Ba người tìm được Phùng Bất Cơ trong đống đá rơi dưới vực. Huynh ta khá là may mắn, vị trí ngất đi vừa hay nằm sát chân vách đá, tảng đá đè lên trên to dưới nhỏ, huynh ta nằm ngay trúng chỗ hổng giữa tảng đá rơi và vách đá nên may mắn thoát nạn.
Lúc vần tảng đá rơi đè lên ra, ba người gần như đã tuyệt vọng, bởi vì mặt mũi Phùng Bất Cơ lấm lem đất cát trộn với máu đen, trông rất ghê người. Phải tới khi thử thấy huynh ấy vẫn còn thở, sờ tay thấy mạch đập vẫn khỏe thì mới yên tâm phần nào. Sau khi Ký Linh cẩn thận đổ chỗ nước còn dư lại ra lau sạch mặt mũi cho huynh ta, ba người mới biết chỗ máu đen ấy là từ đâu mà ra: ở phần thái dương có một vết rách rất sâu.
Trừ chỗ đó ra, Phùng Bất Cơ không còn ngoại thương nào khác, tóc huynh ấy thực sự rất ngắn nên có thể kiểm tra không sót một chỗ nào trên đầu, xung quanh đều lành lặn không bị làm sao.
Sau khi bôi thuốc và băng bó một cách đơn giản, ba người khiêng huynh ta ra chỗ giữa trận pháp vì đấy là chỗ sạch sẽ nhất và có tầm nhìn thoáng nhất. Mọi người ngồi chờ đồng đội tỉnh lại.
Thời gian chầm chậm trôi đi. Phùng Bất Cơ không có dấu hiệu tỉnh. Trên đỉnh đầu cũng không thấy Nam Ngọc có động tĩnh gì. Ký Linh sắp xếp lại các lọ thuốc trong gói đồ, tình cờ liếc thấy bàn tay quấn khăn qua quýt của Đàm Vân Sơn, lòng nhói đau, nàng buột miệng gọi: “Đưa tay đây.”
Đàm Vân Sơn không biết đang mải nghĩ gì, bị gọi giật mình chìa bàn tay lành ra.
Ký Linh lườm chàng: “Tay khác.”
Đàm Vân Sơn chớp chớp mắt, cuối cùng cũng hoàn hồn và hiểu ra ý của Ký Linh, chàng vội xua tay: “Không cần, còn chưa biết lát nữa phải đánh ác liệt cỡ nào, để đó phòng dư đi.”
“Để” ư? Hễ nghĩ tới chuyện rất có khả năng Đàm Vân Sơn còn rạch chỗ đó thêm một nhát là Ký Linh lại thấy khó chịu.
Nàng rướn người qua, chẳng nói chẳng rằng kéo tay đối phương, cởi chiếc khăn tay ra xem bàn tay máu me.
Thực ra Đàm Vân Sơn có thể rụt tay về, từ sau khi nốt ruồi tiên thứ hai biến mất, chàng có thể cảm nhận được sức mạnh của mình một cách rõ ràng, tốc độ, thậm chí là độ nhạy cũng thay đổi, không dám nói đánh lại được Dị Bì nhưng đọ với một cô nương thì vẫn phản kháng được.
Nhưng chàng không muốn phản kháng.
Cách quan tâm đầy cởi mở thẳng thắn, không e ngại hay giấu diếm của Ký Linh làm cho người ta không muốn nghĩ thêm bất kỳ điều gì, chỉ muốn được lẳng lặng nhìn, bình thản đón nhận.
Giống như Phùng Bất Cơ, bàn tay đầy máu của Đàm Vân Sơn là do một vết thương duy nhất, lau sạch sẽ chung quanh thì trông không còn đáng sợ nữa. Ký Linh rắc thứ bột man mát lên vết thương của chàng rồi quấn khăn băng lại cẩn thận, ngước lên nghiêm túc nhìn chàng: “Phải nhớ, dao dính máu là đã đủ dùng rồi, nếu sau này đánh không lại Dị Bì thì đấy là do huynh không giỏi võ nghệ, không liên quan gì đến chuyện nhiều hay ít máu.”
Đàm Vân Sơn dở khóc dở cười: “Một câu nói ấm lòng như vậy không thể dùng giọng dịu dàng hơn một chút, câu từ uyển chuyển hơn một chút được sao?”
Ký Linh lập tức tiếp thu, mềm giọng, nói nhấn từng chữ cực kỳ nhẹ nhàng: “Đàm công tử, dao có máu là đủ, giả như hồi sau lực bất tòng tâm, ấy không phải là do máu, là học nghệ không tinh đấy thôi, xin nhớ kỹ, chớ quên.”
Đáng tiếc, ánh mắt đầy “sát khí” đã bán đứng nàng.
Đàm Vân Sơn vội vàng gật đầu như giã tỏi: “Đã nhớ… Không, là ghi lòng tạc dạ.”
Ký Linh mặt mày rạng rỡ, vừa là vừa ý, vừa là vững dạ.
Lúc không hiểu được tình cảm của mình, nàng luôn thấy kỳ lạ, bỗng dưng thấy buồn rồi lại bỗng dưng thấy vui mà chẳng rõ tại sao. Còn giờ, tất thảy đều đã có nguyên nhân có thể giải thích được, không còn làm nàng thấy lúng túng không biết phải làm sao nữa.
Duy chỉ một điều, mắt chọn người của bản thân…
Nhìn Đàm Vân Sơn đã rảnh rỗi sinh nông nổi tới mức chọc ngón tay vào quai hàm của Phùng Bất Cơ, tâm trạng Ký Linh muôn phần phức tạp.
“Phùng huynh, trời sáng rồi…” Không chỉ chọc, Đàm nhị thiếu gia còn kết hợp cả gọi.
Bạch Lưu Song ở bên thấy mới lạ cũng học theo: “Phùng tiểu đệ, trời sáng rồi…”
Đàm Vân Sơn cau mày thắc mắc: “Đệ?”
Bạch Lưu Song đáp rất đương nhiên: “Hắn mới có một trăm hai mươi tuổi, tôi đã tu luyện tận mấy trăm năm!”
Đàm Vân Sơn không cãi nổi.
Ký Linh không nhịn được bật cười thành tiếng. Đàm Vân Sơn quay lại nhìn, vốn định châm chọc nàng nhưng bỗng một ý nghĩ chợt lóe lên trong đầu, lời tới bên miệng lại đổi thành: “Cô nương phát hiện ra sơ hở từ lúc nào?”
“Gì?” Ký Linh còn đang nghĩ chuyện “bối phận” của Bạch Lưu Song, nhất thời không kịp hiểu.
Đàm Vân Sơn thu đầu ngón tay “bắt nạt” Phùng Bất Cơ về, không đùa nữa, nghiêm túc hỏi: “Lúc đánh với Dị Bì, tôi vừa chém một dao thì cô nương đã rút ngay dao găm ra khỏi vỏ rồi, cô nương làm thế nào phát hiện ra sơ hở?”
Cuối cùng Ký Linh cũng hiểu ra Đàm Vân Sơn đang nói chuyện gì. Tuy rất muốn châm chọc “sao huynh không đợi bắt đủ hết năm yêu thú rồi hẵng hỏi” nhưng ít ra dù muộn nhưng đối phương vẫn còn nhớ hỏi.
“Tôi không phát hiện được sơ hở của nó,” Ký Linh nhìn chàng, thành thật đáp, “nhưng tôi biết huynh là Đàm Vân Sơn.”
Dù Đàm nhị thiếu gia là người phát hiện ra trước nhất cũng phải ngạc nhiên trước đáp án bất ngờ này: “Làm sao mà biết?”
Ký Linh thở dài, không biết người này thông minh hay ngốc nghếch nữa: “Lúc huynh phát hiện bức tường đất rồi gọi chúng tôi lại phá tường, huynh còn nhớ ai là người đầu tiên động thủ không?”
Đàm Vân Sơn hồi tưởng lại một lúc lâu mới sực hiểu ra: “Là tôi. Dao đầu tiên và thứ hai đều là tôi. Dao đầu tiên phát hiện tường đất rồi gọi mọi người, dao thứ hai là sau khi mọi người chạy tới, tôi rút dao ra chém lại phát nữa rồi chúng ta mới bắt đầu cùng nhau đào…”
Dị Bì dẫu lợi hại cũng không thể phá được bức tường có chôn lá bùa cho nên dao đầu tiên chém vào tường chắc chắn là do Đàm Vân Sơn làm. Dị Bì muốn đánh tráo thì chỉ có thể nhân lúc sau khi chàng gọi người và trước khi nhóm Ký Linh tới, song, nếu vậy thì Dị Bì cũng phải đợi nhóm Ký Linh tới đào được lá bùa trong tường ra, phép bùa bị phá rồi mới có thể tham gia đào. Thế nhưng, thực tế là, nhóm Ký Linh vừa tới, chàng liền chém ngay dao thứ hai. Còn sau khi xô đổ bức tường đất thì Đàm Vân Sơn không còn lúc nào đi một mình nữa.
Lần này đến phiên Ký Linh ngạc nhiên: “Đầu óc huynh là sách trời hay sao, đến chuyện thế này cũng nhớ à?!”
Đàm Vân Sơn cười: “Không phải cô nương cũng nhớ đấy thôi.”
Ký Linh á khẩu.
Nàng nhớ được là vì hầu như lúc nào nàng cũng nhìn chàng, còn chàng thì sao? Chẳng lẽ lúc nào chàng cũng tự nhìn bản thân hay sao?
Đàm Vân Sơn không nghĩ nhiều như Ký Linh, chàng chỉ tò mò: “Cô nương đã sớm biết tôi là thật, vì sao lúc Dị Bì ly gián nói tôi và Bạch Lưu Song đều từng đi một mình, cô nương không làm rõ ngay?”
Ký Linh đáp không chút do dự: “Tôi cho là tính huynh giảo hoạt như vậy, chắc chắn có thể tự nghĩ ra cách.”
“…” Lần đầu tiên Đàm Vân Sơn được khen đến mức không còn biết phải nói gì nữa, đành phải lảng sang chuyện khác, “Cho dù tôi không phải Dị Bì cũng không chứng tỏ được phán đoán của tôi nhất định đúng, lỡ như tôi chém sai người thì sao?”
Đàm Vân Sơn hỏi rất thật lòng, hỏi xong thì nhìn nàng chăm chăm để chờ câu trả lời.
Bị chàng nhìn như vậy, Ký Linh vừa chột dạ lại vừa hơi bốc đồng, cuối cùng bốc đồng lấn át chột dạ, nàng mấp máy môi: “Không…”
“Sói trắng, đủ rồi đấy! Tưởng tôi chết rồi đấy à…” Tiếng quát to đột ngột át tiếng của Ký Linh và cũng hút sự chú ý của Đàm Vân Sơn.
Phùng Bất Cơ tỉnh lại, ngồi thẳng người, trừng mắt sầm sì với Bạch Lưu Song, cho dù trán còn băng vải nhưng khí thế không sụt giảm chút nào.
“Ngươi phải cảm ơn ta, không nhờ ta chọc mặt thì sao ngươi có thể tỉnh nhanh như vậy!” Bạch Lưu Song bị quát kêu oan oai oái.
Đàm Vân Sơn thở phào một hơi: “Phùng huynh rốt cuộc đã tỉnh rồi…”
Ký Linh cúi đầu, vùi câu “không có lỡ như, tôi tin huynh” vào sâu tận đáy lòng rồi ngẩng đầu lên ngay, nhanh chân đi qua đó.
Đồng đội tỉnh lại, tinh thần vẫn tốt như cũ quả là một chuyện cực kỳ đáng mừng, không cần phải cố, những suy nghĩ ngổn ngang cứ thế bị gạt sang một bên. Ký Linh lại ngồi trước mặt Phùng Bất Cơ, thân thiết hỏi han: “Có bị nội thương không? Có thấy chỗ nào không thoải mái không? Có…”
“Đều không.” Phùng Bất Cơ vội ngắt lời, nếu để hỏi tiếp thì không sao cũng thành có sao, “Chẳng qua đầu hơi choáng, một lát là hết.”
Bất cẩn ngã đập đầu một cái thôi còn choáng mất mấy ngày chứ nói gì tới bị đá rơi trúng.
Các đội hữu cuối cùng cũng thoáng yên tâm.
Bên phía Phùng Bất Cơ không có chuyện gì để kể cả, bị đá rơi, nằm bất tỉnh, chỉ vẻn vẹn mấy chữ ấy là đã kể xong, song bên nhóm còn lại thì phấn khích hơn nhiều, Đàm Vân Sơn là người kể chính, Ký Linh ở bên bổ sung, Bạch Lưu Song chốc chốc lại chêm một câu, Phùng Bất Cơ ngồi ngẩn ra nghe.
Cuối cùng đến lúc mọi người kể xong, Phùng Bất Cơ phải cảm khái rằng huynh ta có đâu phải là các đồng đội, cái nhóm này phải là các thanh thiên đại lão gia! Quả là liếc mắt phân rõ ngay gian, vung đao phân rõ người lành người hư!
thanh thiên đại lão gia: “thanh thiên” nghĩa đen là trời xanh, từ này là ẩn dụ cho các vị quan thanh liêm, chính trực, được lòng dân, tiêu biểu là ba vị Bao Công (triều Tống), Hải Thụy (triều Minh), Viên Khả Lập (triều Minh).
Chỉ có điều…
“Sau khi đá rơi, Dị Bì thay thế tôi thành công, nó có đủ thời gian để tìm cơ hội ra tay với mọi người, tại sao đến tận lúc mọi người nghi ngờ, nó vẫn không có hành động gì?”
Đàm Vân Sơn phiền não lắc đầu: “Đây cũng là chỗ làm tôi thấy khó hiểu. Mục đích của Dị Bì có vẻ không phải là trừ khử chúng ta mà là nhanh chóng xua chúng ta ra khỏi hang, kể từ lúc nó biến thành huynh thì mọi lời nói cử chỉ đều tập trung vào việc giục chúng tôi “mau mau ra khỏi hang”.”
“Đúng!” Bạch Lưu Song cũng càng ngày càng hiểu rõ vấn đề, “Sau khi phát hiện bức tường phép ngăn cửa hang không còn nữa, nó không hề nghi ngờ một chút nào, lập tức kết luận Dị Bì đã chạy khỏi, giục chúng ta mau chóng đuổi theo!”
Phùng Bất Cơ vẫn không hiểu: “Giục mọi người ra khỏi hang thì có tác dụng gì nhỉ? Nếu là thấy mọi người ở trong hang ngứa mắt thì giết quách đi chẳng phải… Khoan khoan,” Phùng Bất Cơ sực nghĩ ra, “phải chăng tôi thoát chết không phải vì may mắn mà là vì nó vốn không định để tôi chết?”
Cả nhóm nhìn nhau, càng lúc càng cảm thấy có khả năng Phùng Bất Cơ đã phát hiện ra… chân tướng.
Phùng Bất Cơ nghĩ tới những thông tin ít ỏi Nam Ngọc tra được mà buồn bực ra mặt: “Đùa người khác vui lắm sao? Cái tật gì xấu bỏ mẹ!”
Ký Linh thầm nhủ trong bụng điều này thì chỉ có thể hỏi Dị Bì mới biết được.
Không ngờ Đàm Vân Sơn nói: “Năm đó rảnh rỗi lại không thiếu tinh khí thì có thể là đi trêu chọc người khác mua vui nhưng hiện giờ nó bị nhốt ở đây ba ngàn năm, vất vả mãi mới đợi tới ngày tiên trận bị phá, nó hoàn toàn có thể rời khỏi, ngoài kia có muôn người để nó đùa giỡn, tại sao nó vẫn khư khư ở trong hang? Hơn nữa, thói quen ngày xưa của nó là hễ bị phát hiện thì sẽ giết người bị đánh tráo, không bị phát hiện thì giết cả người bị đánh tráo lẫn những người mắc mưu. Thế nhưng, chuyến này chúng ta phát hiện được nó, Phùng huynh vẫn an toàn, chuyện này không hợp lý.”
Phùng Bất Cơ nghe thấy kỳ cục: “Thế hay là… tôi chết một phát nhé?”
Đàm Vân Sơn vừa á khẩu vừa muốn bật cười. Kể từ lúc Phùng Bất Cơ tỉnh, bộ tứ lại một lần nữa sum họp, đám mây âm u trong lòng chàng đã tan quá nửa, chuyện cần làm tiếp theo là chờ Nam Ngọc.
Chỉ mong vị thượng tiên này có thể mang về tin tức gì đó quan trọng, Đàm Vân Sơn nghĩ, ít ra thì cũng có thể cho họ biết hướng đi tiếp theo.
Canh Thần Cung trên Cửu Thiên Tiên Giới.
“Cửu Thiên phục yêu chí?” Nam Ngọc chỉ tới chỗ sư phụ hỏi thử xem sao, không ngờ lại gặp may thật!
Cửu Thiên phục yêu chí: ghi chép về chuyện Cửu Thiên hàng phục yêu quái. Chữ “chí’ này cũng là chữ “chí” trong tên “Tiên Chí Các”, nghĩa là ghi chép.
Trịnh Bác Lão búng một quân cờ về phía chàng: “Nói to nữa lên, tốt nhất là để cả Cửu Thiên Tiên Giới đều biết cậu sắp sửa đi trộm sách của Tiên Chí Các ấy…”
Nam Ngọc nhanh tay nhanh mắt đón được quân cờ trắng, cung kính đặt nó về đúng chỗ cũ trên bàn cờ, khép nép thưa: “Sư phụ, hình như thầy còn nói to hơn…”
Trịnh Bác Lão vẫn nhìn đăm đăm thế cờ trên bàn như đang say sưa suy nghĩ cách phá giải nhưng vẫn tiếp tục nói chuyện với đồ đệ: “Nếu chỗ đó cũng không có đề cập thì cậu đừng hy vọng gì nữa.”
Nam Ngọc kinh ngạc: “Chẳng lẽ sư phụ cũng chưa từng xem quyển sách đó?”
Cuối cùng Trịnh Bác Lão cũng cau mày ngẩng đầu lên: “Chẳng lẽ là thế nào? Quyển “Phục yêu chí” ấy được cất ở tầng bảy cấm địa, cậu đi hỏi khắp Cửu Thiên Tiên Giới xem, chưa nổi chục người biết tới quyển sách này, vi sư là một trong số ấy đã là cậu gặp may rồi, đừng có mà lòng tham không đáy!”
“Được bái sư phụ làm thầy là may mắn lớn lao suốt đời này của trò!” Nam Ngọc ôm quyền làm lễ đầy thành thạo.
Chiêu này rất hữu hiệu với Trịnh Bác Lão, Trịnh Bác Lão lập tức chuyển giận thành mừng, cười tít mắt lút sâu vào sau những hàng lông mày, râu ria rậm rạp.
Nam Ngọc nhìn quanh ngó quất, xác nhận là an toàn mới thì thầm thưa: “Sư phụ, đồ nhi còn một chuyện không rõ.”
Trịnh Bác Lão thong dong gật đầu: “Nói đi.” Thái độ như thể trên đời này chẳng có vấn đề nào làm khó được mình.
Nam Ngọc nói: “Tôi nghe nói tầng bảy của Tiên Chí Các lưu trữ toàn là những bí mật của Cửu Thiên Tiên Giới nhưng tại sao cuốn “Phục yêu chí” này cũng cần giữ bí mật? Để chúng tiên hữu biết thành tích huy hoàng xuất binh vây diệt yêu tà năm đó không tốt sao?”
Trịnh Bác Lão cười nhạt thở dài: “Trò ơi là trò, mấy trăm năm làm thần tiên của trò coi như uổng.”
Do dung mạo vẫn còn nét thiếu niên nên Nam Ngọc thường hay bị các tiên hữu trêu chọc tuổi còn trẻ. Chàng rất không thích. Thế mà sư phụ chàng còn đem chuyện trẻ tuổi này ra nói, lần nào cũng nhìn chàng bằng ánh mắt như đang nhìn một đứa trẻ con, ví dụ như ngay lúc này đây, làm người ta đau lòng không nói nên lời.
“Được rồi, được rồi,” Trịnh Bác Lão chẳng mấy khi mới được một lần mở cho đồ đệ một đường lui, “còn nhiều thời gian, một số việc cứ phải từ từ mới hiểu được. Trò mau đi lo chuyện chính đi.”
Nam Ngọc bất ngờ trước “sự trợ giúp đắc lực” của sư phụ, chàng nén giọng hỏi ra điều hoài nghi không nén nổi trong lòng: “Tôi sắp đột nhập tầng bảy của Tiên Chí Các, sư phụ không khuyên tôi một câu lại còn thúc giục, cổ vũ à?”
Trịnh Bác Lão hờ hững liếc chàng một cái: “Tôi khuyên nổi cậu chắc?”
Nam Ngọc vô cùng nghiêm túc muốn phản bác nhưng cuối cùng đành phải ngắc ngứ đáp: “Vẫn… hơi hơi khuyên được mà… phải không?”
Trịnh Bác Lão không nhịn được cười, vỗ đầu đồ đệ: “Chẳng mấy khi mới thấy trò thật lòng muốn làm gì đó. Tuổi trẻ không sợ mắc sai lầm, chỉ sợ cả ngày lười nhác, bặt chăng hay chớ, đến bản thân là ai, muốn gì cũng không biết.”
Nam Ngọc cười không vui: “Tôi đã thành tiên rồi còn muốn cái gì nữa chứ.”
“Đấy đấy.” Trịnh Bác Lão nhìn tên đồ đệ nhà mình đầy bùi ngùi, “Nếu cậu cứ nghĩ như vậy thì trăm năm trên trời chẳng bằng một ngày ở nhân gian.”
Trịnh Bác Lão quay lại chăm chú xem bàn cờ, đặt một quân cờ, thế cờ được giải.
Nam Ngọc im lặng xem, sóng lòng nhấp nhô lên xuống chẳng biết là vì đâu.
Suốt quãng đường từ Canh Thần Cung tới Tiên Chí Các, Nam Ngọc cứ nghĩ mãi xem rốt cuộc có đáng phải mạo hiểm vì những người thậm chí không được coi là có quen biết ấy không. Tuy sư phụ nói tuổi trẻ không sợ mắc sai lầm nhưng đây nào phải lỗi sai cỏn con, tự ý xông vào cấm địa cơ mà! Lỡ mà bị bắt thì thôi, đến phải nhảy xuống Tư Phàm Kiều “làm người” cùng với bọn họ mất. Còn nếu mà bỏ cuộc ở đây thì những người đang chờ chàng trong hang động tối tăm đó sẽ thất vọng biết nhường nào…
Cho nên, dù là làm người hay làm tiên thì đều không nên đa tình, ấm tình, đồng tình, tình bạn cũng không được!
Dù đấu tranh tư tưởng suốt dọc đường, Nam Ngọc vẫn tới Tiên Chí Các.
Khoảnh khắc tiếp đất, chàng bỗng có cảm giác có ai đó nhìn chằm chằm mình sau lưng nhưng khi quay đầu lại thì hoàn toàn trống không, chỉ có mây mù lượn lờ.
Tuyển Văn thượng tiên vừa đi tiễn một vị tiên hữu về thấy chàng thì khá hoang mang: “Trần Hoa thượng tiên?”
Nam Ngọc quay đầu lại cười gượng: “Tuyển Văn thượng tiên, khụ, từ lần gặp trước đến giờ thượng tiên vẫn mạnh giỏi chứ.”
Tuyển Văn thượng tiên nghe lời xã giao như vậy xong thì bật cười, tất nhiên là vẫn mạnh giỏi rồi, lần gặp trước của họ chỉ vừa mới đây. Song, trước nay Tuyển Văn thượng tiên luôn là người cư xử nhã nhặn, lịch sự, tao nhã, dù lòng có thắc mắc thì cũng không chế nhạo gì, chỉ ôn tồn đáp: “Lần này thượng tiên muốn tìm sách gì? Có khi tôi có thể giúp một tay.”
Tuyển Văn thượng tiên thật khiêm tốn, Nam Ngọc nghĩ bụng, đừng nói là tìm một quyển sách, chỉ cần chàng đọc ra đôi ba câu trong sách thôi là đối phương đã lập tức lật được ngay tới trang cần tìm rồi.
Thế nhưng, lần này chắc chắn là không thể nhờ người ta giúp một tay được.
“Không, không tìm gì,” Nam Ngọc vờ tự nhiên, “chỉ là bận bịu một hồi, giờ rảnh rỗi nên ghé đây xem sách.”
Tuyển Văn thượng tiên lấy làm ngờ vực nhưng không hỏi gì thêm, nghiêng người mời: “Thượng tiên cứ xem tự nhiên.”
Nam Ngọc ngẩng đầu ưỡn ngực bước vào Tiên Chí Các, trèo một mạch lên tới tầng sáu sau đó đi lung tung quanh tầng sáu một lúc, đến tận khi nghe thấy tiếng Tuyển Văn thượng tiên trò chuyện với một vị tiên hữu mới tới, chàng mới thở phào bước tới chỗ cầu thang nằm ở góc sâu trong cùng của tầng sáu.
Thành tiên mấy trăm năm, đừng nói cấm địa tầng bảy, đến Tiên Chí Các này, Nam Ngọc cũng chưa tới được mấy lần, cho nên chiếc thang dẫn lên tầng cấm địa kia rốt cuộc trông thế nào, chàng cũng không biết. Càng tới gần, chàng càng căng thẳng, đến khi nó đã ở ngay trước mặt, lòng bàn tay và trán chàng bắt đầu túa mồ hôi.
Không cầu kỳ như chàng tưởng tượng, nó chỉ là một cầu thang rất mực bình thường, chẳng qua là có một lớp sáng vàng mỏng manh chắn ngang, nhìn xuyên qua lớp ấy, có thể thấp thoáng nhìn thấy những bậc thang đằng sau.
Thuật vách tiên.
Nam Ngọc nhìn là biết ngay.
Đây được coi là một trong những phép thuật cơ bản nhất một vị tiên cần biết nhưng sức mạnh của người làm phép khác nhau thì hiệu quả cũng sẽ khác xa nhau một trời một vực.
Vị tạo bức vách tiên này cho cấm địa của Cửu Thiên Tiên Giới chắc chắn không phải hạng tiểu bối tư chất tầm tầm như chàng.
Cách phá thuật vách tiên cơ bản có hai kiểu: Một là dùng sức mạnh mạnh hơn nó để cưỡng chế phá dỡ, hai là chấm một giọt máu của vị tạo ra bức vách tiên hoặc là của người có quan hệ huyết thống với vị đó lên giữa trán là có thể tự do ra vào. Kết quả thu được của hai cách này cũng có sự khác biệt, làm theo cách trước thì vách tiên sẽ hỏng hẳn, còn cách sau thì vách tiên không hề hấn gì, không lo bị ai phát hiện, thậm chí không ai biết được vách tiên ấy từng có ai ra vào hay chưa.
Đương nhiên Nam Ngọc muốn dùng cách thứ hai nhưng vấn đề mấu chốt là chàng phải biết ai là người tạo nên vách tiên này. Hơn nữa, cho dù biết thì làm thế nào lấy được máu? Còn nếu dùng cách thứ nhất, khoan xét đến chuyện sức chàng có đủ hay không, chỉ riêng động tĩnh cách này gây ra cũng đã đủ để Tuyển Văn thượng tiên nghe tiếng chạy lên bắt chàng trị tội rồi.
Đây là lý do phép tiên cơ bản này lại được chúng tiên yêu thích: đơn giản, lại rất hữu dụng.
Nam Ngọc lén lút lùi lại giữ khoảng cách để tránh bị “hiểu nhầm” sau đó mới cầm đại một cuốn sách lên âu sầu lật xem. Nói là lật xem nhưng thực ra chàng chẳng đọc được chữ nào vào đầu, trong lòng chàng chỉ quanh quẩn một suy nghĩ “làm sao bây giờ?”.
Nếu ngay từ đầu không tìm được “hy vọng” từ chỗ sư phụ thì đã không có chuyện tiếp sau, chàng có thể yên tâm, thoải mái quay về nói với nhóm kia là: xin lỗi, lực bất tòng tâm. Thế nhưng, hiện giờ, chàng đã có được hy vọng nhưng đi đến cuối cùng lại không làm được, cảm giác này làm chàng hết sức buồn bực, buồn bực đến mức… chàng chẳng muốn chịu nhận thua chút nào, chỉ muốn liều chết quyết làm tới cùng.
Còn cứ nói sư phụ không chịu chơi cờ với Thiên Đế là thế này thế kia cơ đấy, Nam Ngọc thở dài trong lòng, hóa ra chính chàng cũng bướng bỉnh chẳng khác gì.
“Uỳnh!”
“Ôi chao…”
Không biết ở tầng mấy có tiếng sách đổ và tiếng tiên hữu la hét, Nam Ngọc sợ suýt thì tim ngừng đập.
Sau đó có tiếng bước chân lộn xộn, rồi tiếng nói chuyện thân thiện của Tuyển Văn thượng tiên: “Thượng tiên không sao chứ? Là tại tôi thất trách làm thượng tiên bỗng dưng phải chịu khổ…”
Nam Ngọc trợn ngược mắt, lòng thầm nhủ không cần phải khách sáo tới vậy chứ, Tiên Chí Các này được sắp xếp gọn gàng ngăn nắp không dính chút bụi nào, phải mù cỡ nào mới làm đổ được sách…
“Trần Hoa thượng tiên.”
Giọng nói đột ngột cắt ngang dòng suy nghĩ của Nam Ngọc đồng thời làm chàng giật mình quên cả thở.
Khác với tiếng động dưới tầng, tiếng gọi Trần Hoa thượng tiên này ở ngay sau lưng, gần trong gang tấc.
Nam Ngọc từ từ quay đầu lại, cố gắng giữ bình tĩnh dù trông rất thiếu tự nhiên. Thế nhưng, khi thấy đối phương là ai thì nỗi ngạc nhiên lấn át luôn cả sự căng thẳng: “Vũ…”
Chỉ mới nói một chữ, Nam Ngọc liền im bặt bởi vì đối phương cắn đầu ngón tay chấm lên giữa trán chàng.
Mùi máu thoang thoảng.
Vị tiên hữu dưới tầng vẫn còn đang “trách móc”, trên này lại tĩnh lặng đến kỳ lạ.
Lạc Mật không nói gì, chỉ nhìn sang chỗ vách tiên mấy lần, ý tứ hết sức rõ ràng.
Nam Ngọc không biết có nên tin nàng ta hay không… Không, chàng tin sự giúp đỡ này nhưng vì sao lại giúp? Tại sao lại xuất hiện đúng lúc như vậy?
Tiếng ồn ào dưới tầng lắng dần, xem ra Tuyển Văn thượng tiên đã ra sức vỗ về, vị tiên hữu kia cũng không tiện tiếp tục quấy rối. Lạc Mật nhíu mày, cuối cùng không nhịn nổi, khẽ giục: “Ngây ra đó làm gì, nhanh lên.”
Thôi, để nghĩ sau đi, nếu như chàng còn mạng để nghĩ… Nam Ngọc hạ quyết tâm, xoay người nhanh chóng đi qua vách tiên!
May mà vách tiên hoàn toàn không phát ra tiếng động.
Tạm thời qua được một cửa, Nam Ngọc thở phào một hơi, không dám chần chừ, nhanh chân leo lên tầng bảy.
Cứ tưởng là phải lục tìm giữa một biển sách mênh mông, không ngờ tầng bảy khác hoàn toàn tần sáu, nhìn vào thấy trống trải, cả thảy chỉ có hai giá sách kê chính giữa tầng, trên bày mười mấy hộp gấm, không hề có vẻ gì bí hiểm như tưởng tượng mà giống một nhà tù, còn là loại cực kỳ sơ sài.
Có lẽ là quá tự tin về thuật vách tiên nên các hộp gấm chỉ đậy điệm bình thường, không dùng phép tiên, cũng không khóa. Nam Ngọc dễ dàng mở được hộp đầu tiên, trong đó chỉ có một quyển sách: Cửu Thiên tinh cung. Nam Ngọc không có thời gian mở ra xem, lập tức đi mở hộp khác, có điều trong khoảnh khắc phân tâm, chàng chợt nghĩ, nếu như vị sư phụ say mê các vì sao nhà chàng mà ở đây thì ắt là mở chiếc hộp đầu tiên ra liền quên hết tất thảy chuyện chính cần làm.
tinh cung: tinh là sao, cung: theo phép tính làm lịch thời xưa chia một vòng tròn thành phần, mỗi phần gọi là một cung
Cuối cùng, Nam Ngọc tìm được quyển “Cửu Thiên phục yêu chí” trong truyền thuyết kia khi mở tới chiếc hộp thứ bảy!
Quá đỗi mừng rỡ, Nam Ngọc quả thực muốn…
Khoan!
Một ý nghĩ chợt lóe lên làm Nam Ngọc giật mình.
Nếu máu của Lạc Mật có thể phá vách tiên, vậy chứng tỏ người tạo vách tiên hoặc là nàng ấy hoặc là người có quan hệ huyết thống với nàng ấy. Lại nhớ, các vị tiên hữu muốn vào cấm địa thì phải xin thánh chỉ của Thiên Đế, không có ngoại lệ, nghe nói là cầm thánh chỉ mới có thể vào, nếu không, cho dù là Tuyển Văn thượng tiên cũng không thể vào được…
Hẳn không phải là chàng đã phá vách tiên của Thiên Đế đấy chứ?!!!
Sư phụ, ngày nay sang năm có lẽ thầy sẽ phải đi viếng mộ cho đồ nhi rồi…