Mồng bảy tháng tư, năm Hoằng Trị thứ mười tám, quan Đề đốc Vương Nhạc của mười hai đoàn doanh và Anh Quốc công Quách Huân tới kiểm tra Thần Cơ doanh, tra ra phó Tham tướng Tả Tiêu quân Bào Tận Thẩm của Thần Cơ doanh, quan Đô ty Lưu Sĩ Dung của đệ tam ty và các tướng tá lớn nhỏ, tổng cộng mười ba người tham ô lương bổng cùng lương thực của quân đội, đút vào túi riêng, còn có những chuyện phạm pháp khác đang điều tra. Hoàng đế tức giận, sai Cẩm Y Vệ bắt chúng vào kinh chờ xét xử.
Mồng tám tháng tư, Giám sát Ngự sử Vương Lương Thần của Giám Sát viện, Cấp sự trung Trần Đình của Binh khoa tố cáo Tham tướng Tả Tiêu quân Dương Lăng của Thần Cơ doanh đem đàn bà vào trong doanh, trọ lại trong quân. Vua hạ chiếu, Dương Lăng bị phạt hai mươi quân côn, giáng một phẩm nhưng vẫn giữ nguyên chức, phạt nửa năm bổng lộc.
Ngày sau, cho vời Dương Lăng vào cung, dùng lời lẽ nghiêm khắc để dạy dỗ và khiển trách, rồi lệnh cho Đề đốc Vương Nhạc chỉnh đốn quân kỷ, ban cho Dương Lăng Song Hổ phù, dẫn quân vào núi luyện tập võ nghệ.
Dưới sườn núi, những đội sĩ binh chia thành tổ tiến hành huấn luyện bắn khi di chuyển và bắn tại chỗ trong sơn cốc phía trước. Tiếng súng đì đùng, khói thuốc súng bốc lên mịt mù. Đến hôm nay, Dương Lăng đã dẫn đại quân vào núi huấn luyện khổ cực trên hai mươi ngày.
Binh lực của ba ty Tả Tiêu doanh có tổng cộng bốn ngàn năm trăm người, cộng với số thân binh và đội Đốc chiến trực thuộc Tham tướng, tổng cộng năm ngàn người. Trong đó bộ binh là ba ngàn sáu trăm người, một nhánh nhân thủ là bộ binh sử dụng súng hoả mai; pháo binh là bốn trăm người, được trang bị một trăm sáu mươi khẩu đại bác Đại Tướng Quân dã chiến, đồng thời mỗi người còn được cấp một khẩu súng tay phòng thân; năm trăm người khác được trang bị khá nhiều súng hoả mai.
Dương Lăng được vua ban lệnh tiễn, giao cho đặc quyền toàn quyền xử lý việc diễn binh tập võ, huấn luyện toàn quân dùng hỏa khí đạn dược. Lúc chỉ bảo huấn luyện nhóm binh sỹ này, y có cảm giác dường như mình đã vượt thời không quay về thời hiện đại. Ngoại trừ đội Đốc chiến thân binh của Dương Lăng là dùng khoái mã trường đao, có thể nói là toàn bộ quân đội hoàn toàn dùng súng ống.
“Đây là quân đội của triều nhà Đại Minh sao?” Nhất là khi đã từng thấy thời Mãn Thanh với những đại đao trường mâu hoàn toàn vô tác dụng, cảm giác kích động của Dương Lăng càng mãnh liệt hơn.
Dẫu rằng súng ống bây giờ tốc độ bắn chậm, tầm bắn gần, vẫn còn có khuyết điểm chí mạng nếu đơn độc chiến đấu với một đội kỵ binh lớn, nhưng nếu có thể bảo trì được cái thế này, tương lai không lâu sau khi thời đại hỏa khí phát triển mạnh, chúng ta sẽ không tụt hậu sau thế giới. Một quốc gia tiên tiến nhất, văn minh nhất, sẽ không trở thành chủng tộc ngu muội lạc hậu trong mắt người Tây phương, mặc cho người khi dễ chèn ép.
Cho dù có những khuyết điểm này, nhưng khi chiến đấu trong thành thị và rừng núi, loại súng này cũng vẫn phát huy uy lực vượt xa đại đao và trường mâu như thường. Nó căn bản không phải thứ mà thân thể bằng da, bằng thịt và võ nghệ cá nhân có thể chống lại được.
Khi ở Kê Minh dịch, Dương Lăng đã từng chứng kiến uy lực của pháo Đại Tướng Quân. Mặc dù thua xa vũ khí hiện đại, nhưng vì hệ thống phòng ngự lúc đó cũng rất bạc nhược, do đó sức tàn phá và lực sát thương của nó cũng không kém gì đại pháo bây giờ. Hơn nữa, với rất nhiều khẩu súng hoả mai, cũng đủ để tạo thành sát thương rất lớn trong nháy mắt khi hai quân giao phong.
Loại quân đội toàn bộ được trang bị hỏa khí này trước mắt tuy không phải là lợi khí tốt nhất để hành quân xa tác chiến, nhưng lại là trợ thủ đắc lực nhất để phòng thủ và dẹp loạn kinh sư. Dương Lăng biết, dựa vào quyền lực của y bây giờ và sự bố trí quân đội này, y cũng không cần phải lo lắng về những việc lâu dài. Việc bây giờ y muốn làm là trong thời gian ngắn nhất làm cho đội quân này trở thành quân tinh nhuệ nhất trong năm đại doanh của Thần Cơ doanh, thậm chí là lực lượng cường đại nhất trong số mười vạn đại quân của mười hai đoàn doanh ở kinh sư.
Muốn làm được điểm này quả cũng khá dễ dàng. Trải qua hơn mười ngày luyện tập đội ngũ chay, bây giờ bọn lính có thể chấp hành thuần thục phương pháp ba đội đối chiến và bắn theo ba hàng (). Tốc độ và mật độ bắn cũng nhiều hơn gấp ba lần trước đây. Đến lúc này, sức chiến đấu của Tả Tiêu quân lập tức tăng lên rất nhiều. (: trong những đoạn cuối chương có giải thích về hai phương pháp này - ND)
Thế là, những tướng lĩnh trong quân vốn còn ôm thái độ nghi ngờ về năng lực của y nhất thời hoàn toàn bái phục. Đến cả ánh mắt của Bành mập và Liên mặt rỗ khi nhìn y cũng tràn ngập kính phục. Dương Lăng cho đến lúc này mới làm rõ chế độ thăng chức và thưởng phạt trong quân. Huấn luyện năng lực tác chiến độc lập của Đội, Tiếu, Hỏa, những binh sỹ có biểu hiện năng lực xuất sắc có thể được đặc cách đề bạt, và cách chức tại chỗ đám quan quân lười nhác vô năng. Vì thế, sĩ khí quân đội lập tức dâng cao. Binh lính vốn lười nhác đều thay da đổi thịt, như beo như cọp, tinh thần hừng hực.
Dương Lăng đứng trên sườn núi quan sát đám sĩ binh diễn luyện. Hơn mười ngày huấn luyện, khuôn mặt vốn trắng trẻo của y bị sạm lại, nhưng tinh thần và khí chất lại kiên nghị và quả quyết hơn vài phần. Dương Lăng gật đầu nhè nhẹ tỏ vẻ hài lòng. Sau khi y ra lệnh bỏ đi giáp trụ nặng khoảng bốn mươi cân, tốc độ tiến lên và năng lực ứng biến của đám binh sĩ rõ ràng đã được nâng cao lên rất nhiều.
Đám tướng lĩnh vốn rất bất mãn với việc bỏ mũ cởi giáp, nhưng khi thấy đám sĩ binh phản ứng nhanh gấp đôi so với lúc đầu, cũng không thể không thừa nhận năng lực tự vệ của bọn lính tuy nhìn hơi yếu bớt, nhưng lực sát thương quân địch và cơ hội tránh né thương tổn ngược lại thực đã tăng lên không ít.
- Con mẹ nó, ta cũng theo binh nghiệp nửa đời người rồi, nhưng không nghĩ tới có thể cho binh lính xếp thành ba hàng đứng, quì, nằm? Còn lập đội ba người, một tên nạp thuốc, một tên châm lửa, một tên phụ trách bắn? Ba người một khẩu hoả mai, bắn tới mưa gió cũng không lọt, so với kiểu bắn cứ như ong vỡ tổ trước kia mạnh hơn gấp trăm lần!
Bành Kế Tổ bội phục liếc nhìn Dương Lăng, nói với y:
- Đại nhân, nắng gắt rồi, vào lều nghỉ ngơi một chút đi.
Dương Lăng khẽ gật đầu. Hai người quay về chỗ tán cây mọc ở sườn núi. Liên Đắc Lộc xoa tay nói:
- Đại nhân, hai ngày qua nhìn đám thủ hạ luyện binh, ty chức cũng hơi dằn lòng không đặng. Người làm tướng phải làm gương cho binh sĩ, tại sao đại nhân không cho chúng ta xuống dưới chỉ huy sĩ binh luyện tập hành quân đánh nhau vậy?
Dương Lăng nâng chén uống một ngụm trà, nhìn đám tướng quân ngồi trong lều, cười hỏi:
- Ồ, vậy ngươi nói cho ta hay, người làm tướng phải làm sao mới làm gương cho binh sĩ được?
Liên Đắc Lộc đáp:
- Cái đó còn phải nói sao? Muốn tăng sĩ khí, khi đánh nhau ở chiến trường, thân là quan tướng phải xung phong lên phía trước. Tướng lĩnh của một đội quân, là linh hồn của toàn quân, tướng dũng binh tất dũng. Hắc hắc, không phải trước mặt đại nhân khoe khoang, chứ mạt tướng đánh trận rất dũng mãnh. Lúc dẹp loạn Miêu Cương, mạt tướng nhậm chức Bách hộ, tự mình dẫn ba trăm binh sĩ trong đêm đánh lên núi, liên tục đánh ba trại lớn, thừa dịp hỗn loạn còn giết được động chủ Miêu Cương vốn được bọn chúng xưng là Vạn Nhân Địch đó.
Dương Lăng gật đầu cười nói:
- Không tệ, quả nhiên dũng mãnh, đủ để làm chức Bách hộ.
Liên mặt rỗ nghe xong phấn khích cười ha hả, dương dương đắc ý liếc mắt nhìn các tướng khác. Lại nghe Dương Lăng nói:
- Nếu ngươi bây giờ vẫn có ý nghĩ như thế, cả đời ngươi cũng chỉ có thể làm Bách hộ, không có cơ hội lên chức.
Tiếng cười của Liên mặt rỗ bất chợt nghẹn lại. Bành Kế Tổ cười phì một tiếng, giảo quyệt liếc gã một cái, trong lòng thầm nghĩ:
- Ta biết ngay đại nhân nhất định có ý khác, nên không chõ vào, quả nhiên là đúng.
Liên mặt rỗ lẩm bẩm:
- Sao lại... Đại nhân cảm thấy mạt tướng dũng cảm xông lên là không đúng sao?
Dương Lăng nghiêm mặt nói:
- Đúng, có điều là đúng khi ngươi đang giữ chức Bách hộ. Tướng quân xung phong xông lên phía trước, quả có thể nâng cao sĩ khí toàn quân, khiến cho ai ai cũng dũng cảm giết giặc. Nhưng bây giờ ngươi đã là quan Đô ty, thủ hạ có một ngàn năm trăm quân binh. Ta hỏi ngươi, đao thương không có mắt, nếu ngươi xung phong lên phía trước, trong loạn quân bị địch nhân giết mất, thử hỏi một ngàn năm trăm huynh đệ của ngươi sẽ do ai chỉ huy? Khi rắn đã mất đầu, toàn quân có bị tiêu diệt không?
Liên mặt rỗ tuy thấy Dương Lăng hỏi có lý, nhưng người làm tướng chẳng lẽ vì vậy mà khi lâm trận lại sợ hãi sao? Trên mặt gã không khỏi hiện lên thần sắc không phục. Đám tướng cũng phần lớn lộ vẻ mặt kì lạ, chỉ có hai ba người xem ra có điều ngộ ra, có vẻ trầm tư.
Dương Lăng chỉ vào đám dũng sĩ dưới chân núi dưới sự chỉ huy của Bả tổng (Bả tổng còn được gọi là Bách tổng), Sáo trưởng, Thập trưởng lúc thì hợp, lúc lại tách ra, và nói:
- Đây là lí do ta không cho phép các vị xuống núi, mạnh tay để quan tá cấp dưới lĩnh binh độc lập.
Trước tới nay, trong mắt các ngươi, đám sĩ quan chỉ là một đám hò hét, phụ trách truyền đạt mệnh lệnh của các ngươi, chứ không có năng lực chỉ huy tác chiến độc lập, cũng không có can đảm chỉ huy tác chiến độc lập. Do đó, nhân vật từ Đại tướng trở lên cực kỳ trọng yếu trong quân đội, vì vậy mới có câu như “lâm trận không thể đổi tướng” hay “ba quân không thể mất soái”.
Ta lại nghĩ rằng, một tướng quân chỉ dựa vào danh vọng và dũng khí cá nhân để cổ vũ sĩ khí toàn quân, là tướng quân thất bại nhất. Ngươi xem, ở trên này, liếc qua là có thể thấy hành tung, tiến thoái của các đội ngũ ngay. Ngươi thân là tướng quân, tùy thời có thể biết quân mình đang ở đâu, chỗ nào chiến thắng, chỗ nào chiến bại; tùy thời có thể phát lệnh, điều khiển hoặc điều chỉnh, phân phối sức mạnh toàn quân.
Nếu ngươi tự mình xông lên phía trước, đừng nói thân là người trong cuộc ngươi không thấy được biến hóa của cuộc chiến giữa hai phe địch ta, mà ngay cả thủ hạ của ngươi muốn xin ngươi đứng ra chỉ huy cũng không tìm thấy ngươi đâu. Một khi ngươi chết trận sa trường, toàn quân sẽ chia năm xẻ bảy, cho dù đông gấp mười lần địch quân, cũng chỉ có thể mặc cho người ta xâu xé. Đấy là do binh sĩ vô năng, hay là lỗi của tướng lĩnh?
Liên mặt rỗ lập tức nghẹn lời. Dương Lăng lại nói:
- Người làm Đại tướng, ta không cần ngươi phải “thiên nhân trảm, vạn nhân địch” (chém ngàn người, địch nổi vạn người). Chỉ cần ngươi có thể đứng giữa chỉ huy, biết cách điều động, ngươi có bản lĩnh bồi dưỡng quan tá, tiểu hiệu dưới quyền của ngươi ai nấy đều trở thành ”thiên nhân trảm, vạn nhân địch” thì đó mới là cái tài của thượng tướng, đó mới là một đội quân bách chiến bách thắng.
Những đạo lý lẽ ra rất đơn giản này lọt vào tai đám tướng lĩnh vốn chưa từng ý thức được tác dụng của bọn tiểu tốt, thật sự đã trở thành thứ đạo lý mới mẻ vô cùng. Có mấy người từ lính trơn đi lên tướng quân lĩnh hội nhanh nhất, nghe xong không ngừng gật đầu lia lịa. Dương Lăng nhìn vẻ mặt hưng phấn tin phục của họ, không khỏi thầm tiếc: “Đáng tiếc mình không ở trong quân đội, nếu không viết quyển ‘Luận ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng cơ sở quân đội ‘, tương lai không chừng có thể truyền lại thành bản ‘Dương Tử binh pháp’ chứ chẳng chơi.”
Hắn uống ngụm trà, nheo mắt lại nhìn một mảnh rừng cây bên sườn núi đối diện. Nơi đó địa thế khá là thấp, cây cối trong rừng cũng không rậm rạp, nhưng nhìn hồi lâu lại chẳng thấy trong rừng có một bóng người nào, Dương Lăng không khỏi nở nụ cười hài lòng.
Dương Lăng điều ra ba trăm người trong đám thân quân và đội Đốc Chiến của mình, sai đám Dương Nhất Thanh, Hàn Lâm, Hàn Vũ dẫn những người này vào rừng huấn luyện. Trải qua hơn mười ngày huấn luyện khổ cực, xem ra đã có hiệu quả rồi.
Bản lĩnh lục soát, ám sát, và bố trí mai phục của Dương Nhất Thanh thuộc loại nhất lưu. Cha con nhà họ Hàn võ nghệ còn cao minh hơn Dương Nhất Thanh, hơn nữa quanh năm săn bắn trong núi, quả thực chính là cao thủ trời sinh để chiến đấu ở vùng núi cây cối. Bản lĩnh làm cơ quan mai phục, lần theo dấu vết quả là xuất thần nhập hóa. Có ba người bọn họ dạy, tin rằng không được bao lâu, có thể huấn luyện ra một đội tinh binh đặc chủng.
Dương Lăng đã yêu cầu Nam Trấn Phủ ty đặc biệt cung cấp một mớ quân giới chuyên dụng của Cẩm Y Vệ dùng để lùng bắt và ám sát. Hắn dụng tâm nhìn vào vùng núi, tiếp tục nói:
- Để quân sĩ luyện tập thêm hai ngày nữa, chờ bọn họ thuần thục thêm một chút, sẽ đến lượt các vị ra tay. Đến lúc đó, các vị lĩnh một đội, dùng đối phương làm quân địch giả, luyện tập hành quân bày trận như thế nào, điều binh khiển tướng ra làm sao, để bọn họ có kinh nghiệm chiến đấu thực tế nhiều hơn một chút.
Các vị tướng quân, muốn điều binh khiển tướng, chẳng những cần quen với binh tướng thủ hạ ngươi, còn phải hiểu rõ thực lực của quân địch và bản thân. Chiến đấu chính thức trên chiến trường không thấy được rõ ràng như chỗ này đâu. Do đó, tác dụng của trinh sát là không nhỏ chút nào.
Y nhớ tới trận đại hỗn chiến tại Hồ Lô Cốc ở Kê Minh Dịch, lần đó toàn quân suýt nữa bị tiêu diệt, không khỏi vô cùng cảm khái nói:
- Một trinh sát tốt, có khi có thể đáng giá cả thiên quân vạn mã, một tin tức của họ có thể quyết định thắng bại của một trận chiến. Trên đời, loại người liệu sự như thần, nhìn thấu tiên cơ như Gia Cát Lượng cũng chỉ có thể ngộ chứ không thể cầu được.
Quan thủ bị cười nói:
- Đại nhân nói rất đúng. Huống hồ, cho dù là Khổng Minh tiên sinh, cả đời cũng có lúc tính sai. Mấy người dốt nát như chúng ta lại càng kém hơn nhiều.
Các tướng nghe xong đều cười ha hả. Lúc này, một tên binh lính lao vào. Dương Lăng quay đầu nhìn, thấy đó là anh vợ Hàn Uy của mình. Y lập tức khẽ gật đầu với mấy vị tướng tá rồi đi theo Hàn Uy ra ngoài.
Hàn Uy sau khi đưa thê tử hồi kinh cũng gia nhập quân đội. Tuy nói thời này “trai tốt không đi lính”, nhưng dù sao so với việc săn bắn hoặc làm dịch tốt thì địa vị vẫn cao hơn. Huống hồ, quân lương của doanh trại kinh sư chẳng những là cao nhất trong quân đội Đại Minh, mà chủ soái quân đội còn là em rể của y.
Dương Lăng đi theo y đến dưới một tàng cây, rồi hỏi:
- Đại ca, huynh đã nghe ngóng được gì rồi?
Hàn Uy nói:
- Chuyện này rất ư kỳ quái. Chứng cứ mà muội phu tra được có ghi Bào Tận Thẩm bán trộm súng và hỏa dược, thậm chí bán cho nhà nào, bán bao nhiêu cân lượng cũng đều ghi rõ rành rành. Rõ ràng đã trình vào cung rồi, nhưng bây giờ Bào Tham tướng và Lưu Đô ty bị giam vào ngục cũng chỉ công khai tội danh là tham ô, bọn chúng vẫn sống yên lành.
Người Dương Lăng thoáng run lên, vừa ngạc nhiên vừa phẫn nộ, nói:
- Cái gì? Chúng vẫn còn sống sao? Rốt cuộc bọn chúng đã chạy chọt cửa nào mà đến cả tội danh này cũng có thể che đậy thế?
Hàn Uy lắc đầu, nói:
- Tấu chương của muội phu là trình cho Hoàng Thượng, nhưng Ngự sử của Giám Sát viện Thập Tam Đạo và Cấp sự trung của Lục khoa chẳng biết dùng phương pháp gì mà biết được nội dung. Thế là ngươi một quyển ta một quyển, mỗi ngày đều dâng sớ, Hoàng Thượng cũng không có phản ứng gì.
Dương Lăng trầm tư hồi lâu, rồi quả quyết nói:
- Không được, ta phải hồi kinh xem sao. Đường cô nương sống chết chưa rõ, ta không thể nhìn hung thủ nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật!
Hàn Uy giật mình nói:
- Lúc này mà về kinh, muội phu lại là chủ soái, tự tiện ly khai đại doanh nếu lại để người ta biết được, coi chừng sẽ bị hạch tội đó.
Dương Lăng nói:
- Không sao, hai ngày qua cũng sắp dùng hết đạn dược rồi. Hoàng Thượng ban cho đệ Song Hổ phù, muốn điều động đạn dược là có ngay, đệ tiện đường đi tới Bộ binh là được.
Đêm ngày hai mươi tám tháng tư, kinh sư chìm trong cơn mưa lớn.
Đây là cơn mưa lớn đầu tiên sau đợt hạn hán kéo dài, từ buổi trưa kéo đến tận lúc màn đêm phủ xuống. Mưa như trút nước. Trên đường mù mịt không một bóng người, những tảng đá lót đường được nước mưa rửa sạch bong, phản chiếu ánh sáng lờ mờ của những ngọn đèn lồng chập chờn dưới vài ba căn gác. Hai thớt thiết kỵ chạy nhanh như gió lốc, xuyên qua màn mưa vào kinh thành.
Hai kỵ sĩ trên lưng ngựa khoác áo tơi, khẽ cúi người né làn mưa như trút, con tuấn mã khoẻ mạnh xuyên qua làn mưa lướt trên đại lộ. Những gợn sóng nước do những chiếc vó ngựa to bằng cái bát bắn lên trong nháy mắt đã bị cơn mưa lớn xóa nhòa, rào rào chảy xuống, chẳng lưu lại chút dấu vết nào.
Đông An môn, Bắc Trấn Phủ ty, Thiên hộ Vu Vĩnh đang ngồi trên ghế uống trà, cười tủm tỉm nhìn chăm chú nước mưa xâu lại thành từng dòng trút xuống mái hiên, trông như một tấm rèm. Đầu năm nay gã đã mua được ba khoảnh ruộng tốt ở gần kinh thành. Năm nay mãi mà chưa có mưa to, còn tưởng rằng lúc này muốn thất thu rồi. Ông trời quả có mắt, nhìn trận mưa dầm dề này, mặt đất khô nứt nẻ được giải khát rồi.
Hắn đang cười tủm tỉm trầm ngâm tính toán, đột nhiên hai nam tử khoác áo tơi xuyên qua màn mưa vội vã xông vào đại sảnh. Nước mưa từ người hai người chảy xuống ròng ròng, thành một dòng suối nhỏ. Vu Vĩnh ngước mắt nhìn, thờ ơ hỏi:
- Chuyện gì mà gấp vậy? Trời mưa như trút nước mà cũng không được yên à?
Dương Lăng ngẩng đầu, nhìn thấy tên Thiên hộ mặc cẩm y cầu kỳ, chân bắt chéo chính là tên hậu duệ quí tộc tóc vàng người Đức mà mình gặp lần trước. Y vừa cởi áo tơi xuống vừa cười, nói:
- Nguyên lai là Vu đại nhân. Ha ha, sao hôm nay lại là đại nhân trực thế?
Vu Vĩnh thấy người vừa cởi áo tơi xuống mặc một thân y phục của binh sĩ bình thường, khuôn mặt anh tuấn gầy gò, mấy lọn tóc còn dính nước mưa, khuôn mặt bị nước mưa làm ướt nhẹp, nhưng lại nhất thời không nhớ nổi y là ai, không khỏi nghi hoặc hỏi:
- Ngươi là người của Bộ binh à? Chuyện gì mà tự tiện xông vào Trấn Phủ ty nha môn của ta vậy?
Dương Lăng cười nói:
- Vu đại nhân đúng là quý nhân hay quên mà. Huynh đệ là Dương Lăng, đại nhân còn nhớ chứ?
Vu Vĩnh “a“ lên một tiếng, thoáng cái đã nhớ ra. Nhân vật một thời phong vân gần đây, gã sao mà không nhớ chứ. Vu Vĩnh cười bồi, nói:
- Nguyên lai là Dương đại nhân. Thất lễ, thất lễ. Sao... sao đại nhân lại mặc trang phục như thế này?
Dương Lăng cười khà khà nói:
- Mặc bộ y phục này hồi kinh tiện hơn. Phải rồi, Mưu đại nhân có ở đây không?
Y hỏi chính là Bắc Trấn Phủ ty Trấn Phủ sứ Mâu Bân. Vu Vĩnh là người quen biết luồn cúi, biết người mặc trang phục binh sĩ Cẩm Y Vệ ở trước mặt là tâm phúc của Trương Đề đốc, Mâu đại nhân và chưởng hình Thiên hộ Tiền đại nhân cũng phải kính lễ ba phần, vội hỏi:
- Không may, sáng sớm Mâu đại nhân đã dẫn theo Tiền đại nhân ra ngoài, đến giờ vẫn chưa trở về. Chẳng biết đại nhân có chuyện gì sai phái, có lẽ ty chức có thể cống hiến sức lực.
Dương Lăng nghe xong hơi thất vọng. Việc này hắn không tiện nói với Vu Vĩnh, đành phải thuận miệng nói:
- À, cũng không có gì. Bản quan hồi kinh xử lý công vụ, thuận đường đến thăm hai vị đại nhân.
Vu Vĩnh cười hì hì nói:
- Đại nhân đã có lòng. Bây giờ mưa còn chưa dứt, hay là đại nhân ngồi xuống uống chén trà nóng, không biết chừng trong chốc lát hai vị đại nhân sẽ... Ồ, thật khéo, đại nhân đã trở về rồi.
Dương Lăng quay đầu lại, chỉ thấy hai chiếc kiệu đang được khiêng vào sân, mãi đến tận hành lang mới dừng lại. Hai người mặc trang phục Phi Ngư (cá chuồn) từ trong kiệu vội vã chui ra, bước nhanh vào sảnh. Dương Lăng vội tiến lên phía trước hành lễ:
- Ty chức Dương Lăng, ra mắt đại nhân.
Trấn Phủ sứ Mâu Bân thần sắc nghiêm trọng, căng thẳng sải bước đi vào, trông thấy Dương Lăng thì không khỏi ngẩn người, ngạc nhiên hỏi:
- Ngươi sao lại hồi kinh? - Rồi không đợi y trả lời, lập tức bảo:
- Về đúng lúc lắm, mau theo ta vào phòng nói chuyện.
Dương Lăng thấy Tiền Ninh đi theo phía sau Mưu Bân cũng lộ thần sắc kinh hoàng, thậm chí quên cả chào hỏi y, không biết đã xảy ra chuyện lớn gì, tâm tình cũng vì vậy trở nên khẩn trương, liền vội khoát tay bảo Hàn Uy tạm thời nán lại, rồi đi theo Mâu Bân vào thẳng thư phòng.
Mâu Bân vừa vào thư phòng lập tức cầm lấy bút đặt trên án thư vội vàng viết vài hàng chữ, lấy ấn ra đóng lên, rồi đưa cho Tiền Ninh, nói:
- Nhanh, ngươi lập tức sai người dùng khoái mã chạy tới Thiên Tân vệ, mời Trương đại nhân lập tức hồi kinh!
Tiền Ninh dạ một tiếng, tiếp nhận tờ giấy rồi vội vàng chạy ra ngoài. Dương Lăng không khỏi vội kêu lên:
- Đại nhân, rốt cuộc xảy ra chuyện gì, sao vẻ mặt lại căng thẳng như vậy?
Mâu Bân bồn chồn, lo lắng nói:
- Dương Đồng tri, tình hình cụ thể một hồi nữa sẽ nói sau. Đêm nay ngươi cần phải chạy suốt đêm về quân doanh, e rằng ý chỉ sai ngươi phải dẫn quân về kinh sẽ đến ngay đó. Hoàng Thượng... Trong lúc tảo triều, Hoàng Thượng đã ngất ngay trên triều, đến giờ mới tỉnh. Ta luôn chờ ở trong cung, xem tình hình. Lần này Hoàng Thượng người... người sợ là không hay rồi.