Hai năm sau, Tương Tây.
Thần Côn ra khỏi cửa sân bay, vừa liếc mắt đã nhìn thấy hai Thẩm tới đón mình.
Đã hai năm rồi nhưng hai người này cũng chẳng thay đổi gì mấy, vẫn như vũ, một cao lớn, một gầy nhỏ, một người đầu trọc, một người tóc dày, một người giơ bảng đón khách, một người ôm hoa hoan nghênh.
Thần Côn nghi ngờ là Thẩm Vạn Cổ cố tình bảo Thẩm Bang ôm hoa – vóc người Thẩm Bang nhỏ, đầu cũng nhỏ, bó hoa thì to, Thẩm Bang ôm như vậy, đầu cơ bản là không loa ra được.
Hai người vừa trông thấy Thần Côn đã ba chân bốn cẳng chạy vội tới trước mặt lão, bô bô một trận, cơ bản là không cho Thần Côn cơ hội lên tiếng.
Thẩm Vạn Cổ nói: “Nội Côn, nội tới rồi, cô Mạnh đã tới được mấy ngày rồi.”
Thẩm Bang nói: “Anh Liễu cũng ở thành cổ Phượng Hoàng đấy, một ngày nhắc tới nội ba lần, nói đợi nội qua rồi sẽ mời nội uống rượu lâu năm. Nội Côn, hai năm qua nội bận gì thế?”
Đã hai năm rồi Thần Côn chưa gặp Mạnh Thiên Tư.
Hai năm trước, Giang Luyện vào sống thang trời, trong nỗi đau đớn tột cùng, Mạnh Thiên Tư từng nỗ lực mở thang trời, song cô chịu kích thích quá lớn, luôn nhớ một quên hai không sao thực hiện được hoàn chỉnh thao tác của Bành Nhất, thử rất nhiều lần mà không thành công.
Vết thương mới vết thương cũ, cộng thêm nôn nóng công tâm, bị sốc nôn ra máu ngay tại chỗ, Mạnh Kình Tùng sợ đến mặt cắt không còn chút máu, sau khi ra khỏi ruột núi, khẩn cấp đưa Mạnh Thiên Tư đi Tây Ninh.
Đến lúc Thần Côn tới Tây Ninh, tham gia tang lễ của Đoàn Văn Hi, lại nghe nói Mạnh Thiên Tư ốm nặng, đã được đưa về Phường Quế Non.
Thân làm ngai vàng quỷ non mà đến tang lễ của Đoàn Văn Hi cô cũng không thể chủ trì.
Sau đó nữa, Thần Côn trở về tòa nhà ở trấn Hữu Vụ.
Tiển Quỳnh Hoa vẫn tiếp tục kèm núi ở Vân Lĩnh, thỉnh thoảng có đến thăm lão, lúc nhắc đến Mạnh Thiên Tư, Tiển Quỳnh Hoa đều than thở: “Tư thư nhi nhà chúng tôi trước đây không mấy để ý tới chuyện của quỷ non, giờ tiến bộ hơn nhiều rồi, báo cáo của cải cũng xem, sản nghiệp khắp nơi đều đi xem, bận rộn đến độ muốn gặp nó một lần cũng khó khăn.”
Còn nói: “Bận rộn cũng tốt, có thể phân tâm đi đôi chút, đỡ cho nó cứ nhớ mãi tới Giang Luyện.”
Thần Côn không tiếp lời, cũng không nói với Tiển Quỳnh Hoa rằng cứ cách nửa tháng, Mạnh Thiên Tư lại gọi cho lão một cuộc.
Mỗi lần đều hỏi lão cùng một câu hỏi.
Thần Côn, ông nghĩ ra được đầu đại hoang kia là như thế nào chưa?
Cô gửi gắm hi vọng vào Thần Côn, cảm thấy lão có ký ức của Bành Nhất, người tộc thần lại từng soạn “Đại hoang kinh”, nói không chừng Thần Côn có thể nhớ ra được đầu đại hoang là như thế nào.
Đáng tiếc là Thần Côn nghĩ mãi vẫn không ra, có một lần trò chuyện, lão nói với Mạnh Thiên Tư: “Cô Mạnh, tôi cảm thấy phương diện nhận thức về tự nhiên của người tộc thần tuy xa hơn chúng ta rất nhiều, nhưng nói đến ngoài trời, đại hoang thì cũng không tiên tiến hơn bao nhiêu đâu.”
Nếu không, lúc Bành Nhất vào thang trời, người xung quanh sao lại chỉ dám nhìn không dám tới gần như thế? Điều này chứng tỏ, kiến thức của chúng nó với đại hoang cũng chỉ nửa vời, tràn ngập sợ sệt.
Mạnh Thiên Tư trầm mặc một lúc rồi hỏi lão: “Tôi cũng là ‘phượng hoàng’, ngày đó, nếu như là tôi ở trên đài đá, là tôi châm lửa linh phượng hoàng, người vào đại hoang có khi nào đã là tôi rồi không?”
Thần Côn ậm ừ.
Ngày đó, vì lời tiên đoán, Mạnh Thiên Tư bị họ mạnh mẽ yêu cầu phải “tránh xa thang trời”, nếu cô cũng lên đài đá thì quả thật là khó mà nói được sẽ là ai châm linh phượng hoàng.
Trong suy nghĩ của Bành Nhất, linh phượng hoàng đáng ra phải là do đời sau của Bành thị mang từ trong động nước ra, như vậy, đời sau này chính là “phượng hoàng”, cũng là vật hiến tế tắm lửa khi xương rồng đốt rương – ông ta đại khái là không ngờ được rằng, phần lớn thời gian con người đều không chiến đấu một mình mà thường có bạn bè bên cạnh.
Mạnh Thiên Tư nói: “Tôi đoán cụ Đoàn cũng là ‘phượng hoàng’, trước đây, chiếc linh phượng hoàng cắm trên bục đá hẳn là do cụ lấy, sau đó cũng là do cụ châm lửa, cụ dẫu không bị Diêm La giết thì cũng sẽ bị cửa vào mang đi.”
Thần Côn lặng thinh, nghe nói khi Đoàn Văn Hi chết không hề có oán khí gì, lúc ấy bà tuổi tác đã cao, nỗi ước ao về đại hoang và “kiếp sau” phỏng chừng đã sớm vượt xa sự quyến luyện đối với nhân gian.
…
Hai năm qua bận rộn gì ư?
Lão cũng đang nghiên cứu “đại hoang”, đáng tiếc là tư liệu quá ít, tiến triển quá nhỏ, thay vào đó, nửa đêm ngủ mê vẫn thường mơ thấy bức tượng điêu khắc người đá Giang Luyện trong hang động lạnh lẽo trống vắng ở Côn Lôn.
Người đá lúc nào cũng cười, khóe miệng khẽ nhếch, phủ lên thân nỗi vắng vẻ hiu quạnh.
Đích đến của chuyến đi này là thành cổ Phượng Hoàng, từ Trương Gia Giới qua đó còn phải đi một quãng đường rất dài.
Thần Côn ngủ một giấc ở trên xe.
Khi tỉnh lại, đã vào tới thị trấn, vừa tới giờ lên đèn, trước mắt phồn hoa, gọi là thành cổ mà lại nằm trong thị trấn, bây giờ là khu thắng cảnh du lịch nổi tiếng cả nước, càng vào đêm càng náo nhiệt.
Liễu Quan Quốc chờ ở cửa vào, đưa Thần Côn đi ăn cơm trước, chọn một quán nhỏ ven sông, gió thổi êm dịu, nếm cá sông Thanh, bánh tiết vịt, cơm niêu treo, thuận tiện ngắm thành Phượng Hoàng vào ban đêm, cũng ngắm du khách nhộn nhịp đi chơi đêm thành Phượng Hoàng.
Trên bàn ăn, gã đưa cho Thần Côn một tấm vé xem kịch ghế VIP: “Cô Mạnh nói chờ anh ở nhà hát, đêm nay mời anh đi xem kịch.”
Thần Côn nhận lấy nhìn.
Cũng giống như “Ấn tượng Lệ Giang”, “Ấn tượng Cửu Trại”, đều là kinh kịch thành cổ.
Vở kịch này tên là “Biên thành”, nghe nói được cải biên từ tác phẩm cùng tên của tác gia nổi tiếng Thẩm Tòng Văn.
Nhà hát cách quán ăn không xa, ăn xong, Thần Côn không cần Liễu Quan Quốc đưa, một mình đi dạo tới đó.
Không ngờ, chỉ một đoạn đường ngắn ngủn mà lại gặp được người quen những hai lần.
Lần thứ nhất là Mạnh Kình Tùng, y ngồi du thuyền đêm, Thần Côn vừa vặn đi ngang qua bên bờ, vội vẫy tay với y, song thần sắc y có vẻ sầu não, cũng không để ý thấy.
Lần thứ hai là Tân Từ và Khúc Tiếu, Thần Côn đang đi lên cầu phong vũ () thì thấy Tân Tư và Khúc Tiếu đi qua trước mặt, lão lại muốn gọi, nhưng hai người đều tâm sự nặng nề, cũng không nhìn thấy lão.
() Là một loại cầu phổ biến ở phía nam Trung Quốc, chỉnh thể được hợp thành từ cầu, tháp, đình.
Thần Côn ngẫm nghĩ rồi quyết định không quấy rầy, nếu đều ở thành Phượng Hoàng cả thì để sau gặp cũng không muộn.
Nhà hát rất lớn, nghe nói có thể chứa đầy được một, hai ngàn người.
Thần Côn tới trước, ghế ngồi của lão là ở hàng trước, cũng ở chính giữa.
Người càng lúc càng đông, dần dần ngồi đầy, huyên náo ồn ào, vị trí bên cạnh lại vẫn trống không. Lão sợ Mạnh Thiên Tư không tới, cứ ngó ra ngoài liên tục, lúc sắp mở màn, rốt cuộc cũng nhìn thấy bóng hình quen thuộc.
Cô đi từ rìa ngoài vào giữa, lúc đi thỉnh thoảng lại cúi đầu nói một câu “Xin lỗi” với người ngồi, Thần Côn nhìn cô càng lúc càng tới gần, mắt bỗng cay cay, vội quay mặt sang chỗ khác.
Một chốc sau, Mạnh Thiên Tư ngồi vào ghế của mình bên cạnh lão, Thần Côn định tranh thủ trước khi mở màn nói gì đó với cô, đắn đo mấy lần, hỏi một câu khuôn sáo cũ rích: “Cô Mạnh, gần đây vẫn ổn chứ?”
Mạnh Thiên Tư nói: “Hai tháng trước me lớn tôi qua đời, trừ chuyện này ra thì mọi sự vẫn ổn.”
Thần Côn lúng túng, cảm thấy mình hỏi quá không thích hợp.
Trong khán phòng tối lại, trên sân khấu đủ ngọn đèn dần sáng lên, cùng lúc đó, Mạnh Thiên Tư hỏi lão: “Thần Côn, ông có nhìn ra tôi thọt chân không?”
Thần Côn “á” một tiếng, lắp bắp: “Sao… Sao…. Sao lại thế? Nhìn… Nhìn không ra.”
Mạnh Thiên Tư cười, ánh đèn trên sân khấu đảo quanh, ánh sáng dát lên đuôi mày khóe miệng cô, cô nói: “Vì khoảng thời gian đó bị thương liên tục, lại không điều trị kịp thời. Có điều còn may, lúc bước đi dùng sức nhiều hơn chút, người khác cũng không nhìn ra. Xem kịch đi.”
Thế là bèn xem kịch.
Trong đầu Thần Côn mơ mơ hồ hồ, không sao yên lòng xem kịch nổi, chỉ biết đây là một vở kịch cảnh thật người thật, kể về một cô gái tên là Thúy Thúy.
Câu chuyện rất đơn giản, Thúy Thúy là con gái nhà đò, cùng ông nội sống nương tựa lẫn nhau, ngày ngày đưa đò kiếm sống.
Hai người con trai nhà thuyền tổng trong thị trấn, anh cả Thiên Bảo, cậu hai Na Tiễn, đều thích cô, mà Thúy Thúy thì yêu thầm Na Tiễn. Hai anh em cạnh tranh công bằng, muốn dùng tình ca giành được trái tim người thương, Thiên Bảo biết mình địch không lại, buồn bã đi xa, lúc đi thuyền không cẩn thận chết đuối.
Tin tức truyền về, Na Tiễn không sao quên được cái chết của anh cả, cũng mượn cớ ra ngoài lang bạt, một đi không trở lại.
Kết truyện, ông nội Thúy Thúy qua đời, một mình cô giữ một con thuyền, ngày qua ngày chờ đợi ở bờ sông.
Vở kịch giữ nguyên cái kết này, đến cuối vở, rất nhiều giọng nói hỏi Thúy Thúy: “Thúy Thúy, cô vẫn đang đợi ư?”
Thúy Thúy đáp: “Vẫn đợi.”
…
Cuối cùng cũng tới lúc tan cuộc.
Khán giả hoặc thổn thức hoặc hưng phấn, vừa thảo luận về vở kịch, vừa lục tục ra ngoài. Mạnh Thiên Tư ngồi yên, Thần Côn cũng bèn ngồi tại chỗ.
Càng về sau, đèn trên sân khấu tắt hết, yên ắng tĩnh lặng, chỉ còn lại phông nền, khán phòng lớn như vậy cũng chỉ còn lại hai người họ.
Thần Côn quay sang nhìn, có nhân viên đại khái là một vào dọn dẹp, bị ngăn lại nói vài câu, cũng bèn tạm thời bỏ qua.
Đúng lúc đó, Mạnh Thiên Tư mở miệng: “Thần Côn, tôi quyết định vào đại hoang.”
Thần Côn không nói gì, cũng không cảm thấy kinh hãi, chỉ thở dài một tiếng thậm thượt trong lòng, tựa hồ đã sớm dự liệu được thời khắc này.
Ánh mắt Mạnh Thiên Tư quanh quẩn trong khoảng không trên sân khấu: “Ông biết không, lần ấy, mấy người bạn của ông tới doanh trại, Giang Luyện rất hâm mộ, ngồi ở phía xa nhìn tha thiết ước ao, hệt như một đứa trẻ không ăn được kẹo vậy.”
“Tôi đi qua hỏi anh ấy, anh ấy mới ấp úng nói, hâm mộ ông có nhiều bạn bè như vậy.”
“Giang Luyện không có nhiều bạn bè lắm, ở một góc độ nào đó, anh ấy thậm chí còn là một người rất cô độc, anh ấy còn nói, sau này phải kết bạn với thật nhiều người, như vậy cuộc sống sẽ rất náo nhiệt.”
“Khi còn nhỏ, anh ấy liều mạng chạy ra khỏi ngọn núi lớn kia, chưa từng có lỗi với bất kỳ ai, có tình có nghĩa có trách nhiệm, tôi không nỡ để anh ấy cứ chạy như thế, chạy vào cái nơi…”
Cô cũng không biết phải hình dung thế nào về nơi đó.
Đại hoang đại hoang, luôn cảm thấy lớn mà mịt mờ, lớn mà mênh mang.
Thực ra cô đã tới Tương Tây được mấy ngày rồi, trước khi tới thành cổ Phượng Hoàng còn làm một chuyến tới rừng đá treo túi mật.
Cô muốn đi thăm con khỉ trắng kia.
Mọi thứ đều rất thuận lợi, thậm chí cô còn chưa xuống tới đáy cốc, đến đài đá lưng chừng cụ Đoàn để lại lời nhắn đã gặp được nó rồi.
Con khỉ trắng đã không còn nhận ra cô, nó đã trưởng thành, khung xương căng ra, là dáng vóc của một con khỉ lớn, không còn ngây thơ đáng yêu như đã từng nữa.
Nó cảnh giác nhìn cô, vừa e dè vừa căng thẳng.
Mạnh Thiên Tư nhìn nó lâu thật lâu.
Sau khi Giang Luyện đi, cô rất ít khóc, càng không điên loạn, chỉ cực thỉnh thoảng, sau một thời gian dài ngẩn người, đưa tay lên lau mặt, phát hiện ra tay dính đẫm lệ mới cầm khăn tay chậm rãi lau đi.
Nhưng lần đó, bỗng chốc không sao cầm nổi, lâu như vậy tới nay, lần đầu tiên thất thanh gào khóc.
Cô không muốn con khi trắng này lớn lên, mong nó vẫn mang dáng dấp trong trí nhớ, cô hi vọng Giang Luyện không thay đổi, hi vọng cả thế này đều không thay đổi, nhưng mọi thứ vẫn cứ thay đổi, như mây trôi giữ không nổi, như gió táp bắt không lại.
Thời gian không thể đảo ngược, quá khứ cũng không thể trở lại, Giang Luyện càng chạy càng xa, bây giờ cô còn không đuổi theo, e rằng sẽ không bao giờ đuổi kịp được nữa.
…
Mạnh Thiên Tư chỉ tay lên sân khấu trống không: “Tôi tới Phượng Hoàng trước ông hai ngày, cũng đã xem vở kịch này từ trước rồi. Vào thời đó, Thúy Thúy đã được tính là rất dũng cảm rồi, thà rằng một mình thủ giữ cũng vẫn muốn chờ đợi. Nhưng tôi lại nghĩ, tại sao cô ấy không ra ngoài tìm?”
Thần Côn nói: “Chắc là do chịu hạn chế của thời đại và điều kiện khách quan, khi đó chiến tranh loạn lạc, cô ấy chỉ là một cô gái, đến thị trấn cũng rất ít khi đi, bảo cô ấy ra ngoài tìm đâu có dễ dàng vậy.”
Mạnh Thiên Tư ừ một tiếng: “Tôi cũng nghĩ vậy. May mà tôi không phải cô ấy, tôi dám đi tìm, cũng có thể đi tìm. Tôi không muốn chờ, tôi thà chết trên đường đi tìm cũng không muốn chết dưới mái hiên.”
“Các ông đều không biết đại hoang là cái gì, nhưng không sao, bất kể chỗ đó có cái gì, chỉ cần Giang Luyện ở đó, tôi sẽ đi tìm anh ấy, sống bên nhau, chết cùng nhau, tôi muốn Giang Luyện biết rằng anh ấy sống không cô đơn, chết cũng không lẻ loi, dù thế giới của anh ấy không còn gì nữa, tôi cũng vẫn ở đó.”
Thần Côn lẳng lặng lắng nghe, lão biết Mạnh Thiên Tư không phải là đang hỏi ý kiến lão, chỉ đang thông báo với lão một quyết định không còn đường thay đổi nữa mà thôi.
Hồi lâu sau, lão mới nói: “Cô Mạnh, cô có ý định này từ rất lâu rồi phải không?”
Từ rất lâu rồi, kể từ khoảnh khắc Giang Luyện vào sống thang trời đã có.
Chỉ là sau đó, ốm nặng một trận, khi tỉnh lại, người đã ở Phường Quế Non, cách xa Côn Lôn Sơn, các cô bác lại thay nhau ở bên cô, sợ cô nghĩ quẩn.
Cô lại trất bình tĩnh, nghĩ, vậy cũng tốt, Giang Luyện biệt ly quá gấp gáp, mà mình thì có thể thong dong hơn chút.
Hai năm qua, cô đi thăm từng sản nghiệp của quỷ non, cũng bắt đầu gặm báo cáo của cải, những chuyện này trước đây đều là do Mạnh Kình Tùng quản lý, cô đến liếc mắt cũng lười.
Sau khi xem xong, cô cảm thấy rất vui mừng, sản nghiệp của quỷ non đã sớm là một hệ thống vận hành tốt đẹp, cái cô bàn giao ra sẽ không phải một cục diện rối rắm, mà không có cô, toàn cục cũng chẳng tổn hao gì nhiều.
Cũng giống như ngai vàng quỷ non từng để trống ba mươi hai năm song cũng chẳng làm sao, ngai vàng chỉ là hoa dệt trên gấm, gấm không hoa cũng vẫn là gấm.
Cao Kinh Hồng hai tháng trước đã qua đời, vậy cũng tốt, me lớn lo lắng cho cô cả nửa đời, rất sợ người đầu bạc tiễn kẻ đầu xanh, hiện giờ đã không còn nỗi lo âu này nữa.
Cô đi Thái Sơn, từ biệt u hai Đường Ngọc Như, Đường Ngọc Như rửa quả cà chua đỏ ối trong nước suối mát lạnh, dúi cho cô, nhìn cô ăn xong rồi mới nói: “Con gái lớn u không quản được nữa rồi.”
Cô đi núi Thanh Thành, bái biệt u ba Nghê Thu Huệ, Nghê Thu Huệ trầm mặc một lát, nói: “Muốn đi thì đi đi, thằng bé Giang Luyện đó cũng cực khổ nhiều rồi, hai đứa ở bên nhau, còn có thể chăm sóc cho nhau.”
Cô đi Vũ Hán, hầu Thù Bích Ảnh ăn một bữa tôm hùm đất, Thù Bích Ảnh một mực cắm đầu vào bóc tôm, cả nửa ngày sau mới cất tiếng: “Bé Thiên, hay là con chờ thêm chút nữa đi? Biết đâu hai năm nữa, Giang Luyện lại trở về thì sao?”
Cô còn ăn chung một bữa với mẹ ruột của mình, người phụ nữ đó xuống bếp, nấu cho cô cả một bàn thức ăn, vừa khách khí vừa mất tự nhiên chiêu đãi cô, còn hỏi cô: “Cô Mạnh, sống cùng các cô bác tốt lắm phải không?”
Cô gật đầu nói phải.
Người phụ nữ đó vui mừng vô cùng, nói: “Các cô bác đều là người có kiến thức, sống bên họ tốt hơn với tôi nhiều. Cô có phúc, tốt số lắm mới có cơ hội này đấy.”
…
Ràng buộc nhân gian, vạn sợi ngàn tia, cô đoạn tục từng sợi, từ từ rời cành.
Mạnh Thiên Tư nói với Thần Côn: “Ông là người cuối cùng tôi thông báo rồi, u hai u ba đã có tuổi, không muốn gặp thêm cảnh chia ly nên không đi tiễn tôi, u năm không lên được cao nguyên, có lòng mà không có sức. U tư u sáu u bảy, Kình Tùng và Tân Từ, còn cả Huống Mỹ Doanh và Vi Bưu nữa, đều sẽ tới Côn Lôn. Ông xem, có thời gian đừng ngại tiễn tôi một đoạn đường, không muốn đi thì coi như tôi cáo biệt ông ở đây.”
Thần Côn vội gật đầu: “Tôi đi, đi chứ, đương nhiên là đi rồi.”
Mạnh Thiên Tư nói: “Vậy được, tôi sẽ nói với Kình Tùng, thêm ông vào.”
Cô không nói thêm gì nữa, đứng dậy ra ngoài.
Thần Côn không đi cùng, chỉ ngồi yên ở đó nhìn bóng lưng cô.
Cô đi rất vững, nhìn không ra có bất kỳ vấn đề bất tiện gì trong việc đi lại, bất cứ lúc nào, Mạnh Thiên Tư cũng là người chú ý tư thái.
Thần Côn chợt nhớ tới Cát Đại tiên sinh.
Cát Đại tiên sinh xem quả nhiên là chuẩn, đoạn tục rời cành vào đại hoang, cuối cùng, Mạnh Thiên Tư vẫn quyết định vào đại hoang.
Các cô bác đề phòng nghiêm ngặt bao lâu như vậy, cuối cùng vẫn hiểu lầm ý của Cát Đại, cái gọi là “Vô tình giữ mạng”, “Tuyệt tình đoạn ái”, hẳn là nói, nếu Mạnh Thiên Tư có thể không dành tình cảm quá sâu đậm cho Giang Luyện thì có lẽ cô có thể lật trang này qua, bình yên sống tiếp nửa quãng đời còn lại của mình.
Nhưng rốt cuộc, cô không làm được.
Thần Côn ngồi thêm một lúc rồi mới uể oải đứng dậy, chậm rãi đi ra ngoài, cửa ra hãy còn một nhân viên đứng canh, thấy Thần Côn đi ra, thở phào một hơi, nói với bộ đàm: “Người đã đi hết, tan cuộc rồi.”
Thần Côn nghe vậy quay đầu.
Trong sát na ấy, mấy chiếc đèn cuối cùng còn bật sáng trong khán phòng cũng tắt mất, bóng tối sà xuống trước mặt.
Không còn người xem.
Khúc đã tẫn.
Tan cuộc rồi.