Năm Khai Bình thứ ba mươi mốt, tháng ba.
Từ năm ngoái, Thái Hậu bệnh tật liên miên, suốt một thời gian dài không gượng dậy nổi. Đến Tết thì sức khỏe Thái Hậu khởi sắc, Triệu Phụ mừng rỡ khôn cùng, ban thưởng lớn cho viện Thái Y; chẳng ai nghĩ rằng đó chỉ là hồi quang phản chiếu. Đến tháng ba, Thái Hậu ốm liệt giường. Qua ngày mười chín thì Thái Hậu băng.
Lúc Thái hậu băng hà, Triệu Phụ đang tu luyện trong đài Đăng Tiên.
Những lúc tu tiên, Triệu Phụ tuyệt đối không cho phép ai quấy rầy. Từ khi đài Đăng Tiên được xây dựng, ngoài các đại thần, nguyên soái nhất phẩm ra, chỉ có nhóm tâm phúc như Vương Trăn là được phép ra vào.
Hôm ấy, Triệu Phụ đương khoanh chân tĩnh tọa giữa vòng đèn Trường Minh, hô hấp thổ nạp, vận chuyển chu thiên. Ngoài đài Đăng Tiên, bất chấp trời tối mịt mờ, có một thái giám cầm cây phất trần hớt hải chạy đến. Tiểu thái giám canh ngoài đài Đăng Tiên trông vậy thì biết là có chuyện chẳng lành. Người Thái giám kia chính là Uông Kỳ – Thủ lĩnh Thái giám ở cung Duyên Phúc.
Đến giờ phút này thì chẳng còn ai quan tâm đến việc thông báo trước. Uông Kỳ xông thẳng vào đài Đăng Tiên, thảng thốt kêu: “Bệ hạ, bệ hạ, Thái hậu không dậy được nữa rồi.”
Triệu Phụ mở mắt, liếc nhìn Uông Kỳ một cái rồi bật dậy, tức tốc sang cung Duyên Phúc.
Hoàng đế túc trực ở cung Duyên Phúc suốt cả đêm. Trước khi trời kịp sáng, Thái hậu đã trút hơi thở cuối cùng. Triệu Phụ nắm tay Thái hậu, ngơ ngác nhìn bà cụ gầy yếu hom hem nằm trên giường. Cung Duyên Phúc chìm trong tiếng khóc than, dù thật lòng hay giả dối, toàn thể thái giám, cung nữ trong cung đều sụp xuống rơi lệ.
Trái lại, Triệu Phụ không nhỏ một giọt nước mắt, ông chỉ ngồi đó nhìn Thái hậu thôi.
Gần nửa canh giờ sau, đến khi bầy thái giám, cung nữ cạn hết nước mắt, Triệu Phụ mới vươn tay gọi Quý Phúc.
“Thái hậu đi rồi à?” Hoàng đế nghẹn ngào.
Hầu hạ Triệu Phụ suốt bao năm nay, thấy hoàng đế như vậy, Quý Phúc bỗng thấy xót xa. Lão khóc: “Quan gia, Thái hậu băng rồi.”
Triệu Phụ hít sâu một hơi, bật khóc nức nở.
Màn đêm buông xuống, tám hồi chuông nguyện hồn vang vọng trong cung cấm.
Lục vương gia Triệu Ngao được gọi vào cung. Đến cung Duyên Phúc, Triệu Ngao phát hiện nơi đây đã vắng bóng kẻ hầu người hạ tự bao giờ, chỉ còn Triệu Phụ một mình ngồi canh bên di hài Thái hậu. Triệu Ngao vỡ òa, người nằm trên giường kia chính là sinh mẫu của ông!
“Mẫu hậu!”
Thái hậu băng hà, cả nước để tang, nghỉ triều năm ngày.
Tất cả các quan đều phải mặc áo sô gai và cầu nguyện cho Thái hậu. Về phần mình, hoàng đế lưu lại cung Duyên Phúc chép kinh Phật. Cảnh vương Triệu Ngao là vương gia duy nhất còn sống và là em trai ruột của Triệu Phụ, nên cũng ở lại chép kinh cùng.
Tới tối, Triệu Phụ quá mệt mỏi bèn đi ngủ trước. Đến nửa đêm tỉnh lại, Triệu Phụ phát hiện Triệu Ngao vẫn cặm cụi chép kinh trên bàn.
Triệu Phụ lặng yên quan sát hồi lâu. Triệu Ngao cảm nhận được ánh mắt của ông ta bèn nhìn sang, rồi lập tức đứng dậy, hành lễ: “Bái kiến hoàng huynh.”
Triệu Phụ khoát tay: “Chớ đa lễ vậy.”
Triệu Ngao rơm rớm nước mắt: “Hoàng huynh…”
Triệu Phụ kéo ghế đến trước chiếc bàn Triệu Ngao đang ngồi, lâu lắm rồi ông mới lại trò chuyện thân tình với Triệu Ngao thế này. Ông hồi tưởng vô số chuyện khi còn bé, hầu hết là những việc liên quan đến Thái hậu.
Triệu Phụ: “Năm xưa, Hiếu Kính hoàng hậu được tiên đế sủng ái tột bậc. Hoàng đệ chắc không biết, cái đêm mẫu hậu trở dạ sinh đệ, người đã gọi tiên đế tới. Tiếc thay, Hiếu Kính hoàng hậu bất chợt bị cảm, trong người mệt mỏi khó chịu, thế là tiên đế liền sang cung Thanh Ninh thăm bà ấy. Lúc ấy, mẫu hậu đã kiệt sức, không cách nào hạ sinh nổi đệ. Vậy mà nghe cung nữ bẩm chuyện ấy xong, người bỗng trở nên mạnh mẽ lạ thường, nhờ đó mà đệ mới được chào đời đấy.”
Triệu Ngao: “Hiếu Kính hoàng hậu đối xử rất tốt với huynh đệ chúng ta. Hoàng huynh, đệ không ngờ từng có chuyện như thế.”
Triệu Phụ nở nụ cười: “Không phải lỗi của Hiếu Kính hoàng hậu đâu. Tiên đế là người thế nào, đệ còn lạ gì nữa?”
Triệu Ngao cúi đầu làm thinh.
Triệu Phụ dám chỉ trích tiên đế, còn ông ta thì không, bởi ông ta không phải hoàng đế.
Triệu Phụ lại nói: “Nhớ hồi đệ sáu tuổi, trẫm chín tuổi, Triệu Tuyền dẫn huynh đệ chúng ta ra ngoại ô kinh thành săn bắn.”
Nghe đến cái tên ấy, mắt Triệu Ngao máy một cái, không dám thở mạnh.
“Triệu Tuyền săn cho trẫm một con hươu bé, săn cho đệ một con thỏ con. Giờ ngẫm lại, chẳng phải tự nhiên mà tiên đế thích Triệu Tuyền. Hắn là hoàng tử độc nhất của Hiếu Kính hoàng hậu, lại thông minh cơ trí, mạnh mẽ oai phong, mười hai tuổi đã kéo được cây cung năm thạch. Hồi ấy, đệ suốt ngày bám theo sau hắn gọi ‘Thái tử ca ca’, dường như quên luôn rằng trẫm mới là anh ruột của đệ.”
Triệu Ngao khiếp đảm, thiếu điều quỳ mọp xuống. Ông ta sợ sệt thanh minh: “Thần đệ chưa bao giờ dám nghĩ vậy!”
Triệu Phụ thấy Triệu Ngao tá hỏa như vậy thì vẫy tay: “Ôi chao, ngồi xuống đi, có gì đâu mà sợ. Ngày ấy có ai không thích Triệu Tuyền? Trẫm cũng thích hắn kia mà. Trẫm nào có khác gì đệ, suốt ngày đứng ngóng ở cửa điện Hàm Tượng, từ sáng chí tối chỉ trông về hướng tây, nghĩ xem bao giờ Triệu Tuyền sẽ đi từ cung Thanh Ninh tới để dắt trẫm đi chơi.”
Sự lúng túng của Triệu Ngao khiến Triệu Phụ thầm khinh rẻ, rồi bất giác thở dài.
Tự dưng ông ta không biết phải nói gì với Triệu Ngao nữa.
Ông ta có quá nhiều điều muốn nói, nhưng người huynh đệ một thuở kia đã bị chính tay ông ta bắn chết, xác ghim trên cổng Tuyên Võ, rồi lại bị chính ông ta phao tin là qua đời trên giường vì “bệnh nặng nguy kịch”. Triệu Ngao là một đứa em ngu xuẩn, ngu xuẩn đến nỗi Triệu Phụ chẳng buồn hãm hại. Nhưng giờ đây, khi Thái hậu đã băng hà, ông ta chỉ còn mỗi mình Triệu Ngao mà thôi.
Nếu Thái hậu còn sống để nghe những lời ông giãi bày hôm nay, liệu Thái hậu sẽ nói gì với ông đây?
Triệu Phụ trầm ngâm suy nghĩ.
Rất lâu sau, ông ta đứng dậy, cất giọng lạnh nhạt: “Chép kinh tiếp đi.”
Đây mới đúng là vị hoàng đế mà Triệu Ngao quen thuộc. Cảnh vương gia thở phào nhẹ nhõm, lau mồ hôi trên trán, cung kính thưa: “Vâng.”
Hoàng cung vẫn không ngớt tiếng khóc bi ai. Các phi tần đều rơi lệ xót thương cho Thái hậu, bọn thái giám, cung nữ cũng sụt sùi theo.
Ngoài cung, trăm quan mặc áo tang tưởng niệm Thái hậu.
Trong phủ Tả tướng, Tả tướng Kỷ Ông Tập đang đọc một phong thư. Lát sau, phu nhân Tả tướng bưng bát xúp được hầm kĩ tiến vào thư phòng. Tả tướng và phu nhân nhìn nhau cười.
Kỷ tướng nắm bàn tay thô ráp của vợ, dịu dàng nói: “Phu nhân vất vả rồi.”
Kỷ phu nhân hiền hậu hỏi: “Thư của Bá An đấy hả mình?”
“Ừ, thư của Bá An. Nó vừa đến Tần châu thì mắc phong hàn, lúc đỡ lúc không mãi tới giờ mới khỏe hẳn, bèn viết thư nhắn tôi an lòng.” Kỷ Ông Tập nói, “Mình đi ngủ đi kẻo lại mệt.”
Kỷ phu nhân đáp: “Em chẳng tài nào an giấc nổi. Mới năm ngoái, em với các cáo mệnh phu nhân khác còn tiến cung diện kiến Thái hậu. Thái hậu hiền từ và ân cần lắm, hết lòng tử tế với chúng em. Nào ngờ chưa đầy một năm, Thái hậu đã băng rồi.”
Kỷ Ông Tập: “Có người còn khó ngủ hơn cả mình đấy.”
Kỷ phu nhân: “Ơ?”
Kỷ tướng nở nụ cười bí ẩn trên gương mặt già nua. Kỷ phu nhân nhìn là biết chồng lại trêu mình. Bà như trở về thuở thiếu nữ trăng tròn, e thẹn ngả lên vai Kỷ tướng, thủ thỉ: “Sao mình chẳng nói hẳn ra?”
Kỷ Ông Tập không trả lời, chỉ điềm nhiên bảo: “Dù làm việc thiện hay việc ác, con người đều không sợ bị cả thiên hạ biết việc mình làm, mà chỉ sợ không có ai sát cánh với mình thôi.”
Kỷ phu nhân nghe mà ngơ ngác chẳng hiểu sao.
Kỷ tướng thở dài thườn thượt: “Đêm nay tôi xem tinh tượng, thấy mấy ngày tới e vẫn phải nghỉ triều. Phu nhân hãy chuẩn bị cơm nước thêm dăm hôm nữa nhé.”
Hoàng đế để tang cho Thái hậu, nghỉ triều năm ngày. Ngờ đâu năm ngày trôi qua, vì ưu sầu quá đỗi, Triệu Phụ cũng ngã bệnh theo.
Trận ốm đấy kéo dài suốt nửa tháng.
Ở tít tận U châu, đương nhiên Đường Thận không nắm được tin tức, song chuyện Thái hậu băng hà vẫn có ảnh hưởng đến quan viên địa phương như bọn họ. Thái hậu đột ngột băng hà đúng lúc Phủ doãn U châu định mở tiệc thết đãi Đường Thận và Tô Ôn Duẫn. Trong tình huống ấy, quan chức Đại Tống còn ai dám chè chén tiệc tùng?
Sang tháng tư, Phủ doãn U châu Quý Triệu Tư mới khoản đãi Đường Thận và Tô Ôn Duẫn ở phủ nha được.
Tuy Phủ doãn U Châu là quan tứ phẩm, nhưng từ ngày xưa, hồi Đường Thận mới là Khởi cư lang ngũ phẩm, các quan cỡ Quý Triệu Tư đã thua xa cậu rồi. Cậu không trực thuộc đại doanh U châu, cũng không liên quan đến ty Ngân dẫn. Trước đây, Quý Triệu Tư chỉ cần lấy lòng doanh trại U châu là đủ, giờ mọc ra thêm ty Ngân dẫn, tự dưng ông ta lại bị kẹp ở giữa, xoay bên nào cũng không xong.
Gặp Đường Thận và Tô Ôn Duẫn, Quý Triệu Tư vồn vã chào hỏi: “Hạ quan Quý Triệu Tư xin bái kiến Hữu thị lang đại nhân và Trung thư xá nhân đại nhân.”
Tô Ôn Duẫn và Đường Thận cùng ngồi xuống.
Quý Triệu Tư rót đầy hai chén mời bọn họ. Tô Ôn Duẫn cười nhẹ: “Ta đợi mãi mới được dự bữa tiệc này của Quý đại nhân đấy.”
Nghe thế, Đường Thận liếc anh ta một cái.
Quý Triệu Tư đảo mắt, nói: “Hạ quan nóng lòng muốn mở tiệc chiêu đãi hai vị đại nhân đã lâu, chẳng ngờ Thái hậu đột ngột băng hà, hạ quan đau lòng khôn xiết, không còn lòng dạ đâu mà bày tiệc, chỉ muốn thành tâm để tang cho Thái hậu thôi.”
Tô Ôn Duẫn và Đường Thận đều là tâm phúc của hoàng đế, nên Quý Triệu Tư nói năng hết sức cẩn thận. Lão chẳng trông chờ hai ngài nói tốt về mình trước hoàng đế, chỉ cần hai ngài chớ buông lời đâm thọc là lão đã thỏa mãn lắm rồi.
Trong bữa tiệc, Quý Triệu Tư nhiệt tình rào đón: “Hai vị đại nhân lần đầu ghé thăm U châu, nghe nói Đường đại nhân còn là người Cô Tô nữa. Ẩm thực phương nam khác với ẩm thực phương bắc đã đành, những món ngon ở U châu còn khác hẳn những món ngon miền bắc nói chung. Xin mời đại nhân nếm thử món dê nướng nguyên con này…”
Đường Thận ngó món dê nướng nguyên con, lẩm bẩm: “Sư huynh thích ăn món này lắm đấy.”
Mắt Quý Triệu Tư sáng ngời: “Vương tướng công thích ăn dê nướng nguyên con kiểu U châu thật ấy ạ? Thế mà hạ quan chẳng hề hay biết. Mấy năm trước Vương tướng công đã từng đến U châu, mỗi tội Vương đại nhân bận bịu suốt nên hạ quan chưa có cơ hội được diện kiến, đâm tiếc nuối mãi.”
Tô Ôn Duẫn khinh thường: “Đường đại nhân hiểu Vương đại nhân quá nhỉ.”
Đường Thận nhìn anh ta: “Tình cảm của ta với sư huynh vô cùng sâu sắc.”
Tô Ôn Duẫn mỉa mai rất thâm: “Sâu sắc ấy à, tình cảm kiểu gì mà sâu sắc thế? Nói mới nhớ, Vương đại nhân hình như đã hai mươi chín cái xuân xanh rồi, thế mà mãi chẳng thấy thành gia…”
Đường Thận cả giận, gác đũa, lạnh lùng nói: “Tô đại nhân, đặt điều sau lưng người khác chẳng hay hớm gì đâu.”
Tô Ôn Duẫn cười khẩy: “Đặt điều ư? Chả chắc.”
Quý Triệu Tư trợn mắt, sợ toát mồ hôi. Chỉ thấy Tô Ôn Duẫn cũng gác đũa, cãi cọ nảy lửa với Đường Thận. Hai người bọn họ ăn miếng trả miếng, châm chọc đối phương không tiếc lời. Cuối cùng, bữa tiệc kết thúc trong hậm hực. Lúc gần về, Tô Ôn Duẫn nói với Quý Triệu Tư: “Quý đại nhân, buổi tiệc hôm nay khá lắm, phải tội khách khứa chẳng ra gì.” Nói rồi, anh ta phất tay áo bỏ đi thẳng.
Đường Thận nói: “Quý đại nhân, xin được cáo từ.”
Hai người mạnh ai nấy về, bỏ lại Quý Triệu Tư hoang mang ngơ ngác. Lão ta quýnh lên, không biết rốt cuộc mình sai ở đâu mà khiến hai đức ngài cãi cọ ầm ĩ ngay trước mặt mọi người trong buổi tiệc mình tổ chức.
“Chẳng lẽ chuyện người ta đồn là thật? Tô Phỉ Nhiên và Đường Cảnh Tắc xưa nay bất hòa, Vương đảng và Tô đảng là địch thủ? Hầy, biết thế mình đã chẳng mời cả hai người bọn họ cùng một bữa! Nhưng nhỡ mời một người xơi tiệc trước, người kia lại thù mình thì sao?”
Quý Triệu Tư sầu muộn đến hói cả đầu.
Làm Phủ doãn đã khó, làm Phủ doãn U châu càng vất vả hơn!
Vào khuya, phòng Đường Thận tắt đèn tối om. Ngoài cửa, Lư Thâm ôm trường kiếm đứng gác.
Lúc trở về dịch quán, Đường Thận đã nói với Lư Thâm: “Tối nay bản quan uống say, phiền Lư tướng quân gác đêm hộ.”
Lư Thâm tức trợn cả mắt mà không cự cãi được, đành phải đứng gác cho Đường Thận.
Màn đêm đen thẳm tĩnh mịch, lác đác vài ngôi sao.
Lư Thâm khép hờ đôi mắt, cất tiếng ngáy nhè nhẹ. Bất chợt, hắn ta nghe loáng thoáng tiếng ồn ào. Lư Thâm mở bừng mắt, nhìn về hướng phát ra âm thanh. Lát sau, chỉ thấy đúng một con chuột lỉnh ra từ bụi cây hoa. Lư Thâm quan sát một chốc rồi lại nhắm mắt vào. Ngay sau đó, hắn đột ngột tuốt kiếm, đâm thẳng vào người xông đến.
Tô Ôn Duẫn trong bộ trang phục tối màu giật mình, nghiêng đầu né kiếm. Lưỡi kiếm sượt qua, cứa đứt chút tóc bên trán anh ta.
Tô Ôn Duẫn gằn giọng quát: “Láo xược!”
Lư Thâm đương nhiên đã nhận ra Tô Ôn Duẫn, nhưng sẵn có mối thù với quan văn từ xưa đến nay, hắn mới vờ như không phát hiện ra, cố tình muốn giết Tô Ôn Duẫn.
Đúng lúc ấy Đường Thận mở cửa, nói: “Không phải đánh.”
Lư Thâm hừ một tiếng hằn học, thu bảo kiếm về.
Đường Thận ra lệnh: “Lư tướng quân, ngươi hãy đi một mình ra giếng múc nước cho ta, ta muốn rửa mặt.”
Lư Thâm lạnh lùng lườm Đường Thận một cái rồi mới đi múc nước. Đường Thận bảo: “Ta sai ngươi đi một mình thì ngươi chỉ được đi một mình thôi, cấm để ai phát hiện.”
Bước chân Lư Thâm chững lại giây lát, rồi mới tiếp tục đi.
Phía sau, Tô Ôn Duẫn đi vào phòng Đường Thận. Vừa vào tới nơi, Tô Ôn Duẫn đã vặn hỏi: “Đường đại nhân thậm khéo, biết tối nay bản quan đến nên ra lệnh cho đức ôn thần trấn ngoài cửa đấy hả?”
“Lư tướng quân được phái đến bảo vệ cho hạ quan, hạ quan sai y canh ngoài cửa thì có gì sai?”
“Đường Cảnh Tắc, ngươi đừng có vờ vĩnh!”
Mặt Đường Thận lạnh tanh, đập bàn quát: “Tô Ôn Duẫn! Diễn thì cứ việc diễn, sao phải lôi sư huynh của ta ra để châm ngòi? Trước giờ chính kiến của sư huynh ta và ngươi luôn mâu thuẫn, nhưng ngươi không được phép bôi nhọ danh dự của huynh ấy! Dù bây giờ huynh ấy không ở đây, ta cũng cấm ngươi đặt điều xằng bậy về huynh ấy ngay trước mặt ta!”