Minh Tịnh và Sơn Béo trở lại trường cùng một ngày. Bọn họ tới vào đúng ngày cuối cùng tân sinh viên báo danh, cũng không xem là quá sớm. Minh Tịnh cuối cùng cũng được một lần hưởng thụ cảm giác làm đàn chị. Trông đám đàn em ngượng ngùng dè dặt chào hỏi mình, cô ưỡn ngực thẳng lưng, nghiêm trang cực độ. Đợi đến khi mấy nhóc đàn em đã líu ríu kéo nhau đi rồi, cô mới quay đầu hỏi Sơn Béo: “Năm ngoái mình cũng ngáo ngáo ngơ ngơ thế à?”
Sơn Béo cảm giác như vừa nghe được một câu chuyện cười cực kỳ khó tin, còn bật cười ha hả: “Cậu á, trông tinh tướng như đang đi dạo quanh đất nhà mình í, nhìn ai cũng hằm hằm hè hè cả.”
Chuyện đấy chẳng phải là do bị Nhan Hạo chọc tức sao! Minh Tịnh vẫn chưa đầy hai mươi tuổi nhưng cũng không khỏi cảm thán thời gian trôi qua thật mau, cô đã đến Bắc Kinh tròn một năm rồi. Tuy rằng cây ngô đồng vẫn là cây ngô đồng kia, cây quế vàng vẫn là cây quế vàng đó, cả khu giảng đường lẫn thư viện đều chẳng có gì thay đổi, cơm trong nhà ăn cũng khó ăn hệt như xưa, song cô vẫn cứ cảm thấy có chút gì đó khác lạ.
Chỗ tiếp đón sinh viên mới vẫn là hội trường lớn năm ngoái. Sơn Béo nhìn về phía mấy gốc hòe, hỏi: “Minh Tịnh, cậu có phát hiện sinh viên tiếp đón khóa dưới đều là nam hết cả không?”
Minh Tịnh cũng thoáng nhìn sang, trông thấy quả thật toàn nam sinh viên đứng đó.
“Vụ này có khác thì đi luyện tập thể lực đâu, hội con gái không thích đến cũng là chuyện bình thường!”
“Cậu ngốc thật đấy, căn bản chả hiểu suy tính của bọn con trai gì cả. Ở đây có nhiều nữ sinh như vậy, nói không chừng mai kia một vài người trong số họ lại trở thành bạn gái của ai đó ấy chứ!”
“Đừng có bôi xấu người ta như thế.” Minh Tịnh bĩu môi, không muốn bình luận thêm.
Trên mặt Sơn Béo hiện lên chín chữ “cậu chẳng phải là ví dụ sống đấy sao”.
Hôm ấy trên đường từ khu chợ quay về nhà nhỏ, Nghiêm Hạo lại hỏi về tấm ảnh gia đình của cô, thắc mắc tại sao cô có thể phơi mình đến độ đen nhẻm như vậy. Cô nói đâu phải lúc nào cũng được đến Hawaii, đương nhiên không thể lãng phí những giây phút vàng ngọc ấy được, phải tắm biển cho thỏa thích vào chứ. Ban đầu cô cũng bôi kem chống nắng đầy đủ, sau đó khi nào nhớ ra thì bôi chút chút, tới lúc chơi đến bạt mạng thì mặc kệ tất cả luôn.
“Học trưởng, hồi ấy em đen như con ma lem, sao anh vẫn bằng lòng đưa em qua nhà Trích Quế?” Cô hỏi.
Nghiêm Hạo vẫn nhìn thẳng về phía trước: “Xem người không thể chỉ trông mỗi vẻ bề ngoài thôi được.”
Thế nghĩa là cô có một tâm hồn rất đẹp phải không? Minh Tịnh cảm thấy từ cổ đến tai mình nóng ran, cả khuôn mặt đều ửng đỏ.
Tổ tiên của Sơn Béo rốt cuộc cũng đã hiển linh. Cu cậu không chỉ nhảy chuyên ngành thành công mà còn được chuyển vào nhà Trích Quế như ý nguyện. Chuyện phân phòng tại nhà Trích Quế năm ngoái, nhà trường cảm thấy đã hết sức công bằng rồi, song trên diễn đàn trường vẫn không thiếu những lời bàn qua tán lại. Thế là năm nay Kinh Đại quyết định những sinh viên đã ở sẵn tại nhà Trích Quế thì vẫn được giữ nguyên phòng, còn tân sinh viên mới đến sẽ sắp xếp như những năm trước, để xem có ai còn bới móc được gì nữa không. Nhà Trích Quế có một nam sinh viên, không biết gia đình tác động thế nào mà xin được một suất sang Mỹ làm du học sinh trao đổi, vậy nên giường của cậu ta để trống. Có thể là do tinh thần kiên trì quyết liệt xin đổi phòng của Sơn Béo đã khiến lãnh đạo trường không thể không để ý, hơn nữa lý do cậu chàng đưa ra còn cực hợp lý – không gian phòng ngủ bốn người không phù hợp với hình thể của cậu, cuối cùng nhà trường cũng đã động lòng trắc ẩn.
Minh Tịnh thật lòng cảm thấy mừng thay cho cậu: “Tuy rằng chúng ta không cùng khoa nữa nhưng vẫn chung một thắng lợi.”
Sơn Béo lấy di động ra, nhờ Minh Tịnh chụp giúp mình một tấm ảnh đứng cạnh cây quế hoa vàng.
Minh Tịnh nhìn từ màn hình, cảm giác Sơn Béo lại càng mập mạp hơn trước. Rõ ràng cậu đã luyện tập rất chăm chỉ cực nhọc, dốc lòng dốc sức, thế nhưng lượng thịt trên người thì vẫn chẳng mảy may suy chuyển, đây cũng có thể coi như một dị năng đáng nể!
Ngày đầu tiên đi học, Minh Tịnh và Sơn Béo vẫn đi ăn sáng cùng với nhau. Nhà ăn tầm này thường rất vắng người. Rất nhiều cô cậu sinh viên vì muốn ngủ nướng thêm chút nên sát giờ mới cuống cuồng rời giường, đầu bù tóc rối mặt mũi lem nhem, cứ vậy lao thẳng đến lớp. Có những người sẽ mơ mơ màng màng học hết hai tiết, sau đó đi mua cái bánh mì gặm tạm cho đỡ đói, số còn lại nhịn thẳng tới bữa trưa. Còn Sơn Béo thì ngược lại. Cậu đặc biệt coi trọng bữa sáng, mà đúng hơn là bữa ăn nào cậu cũng coi trọng cả. Cậu nói để đảm bảo được tinh thần khi lên lớp thì trước hết cái bụng phải cảm thấy vui vẻ đã, mà thứ cậu chàng gọi là vui vẻ chính là ăn cho thật đẫy, thật ấm mới thôi.
“Cố lên!” Sau khi xử xong sáu cái bánh bao, Sơn Béo cụng trứng gà với Minh Tịnh.
Minh Tịnh cảm thấy học kỳ này cô phải cố gắng thật nhiều. Chương trình học năm hai rõ ràng nặng hơn năm nhất, đặc biệt là các môn chuyên ngành. Kỳ này sẽ học tổng quan tiếng Đức, lịch sử, ngữ pháp nâng cao, viết, nói, đọc, và nghe nhìn đa phương tiện. Sinh viên đến nhận sách, phần đa nước mắt lưng tròng, mặt mày ủ ê như đi đưa đám.
Lớp họ năm nay thiếu mất ba người, ngoại trừ Sơn Béo và Cao Tiểu Thanh vừa mới thôi học thì còn một nam sinh khác chuyển sang chuyên ngành Phiên dịch. Cậu ta bảo: “Cho dù ngành công nghiệp sản xuất của Đức có tiên tiến ra sao, kinh tế phát triển tới cỡ nào, đời sống người dân có cao đến mấy thì cũng không thể phủ nhận một sự thật rằng tiếng Đức chỉ là một loại ngôn ngữ không phổ biến, cơ hội việc làm khan hiếm, hơn nữa người Đức cực kỳ bài ngoại. Bây giờ mình năm hai rồi, cần phải cẩn thận suy nghĩ xem tương lai nên sống thế nào chứ không phải chỉ loanh quanh lấy bằng là xong.” Lời cậu ta nói tựa như một cục đá ném xuống mặt ao phẳng lặng, gợi lên vô số bọt sóng. Mấy ngày ấy ai ai cũng hoảng loạn, vẻ mặt sầu lo việc nước việc dân, thậm chí tỉ lệ tới lớp cũng là một trăm phần trăm. Thế rồi sau đó mọi người lại nghĩ, bây giờ mới có năm hai, sau này vẫn còn năm ba năm tư nữa, lo xa đến thế làm gì? Vậy là trừ các môn chuyên ngành ra, những môn học khác mà điểm danh được nửa quân số là giảng viên đã hí hửng lắm rồi. Các thầy cô dạy lâu năm dường như cũng sớm thành quen, sau khi đờ đẫn gập sổ điểm danh thì vẫn uể oải vào bài như thường lệ.
Tuy nhiên, Minh Tịnh nghe nói vẫn có một số sinh viên đi đăng ký thêm các lớp học ở bên ngoài, chuẩn bị luyện thi IELTS TOEFL. Đó đều là những người muốn đi du học, cũng coi như có chí lớn.
Minh Tịnh bị họ kích thích, cả khi không có tiết học cũng chôn mình trong thư viện. Tất nhiên không phải lúc nào cô lên thư viện cũng là để học, nhưng bầu không khí nơi ấy luôn khiến cho cô cảm thấy an toàn.
Thái độ này của Minh Tịnh xuýt dọa cho Lý Di Nhiên hết hồn. Cô nàng cao giọng chất vấn: “Bây giờ em cứ cắm đầu học học như thế, có phải là muốn khiến bọn chị chết không có chỗ chôn không?”
“Chị với em đâu có học cùng chuyên ngành, có gì phải ganh đua chứ.”
Lý Di Nhiên trợn mắt liếc Minh Tịnh một cái: “Em tưởng rằng học chuyên ngành gì thì sau này ra trường chắc chắn sẽ làm chuyên ngành nấy à? Chị nói cho em hay, tám mươi phần trăm sẽ nhảy ngành đấy. Nói không chừng ngày nào đó, hai đứa mình lại uýnh nhau sứt đầu mẻ trán vì một chức vụ cũng nên.”
Minh Tịnh tức khắc cam đoan: “Không đâu, em tự biết mình không phải đối thủ của chị, sẽ vẫy cờ trắng đầu hàng ngay lập tức.”
“Cũng coi như em thức thời.”
Hai người nhìn đối phương, cùng phá ra cười. Buổi trưa, bọn họ dắt díu nhau ra ngoài trường mua đồ ăn. Lý Di Nhiên gọi hai ly trà sữa và một hộp bánh tart trứng lớn. Hộp có tổng cộng mười cái bánh, Lý Di Nhiên lấy bảy cái, chỉ đưa cho Minh Tịnh mỗi ba cái, nói mình cần phải tẩm bổ nhiều thêm. Kỳ nghỉ hè vừa rồi của cô nàng đúng là thảm họa. Thầy giáo Đỗ nói muốn đưa cô đến một nơi phong cảnh hữu tình nghỉ dưỡng, phong cảnh hữu tình là thật, còn nghỉ dưỡng thì chả thấy đâu sất. Cô phải tham dự một khóa giảng dạy các loại thơ từ ca phú thế kỷ XXI mang tên “Ngâm Phong Tụng Nguyệt”, không biết do tổ chức nào phát động, còn nói là nhằm mục đích phát huy nền văn hóa giàu có năm nghìn năm của dân tộc Trung Hoa. Thầy giáo Đỗ là người giảng dạy chính, còn Lý Di Nhiên phụ trách kiểm tra bài tập về nhà.
“Ngày đầu tiên gió sớm trăng tàn bên bờ dương liễu, ngày thứ hai một mình đi tới lầu Tây lưỡi trăng sáng tựa móc câu, ngày thứ ba bỗng nhiên quay đầu lại thấy người đứng đó nơi lửa đèn tàn, ngày thứ tư trước không thấy người xưa, sau không thấy người đời tiếp(), đầu chị cứ ong ong hết cả lên í,” Lý Di Nhiên đau khổ oán thán. “Người xưa làm thơ luôn luôn chú trọng tâm trạng tình cảm, ngày nào cũng chìm đắm trong mấy cái câu chữ đó, có là hoa hồng đỏ() thì cũng sẽ thành vệt máu muỗi mất thôi.”
Minh Tịnh nhìn Lý Di Nhiên nhồm nhoàm nhét cái bánh tart trứng thứ ba vào miệng rồi hút một ngụm trà sữa. Bánh tart trứng này ngọt lừ, cô ăn một cái đã ngấy, vậy mà Lý Di Nhiên lại có thể chén liền một phát ba cái, hẳn là trong lòng đã đói khát không chịu nổi!
“Khóa học có nhiều người tham gia không ạ?”
“Nhiều hơn chị tưởng tượng nhiều! Đúng là không ngờ trong nước vẫn có nhiều người quan tâm đến văn hóa Trung Quốc như vậy, bọn họ còn bảo muốn quảng bá phục trang thời Hán, sau này các dịp lễ lớn Hán phục sẽ trở thành lễ phục của đất nước ta.” Lý Di Nhiên đột nhiên lại không ăn nữa, ánh mắt mông lung. “Em có biết không, trong khóa học này có rất nhiều người không thuộc chuyên ngành thơ văn, thậm chí còn cả những người chẳng học đại học, thế nhưng hiểu biết của họ về văn hóa nước mình thực sự không tệ chút nào. Chị học tiếng Trung bốn năm, vậy mà chẳng hề có cảm giác gì là vượt trội hơn bọn họ. Chị đã năm cuối rồi, lúc trước quả thực định lên cao học, nhưng giờ chị lại chẳng rõ học cao học liệu có ăn nhằm gì không. Người ta cứ bảo cái chuyên ngành này là liều thuốc chữa bách bệnh, nghề nào cũng cần đến nó. Song trên thực tế, con đường mà bọn chị có thể đi được rất hẹp. Em nói xem, có người Trung Quốc nào mà lại không biết tiếng Trung cơ chứ?”
“Nhưng chẳng phải thầy Đỗ vẫn phát triển rất tốt đó sao?”
Lý Di Nhiên trợn mắt: “Ai mà so với anh ấy, anh ấy đã thành tinh rồi.”
“Thì chị cũng có thể thành tinh mà!”
“Cả hai đều thành tinh, chỉ có thể về yêu giới mà thôi. Nếu muốn trụ lại trần gian thì ít nhất phải có một đứa là người chứ.” Lý Di Nhiên đang định nhét cái bánh tart trứng thứ năm vào mồm, nhưng Minh Tịnh đã nhanh tay ngăn cô ấy lại.
Lý Di Nhiên cười cười, cũng không tiếp tục ăn nữa. Không hiểu tại sao, Minh Tịnh cảm thấy nụ cười kia có chút đau thương.
“Chị cãi nhau với thầy Đỗ ạ?” Cô cẩn thận hỏi.
“Không phải cãi nhau, mà là tỉnh thức, tỉnh ngộ.” Lý Di Nhiên xoa xoa đầu ngón tay dính đầy dầu, chua xót mím môi. “Tất cả đều là chị sai, đáng nhẽ chị nên để anh ấy ngồi trên bệ thờ mãi mãi, cung kính ngước nhìn mới phải, không nên kéo người ta xuống dưới phàm trần với mình làm gì. Anh ấy không phải không rành thế sự mà thực sự là chẳng muốn quan tâm, toàn bộ đầu óc chỉ chứa kiến thức mà thôi. Người bạn đời của anh ấy, như kiểu người ta vẫn nói đùa trên mạng ấy, phải lên được phòng khách xuống được phòng bếp, vừa trèo được tường vừa đánh được cả lưu manh. Chị rất thích anh ấy, chỉ có điều chị tự thấy mình chẳng được toàn năng đến vậy!”
Minh Tịnh không giỏi khuyên giải người khác, chỉ biết khô khan nói: “Đây cũng đâu phải vấn đề nguyên tắc, vẫn sẽ có cách giải quyết thôi mà.”
Lý Di Nhiên cụp mắt, cúi nhìn những đường chỉ tay chằng chịt giữa lòng bàn tay của mình. “Có đôi khi chia tay không nhất định phải vì vấn đề nguyên tắc, chỉ là nhịp điệu rối loạn, dù em có cố cách mấy cũng không thể nào đuổi được.”
“Học tỷ, chị đừng có phá hỏng hình tượng tài tử giai nhân ở trong lòng em. Tình yêu hẳn là nên lội ngược dòng mà tiến lên chứ không phải gặp trắc trở liền bỏ chạy,” Minh Tịnh sốt sắng nói.
Lý Di Nhiên bật cười: “Đúng là không nên nói mấy chuyện này với em. Bọn mình về đi, buổi chiều em có phải đi học không?”
“Chiều thì không ạ, nhưng mà buổi tối em sẽ có môn tự chọn.”
“Môn tự chọn cúp một buổi cũng chẳng sao, chiều nay ra ngoài đi xõa với chị tí đi.”
“Không được đâu, môn này em không nghỉ được.”
Kỳ này Minh Tịnh đã đăng ký môn Biên soạn Tin tức do chính Chu Tiểu Lượng đích thân chỉ định. Bà bảo: “Cho dù sau này con có làm nghề gì đi nữa thì vẫn sẽ phải viết lách vài loại văn bản, ví dụ như lên kế hoạch hay nộp báo cáo chẳng hạn. Không phải cứ biết đặt câu là chắc chắn sẽ hành văn tốt, học có hệ thống một tí không bao giờ là thừa cả.”
Minh Tịnh đã đi học được hai buổi, không biết do thầy giảng hay hay môn học này hợp với sở thích của cô mà cô lại càng ngày càng thích nó, thậm chí còn chăm chỉ học hơn mấy môn chuyên ngành của mình nhiều.
Lý Di Nhiên trêu Minh Tịnh: “Có phải Nghiêm Hạo không cho nghỉ không? Ái chà, bây giờ chị vẫn còn chưa tiêu hóa nổi cái tin hai người quen nhau đâu nhá. Nữ sinh bên khoa Tiếng Trung bọn chị đều lén lút gọi Nghiêm Hạo là mục sư, bởi vì nhìn bên ngoài thì anh ta quả thực rất có hơi thở cấm dục.” Lý Di Nhiên tặc lưỡi. “Cái phong cách này, chị thưởng thức không nổi.”
“Thế thì đừng có thưởng thức, em hiểu anh ấy là được rồi,” Minh Tịnh mặt dày nói.
Lý Di Nhiên nhìn Minh Tịnh một cái thật sâu: “Em thực sự hiểu anh ấy lắm à?”
Minh Tịnh nghiêm túc gật đầu.
Lý Di Nhiên nhướng mày, cũng không tỏ ý kiến gì.
() Phần Lý Di Nhiên trích dẫn là ý thơ trong các bài thơ cổ: “Vũ lâm linh” của Liễu Vĩnh, “Tương kiến hoan” kỳ của Lý Dục, “Thanh ngọc án” của Tân Khí Tật và “Đăng U Châu đài ca” của Trần Tử Ngang.
() Hoa hồng đỏ: Hình ảnh ẩn dụ xuất phát từ tác phẩm “Hoa hồng đỏ và hoa hồng trắng” của nhà văn Trương Ái Linh. Bà nói mỗi người đàn ông đều có hoa hồng đỏ và hoa hồng trắng của cuộc đời mình, cưới được hoa hồng đỏ thì hoa hồng đỏ sẽ như vệt máu muỗi trên tường, hoa hồng trắng là ánh trăng sáng rọi đầu giường, còn cưới được hoa hồng trắng thì hoa hồng trắng sẽ biến thành hạt cơm dính trên áo, còn hoa hồng đỏ là nốt ruồi son trên ngực.