nói giỡn chứ không có quyết tâm thực hiện. Không ngờ nàng lại có thể kiên trì tới tận bây giờ. Tuy rằng thanh danh bên ngoài không dễ nghe nhưng Trần thị lại cảm thấy, cháu mình có tấm lòng muốn giúp người cũng không phải chuyện xấu gì. Con người phải đường hoàng, làm nhiều chuyện tốt mới có thể tích phúc.
Cố Thanh Trúc không tín Phật nhưng cũng biết kính sợ. Nàng cùng Trần thị cùng những người đến dự ngồi trong thiện phòng, nghe phương trượng giảng kinh văn, giảng Phật pháp, bàn về nhân quả tuần hoàn. Đến khi chạng vạng mặt trời sắp xuống núi, nàng mới báo Trần thị mình muốn về phủ. Trần thị nhìn sắc trời bên ngoài, đúng là không còn sớm, nàng đi đường núi cũng nguy hiểm, liền đồng ý cho nàng về sớm một chút.
Thực ra Cố Thanh Trúc cũng không vội, thong thả xuống núi. Hồng Cừ lại thúc giục nàng đi nhanh một chút, mặt trời lúc hoàng hôn, rất nhanh sẽ khuất núi, phải đi nhanh một chút mới được, đường về kinh thành còn một đoạn dài.
Những người lên núi nghe giảng kinh có một số cũng ra về, có người ở lại trên núi, dưới chân núi cũng không nhiều xe ngựa, chỉ có vài ba chiếc dừng bên cạnh, xung quanh đều không có người. Xe ngựa Cố gia dừng ở trước rừng, Cố Thanh Trúc đi về phía đó, đang định lên xem chợt thấy trong tầm mắt có thứ gì lướt qua. Nàng nhìn chăm chú về phía rừng. Mặt trời ngả về tây, nắng cũng sắp tắt, chỉ còn chút nắng tàn chiếu vào rừng cũng không soi rõ thứ bên trong.
Hồng Cừ thấy Cố Thanh Trúc vẫn không nhúc nhích liền nhìn về phía trước, hỏi: “Tiểu thư, người sao vậy?”
Cố Thanh Trúc chỉ vào chỗ mờ nhạt phía trước, hỏi: “Kia là gì?”
Hồng Cừ nhìn lại, nào đâu biết đó là gì. Cố Thanh Trúc hơi tò mò, từ trên ghế dẫn lên xe ngựa nhảy xuống, đi tới nơi nàng vừa nhìn thấy lấp lóa xem thử. Hồng Cừ đi theo nàng: “Tiểu thư, người đi đâu vậy? Trời sắp tối rồi, không chậm trễ được đâu. Đường về kinh còn xa lắm, vả lại người đừng đi vào rừng, trong đó chắc chắn có rắn rết côn trùng, cẩn thận bị chúng cắn.”
Tuy rằng Hồng Cừ lo lắng cho Cố Thanh Trúc nhưng thực ra nàng ta lại sợ hãi. Trái lại Cố Thanh Trúc lại rất bình tĩnh: “Ta đi xem một chút thôi, không mất nhiều thời gian đâu.”
Cuối cùng nàng nương theo ánh sáng, gạt chỗ cỏ cao bằng nửa thân người, thấy một người đang tựa vào một khối đá. Nhìn vóc dáng xem ra rất cao lớn, tráng kiện, trên người đầy vết thương do bị chém, như thể đang ngã vào vũng máu. Mà thứ khiến người ta ghê sợ nhất chính là chân trái của hắn, từ đầu gối trở lên bị bẻ gãy, xương cốt đâm vào da dịt, lộ ra ngoài, kinh dị không nói nên lời.